Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vận dụng linh hoạt ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả bài học, phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy – học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Phần mở đầu

2

1.1. Lý do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung của sáng kiến

3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến


3-4

2.2. Thực trạng

4-5

2.3. Các giải pháp thực hiện

5 - 18

2.4. Hiệu quả của các biện pháp

19

3. Kết luận, kiến nghị

19

3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với các cấp quản lí về giáo dục.
3.2.2. Đối với Giáo viên
3.2.3. Đối với học sinh.
Tài liệu tham khảo:

19 - 20
20
20
20
20 - 21

21

1


1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài .
Một đất nước muốn phát triển biền vững thì phải có những con người tài giỏi.
Có đủ đức, đủ tài, vậy để có những con người hội tụ đầy đủ phẩm chất thì không
ai khác ngoài những con người làm trong ngành giáo dục. Cho nên giáo dục là
ngành có tầm quan trọng rất lớn đặc biệt trong công cuộc xây dựng CNXH trong
giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay. Nhiệm vụ của
những người làm công tác giáo dục, phải đào tạo nên một thế hệ trẻ có đủ tài, đủ
đức, có sức khoẻ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Giáo dục đào tạo thế hệ trẻ
trên tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhưng trong lĩnh vực
khoa học xã hội có một bộ môn hết sức quan trọng không thể thiếu được đó là
môn lịch sử.
Đối với môn lịch sử (môn học có thể xem là rất khó đối với học sinh trong giai
đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế thị trường phát triển, công nghệ thông tin bùng
nổ ). Muốn đạt được mục tiêu trên cần có sự sáng tạo, đổi mới của người thầy
trong cách truyền đạt kiến thức. Đã có nhiều hội thảo, chuyên đề được thực hiện
nhằm đổi mới phương pháp dạy học để chất lượng giảng dạy được nâng cao.
Nhiều các phương pháp dạy học được thực hiện trong quá trình lên lớp : Đổi
mới kiểm tra đánh giá, đổi mới các biện pháp, kỹ thuật dạy học và đặc biệt là áp
dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học
Áp dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học đã được thực hiện
trong những năm gần đây và đang tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, có rất
nhiều hình thức, biện pháp sử dụng công nghệ thông tin để làm nổi bật trọng tâm
bài giảng, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Sử dụng giáo án điện tử là một trong
những hình thức ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy.

Hiện nay có khá nhiều giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học,
nhằm truyền đạt kiến thức cho học sinh. Qua kiểm nghiệm thực tế có nhiều tiết
dạy rất thành công, song cũng có giờ chưa đạt được mục tiêu bài học. Cần có
những biện pháp nào để ứng dụng công nghệ thông tin mang lại hiệu quả cao
nhất ? Đó chính là một số kinh nghiệm mà tôi muốn trình bày trong bài viết của
mình : “ Vận dụng linh hoạt ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu
quả bài học, phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy – học Lịch sử ”.
Đề tài này của tôi mong muốn chủ yếu là góp phần vào công tác giáo dục
các em học sinh nắm vững những kiến thức lịch sử của dân tộc và thế giới qua
bộ môn lịch sử. Với việc tiếp thu lịch sử tốt qua các kênh hình lược đồ, qua các
câu chuyện, tranh ảnh, nhằm làm sinh động, hấp dẫn hơn đối với tiết học lịch sử.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu, chương trình SGK, về phương pháp dạy học lịch sử.
Nghiên cứu thực trạng của việc dạy- học môn lịch sử trong trường THCS
Minh Sơn.
Đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc về kiến thức và phương pháp dạy
học, từ đó có thêm kinh nghiệm để dạy tốt môn lịch sử, đáp ứng nhu cầu đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử THCS hiện nay.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trường THCS Minh Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phương pháp quan sát: Theo dõi quá trình học sinh khai thác kênh hình.
Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối chiếu kết
quả nghiên cứu.
Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài liệu,

thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.
2. Nội dung của sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận:
Bác Hồ đã nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người ”. Để thực hiện lời dạy của Bác và phát triển sự nghiệp giáo dục, Đảng và
nhà nước đã có đường lối chính sách cụ thể cho từng giai đoạn. Chiến lược phát
triển giáo dục của Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu rõ : “Từng bước phát triển giáo
dục dựa trên công nghệ thông tin và đa phương tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong
hệ thống quản lý giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người
học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học ”. Như vậy ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học là một trong những biện pháp đổi mới phương
pháp dạy học, thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và nâng cao chất lượng giờ
học, phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học sẽ giúp giáo viên tạo bài giảng phù
hợp nhu cầu học sinh, giúp học sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức.
Đặc biệt nó sẽ giúp giáo viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều :
Giáo viên – Học sinh và ngược lại. Điều này phù hợp với quan điểm của Bộ giáo
dục và đào tạo vì “ học” là quá trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái
tạo và phát triển thông tin, “dạy” là quá trình phát thông tin và giúp người học
thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả .
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học sẽ giúp học sinh tiếp nhận được
nội dung bài học hiệu quả hơn và sẽ biến nhiều thông tin đó thành kiến thức của
mình. Đồng thời nó cũng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, khai thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội kiến thức
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học giúp giáo viên rút ngắn thời gian
không cần thiết để có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có
vấn đề, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình
dung và có khái niệm chính xác về các sự vật, hiện tượng, biểu tượng lịch sử.
Như vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học là
một nhu cầu cấp thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam. Nó giúp học sinh chủ

động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi được tiếp xúc với nhiều nguồn tài
liệu khác nhau. Từ đó hình thành cho người học kỹ năng tự tiếp thu tri thức, độc
lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập.
3


Lịch sử là những gì đã diễn ra theo thời gian trong toàn bộ quá trình phát
sinh, phát triển của con người và xã hội loài người. Nó đã tồn tại cách chúng ta
hàng triệu năm, do đó việc tiếp cận và tái hiện lại lịch sử gần giống như nó đã
tồn tại là một việc rất khó khăn. Khi áp dụng Công nghệ thông tin vào quá trình
dạy học sẽ cung cấp cho HS được những tư liệu chữ viết và hình ảnh hết sức
sinh động, thông qua đó học sinh có thế dễ dàng nắm được nội dung bài một
cách chủ động.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính thời đại. Mang tính lịch sử vì đáp ứng được quá trình dạy học lịch sử:
Truyền đạt những kiến thức cơ bản nhất, cần thiết nhất, tái hiện được những gì
đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác, khoa học mà không khô khan,
nhàm chán. Nó mang tính thời đại vì phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực tế hiện
nay chính là sự phát triển của công nghệ thông tin. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học đang là xu hướng của tất cả các nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới mà nước ta cũng đã và đang thực hiện.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đáp ứng được yêu cầu đặc thù
của môn học và tâm sinh lý lứa tuổi. Bản chất của lịch sử là những sự kiện, hiện
tượng, biểu tượng lịch sử. Tái tạo lại lịch sử đòi hỏi cần phải đảm bảo sự chính
xác, không bị bóp méo hay xuyên tạc. Nếu không có sự truyền đạt sáng tạo của
GV thì những con người, con số, các giai đoạn lịch sử hào hùng chỉ là những
con số khô khan, những hình ảnh sẽ nhanh bị lãng quên trong kí ức học trò. Với
việc áp dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học, những con số vô hình,
những ngọn núi, tên sông, từng tấc đất của cha ông đều trở thành những bản
hùng ca bất tử. Học sinh THCS đang trong giai đoạn phát triển nhận thức từ trực

quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Do đó ứng dụng CNTT vào
dạy học cung cấp cho các em những tư liệu trực quan sinh động (bản đồ, lược
đồ, hình ảnh, chân dung các anh hùng dân tộc, phim tư liệu) giúp các em biết và
hiểu được bản chất của vấn đề.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
Ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy không chỉ còn là lý thuyết mà thực tế
đã được thực hiện ở nhiều cấp học khác nhau. Mặc dù mỗi cấp học đều có mục
tiêu khác nhau nhưng đều có một yêu cầu chung đó chính là: Làm nổi bật trọng
tâm bài dạy, phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh, lấy người học làm
trung tâm, học sinh biết áp dụng kiến thức tiếp thu được vào thực tiễn. Để ứng
dụng CNTT vào trong giảng dạy có hiệu quả nhiều bài giảng điện tử được thiết
kế công phu và mang tính thực tiễn, khả thi.
Đối với bậc THCS nói chung và trường THCS Minh Sơn nói riêng, việc ứng
dụng CNTT vào trong giảng dạy đã và đang được thực hiện một cách tích cực.
Mặc dù vẫn còn hạn chế nhưng việc việc ứng dụng CNTT vào trong quá trình
truyền đạt kiến thức đã tạo cho giờ học có hiệu quả hơn.
Đối với môn Sử: Đại đa số giáo viên ứng dụng CNTT vào trong dạy học
thông qua các sile, thông qua các kĩ thuật vi tính, kết hợp với kĩ thuật lên lớp
giáo viên đã tạo cho học sinh hứng thú môn học.
4


Nhiều giáo viên đã bỏ công sức và thời gian để xây dựng kế hoạch bài dạy
điện tử có tính khả thi cao. Những bài giảng điện tử đã được sử dụng như
phương tiện lên lớp đặc biệt. Cũng từ những bài giảng đó giáo viên đã khéo léo
đem đến cho học sinh những nội dung cần thiết, đồng thời tạo cho học sinh
những định hướng sau này. Ứng dụng CNTT là một trong những hình thức tự
học, tự bồi dưỡng rất hiệu quả. Muốn có những bài giảng sinh động GV phải tìm
tòi những thông tin, hình ảnh, biểu tượng phù hợp với nội dung bài học và vận
dụng một cách linh hoạt vào trong bài dạy. GV không chỉ cung cấp cho HS mà

còn tự bổ sung kiến thức cho chính mình. Ứng dụng CNTT vào trong dạy học
còn giúp giáo viên nâng cao trình độ sử dụng máy vi tính. Việc chèn hình ảnh, tư
liệu; việc sử lý bản đồ, lược đồ trong nội dung bài yêu cầu giáo viên phải thật
thành thạo mới thực hiện được. Chính vì vậy trường Minh Sơn đã tổ chức được
nhiều buổi sinh hoạt chuyên môn để trao đổi kinh nghiệm giảng dạy nói chung
và kinh nghiệm ứng dụng CNTT như thế nào cho hiệu quả nói riêng. Nhiều hình
thức và biện pháp ứng dụng CNTT đã áp dụng trong nhà trường được giáo viên
thực hiện có kết quả cao.
Đối với HS: HS rất hứng thú với việc tiếp thu bài thông qua quá trình truyền
đạt kiến thức của GV khi có ứng dụng CNTT. HS được tiếp thu thêm lượng
thông tin bằng kênh hình, kênh chữ ngoài SGK. HS ghi nhớ bài nhanh và sâu
hơn các sự kiện bằng những hình ảnh, HS có thể thuộc ngay diễn biến của một
cuộc khởi nghĩa hay một chiến dịch qua việc trình bày của GV trên màn hình
máy chiếu. Hơn thế nữa HS có thể phân tích, so sánh, đối chiếu rút ra kết luận
qua các tư liệu lịch sử mà GV sử dụng.
Như vậy với việc ứng dụng CNTT vào dạy học GV Minh Sơn đã đem đến cho
HS những bài giảng hấp dẫn, sinh động. Thông qua những bài giảng đó khuyến
khích, phát huy được tính tích cực của HS. HS hào hứng chủ động tìm tòi để
nắm vững nội dung, kiến thức của bài.
2.3. Giải pháp thực hiện
Qua quá trình thực hiện ứng dụng CNTT vào dạy học tôi nhận thấy có một số
biện pháp chính để sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả, phát huy tính tích cực
của HS:
1- Ứng dụng CNTT - Phương tiện hỗ trợ làm nổi bật trọng tâm bài giảng.
Đối với biện pháp này thường dùng cho những bài giảng GV vẫn sử dụng
bảng đen để ghi những phần mục và kiến thức cơ bản của bài. Đến phần nào của
bài cần có tư liệu hoặc bản đồ, lược đồ, tranh ảnh hoặc phim tài liệu để làm nổi
bật trọng tâm của bài thì GV đưa lên màn hình .
a.Tác dụng (ưu điểm) :
HS khai thác được các tư liệu hình ảnh, phim tài liệu bằng việc trả lời các câu

hỏi của GV. Thông qua đó HS sẽ hiểu rõ nội dung bài bằng trực quan sinh động
chứ không phải là học thuộc một cách máy móc .
Khi trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa hay chiến dịch quan trọng bằng công
nghệ thông tin giúp HS ghi nhớ được các sự kiện, các mốc … quan trọng một
cách tự nhiên chứ không phải khô khan, nhồi nhét.
5


b. Cách thực hiện:
Khi dạy đến phần nội dung bài cần làm rỏ bằng bản đồ, lược đồ, tư liệu chữ
viết, hình ảnh…GV đưa bản đồ, lược đồ, hình ảnh, tư liệu…lên màn hình. GV
đặt câu hỏi để HS khai thác thông tin, hoặc hình ảnh để làm rỏ nội dung bài.
+ Sử dụng bản đồ, lược đồ
Khi dạy đến diễn biến một cuộc khởi nghĩa hay một chiến dịch GV đưa bản
đồ, lược đồ lên máy chiếu. Cho HS đọc phần chú giải (GV có thể giải thích một
số chú giải HS khó hiểu)
GV dùng chuột hoặc que chỉ (điện tử) để hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung
diễn biến qua lời tường thuật của GV. Trong khi tường thuật GV có thể dừng ở
những điểm quan trọng đưa ra những câu hỏi hoặc những thông tin cần thiết mở
rộng nội dung để HS hiểu bài. Sau khi tường thuật xong, GV cho HS tường thuật
lại bằng cách: GV đưa lên màn hình lược đồ, bản đồ trống, HS tường thuật, cho
HS khác nhận xét bổ sung (nếu chưa đủ). Sau đó GV cho HS quan sát lại trận
đánh bằng cách nháy chuột cho các hiệu ứng xuất hiện.
VD: Bài 26 - Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống TD Pháp
(1950 - 1953)
Phần I - Mục 2: Quân ta tiến công địch ở biên giới phía Bắc
GV đưa lược đồ Chiến dịch biên giới thu đông 1950 lên màn hình.

Lược đồ Chiến dịch biên giới thu đông 1950
GV hướng dẫn HS tìm hiểu chú thích. GV tường thuật diễn biến chiến dịch

biên giới trong khi tường thuật GV sử dụng câu hỏi để khai thác nội dung bài:
Vì sao ta đánh Đông Khê trước mà không đánh những nơi khác? Qua đó HS
thấy rõ sự sáng tạo của Đảng ta. GV tường thuật xong cho HS tường thuật lại.
GV cho chạy các hiệu ứng như HS tường thuật
VD: Bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
kết thúc 1953 – 1954
- Phần II - Mục 2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954.
6


GV đưa lược đồ: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 lên màn hình máy chiếu.
Hướng dẫn HS tìm hiểu chú thích. GV tường thuật diễn biến chiến dịch qua
3 đợt. Sau khi tường thuật xong đợt 1, GV kể cho HS nghe chi tiết: Tướng giặc
Pi-ốt khi nghe tiếng pháo của quân ta đã phải tự tử trong hầm của mình. Lính
Pháp sợ hãi chôn Pi-ốt ngay dưới chân giường của hắn và báo tin Pi-ốt tử
thương vì trúng đạn.
GV hỏi HS: Chúng ta tiêu diệt căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc có
ý nghĩa như thế nào ? (Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân
dân dân ta: Có hậu phương rộng lớn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến,
động viên tinh thần chiến sĩ, làm lung lay ý chí của kẻ thù.)
Trong khi tường thuật đợt 2, GV đặt câu hỏi: Việc đào hào ở Điện Biên Phủ
có tác dụng như thế nào? (Các dãy giao thông hào như những chiếc thòng lọng
thít chặt dần cuống họng của Pháp. . .)
Với những hiệu ứng hợp lí, với kĩ thuật vi tính thành thạo, với những lời nói
hấp dẫn GV đã đưa HS quay trở lại những trận đánh thật hào hùng của quân và
dân ta. Không còn là những con số vô hình, không còn là những tên đất, tên
người xa lạ, mà tất cả đã in sâu trong tâm trí học trò những trang sử oanh liệt.
* Lưu ý:
Không cho HS tường thuật trước, sau đó GV mới tường thuật. Do HS không
thể tường thuật một cách sinh động, lưu loát được như GV nên khi 1 HS tường

thuật những HS khác chỉ nhớ được một vài sự kiện, đến khi GV tường thuật
không còn sự thu hút HS nữa. GV tường thuật trước tạo cho các em sự hào
hứng, tò mò, thích thú, dễ tiếp nhận các sự kiện. Sau đó cho 1HS tường thuật lại,
các em khác sẽ theo dõi để kiểm tra bạn có trình bày đúng như GV đã thực hiện
hay không. Chính việc HS chú ý bạn tường thuật, đã tạo cho các em chủ động
nắm nội dung của bài. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả bài học và phát huy
tính tích cực của HS
+ Sử dụng tư liệu chữ viết:
Khi đưa tư liệu chữ viết lên màn hình GV cần chọn những dữ liệu phục vụ đắc
lực cho nội dung bài. Những tư liệu đó phù hợp với bài giảng, làm nỗi bật kiến
thức cơ bản. Từ việc khai thác nội dung tư liệu để hình thành kiến thức cơ bản
của bài. GV cần có những câu hỏi phù hợp để sử dụng tư liệu một cách hiệu quả
nhất.
VD: Bài 26: Quang Trung xây dựng đất nước - Lịch sử 7
Phần 1: Phục hồi kinh tế, xây dựng văn hoá dân tộc
Mục a - Nông nghiệp
GV đưa tư liệu trích đoạn “Chiếu khuyến nông ” lên màn hình:
Trích nội dung : Chiếu khuyến nông
“Từ khi binh lửa luôn năm, lại thêm những đói kém, nhân dân xiêu dạt, đồng
ruộng bỏ hoang, nên thực số đinh điền không bằng bốn, năm phần mười thủa
trước. Phàm những dân nào trước đó kiều ngụ tha phương, trốn tránh lao dịch
hoặc vì có thê hương mẫu quán mà đến ở, hoặc vì buôn bán làm ăn mà ngụ cư,
hễ được vào làng ở sở tại từ ba đời trở lên thì mới ra ở, còn ngoài ra bắt về bản
7


quán hết thảy, biệt xã không được chứa chấp. Những ruộng công, ruộng tư đã
trót bỏ hoang, nay đều cho về nhận lấy cầy cấy, không được bỏ bê trễ……”
GV yêu cầu HS đọc đoạn trích. Sau khi HS đọc xong GV hỏi HS:
“Qua nội dung chiếu khuyến nông em hiểu được những gì?” (Quang Trung

kêu gọi nhân dân tha hương trở về quê làm ăn, nhận ruộng công, ruộng tư bỏ
hoang để cày cấy)
? Việc Quang Trung ra “Chiếu khuyến nông ” có tác dụng như thế nào đối với
nông nghiệp? ( Diện tích đất trồng mở rộng, sản phẩm tăng, thúc đẩy nền nông
nghiệp phát triển, ...đời sống nhân dân ổn định )
* Lưu ý: Không đưa tư liệu chữ viết đã có trong SGK lên màn hình.Vì như vậy
vừa mất thời gian đánh vi tính nội dung đã có sẵn, vừa làm cho HS không hào
hứng vì đã biết khi chuẩn bị bài ở nhà. Đưa tài lệu từ ngoài vào, vừa mở rộng
nội dung bài lại vừa khắc sâu kiến thức cơ bản trong khuôn khổ cho phép
Không sử dụng tư liệu chữ viết để minh hoạ cho nội dung bài giảng. Nếu
đưa nội dung cơ bản của bài trước sau đó mới đưa thì bài học sẽ không có hiệu
quả, kiến thức bài sẽ mờ nhạt
+ Sử dụng tư liệu hình ảnh, phim tài liệu:
GV chuẩn bị những hình ảnh, phim tư liệu..cần thiết cho tiết dạy. Khi dạy đến
một phần nào đó trong bài, trước khi cho xuất hiện nội dung bài, GV đưa hình
ảnh, phim tư liệu lên máy chiếu. Cho HS quan sát, sau đó GV đặt câu hỏi để
khai thác sự hiểu biết của HS về hình ảnh, phim tư liệu. Từ đó GV phân tích,
khái quát, kết luận hình thành kiến thức trọng tâm.
Với biện pháp này, từ việc quan sát trực quan sinh động, thực tế đã giúp HS
hiểu bài, nắm chắc nội dung cơ bản. GV không mất thời gian để treo tranh hoặc
cất tranh, thời gian giành cho các hoạt động khác sẽ nhiều hơn. Hơn thế nữa
thực tế trong phòng thiết bị, thí nghiệm của các trường bộ tranh ảnh, cần phục
vụ cho bài giảng rất ít, hoặc đã hư hỏng, chất lượng kém không đủ đáp ứng nhu
cầu để phục vụ cho các giờ dạy trên lớp
VD: Bài 12: Đời sống kinh tế, văn hoá - Lịch sử 7
Phần II: Sinh hoạt xã hội và văn hoá. Mục 2: Giáo dục và văn hoá
GV đưa hình ảnh Văn Miếu Quốc tử giám lên màn hình

GV yêu cầu HS quan sát và trả lời câu hỏi:
8



? Em biết được những gì về những hình ảnh trên?
(HS trả lời – GV cung cấp thông tin cho HS:
Bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Hà Nội được coi như những pho sử
đá về giáo dục nho học Việt Nam. Văn bia ghi lại lịch sử cụ thể của từng khoa
thi. Các bài văn bia đều do những danh nhân văn hóa, trí thức lớn của đất nước
soạn nên về cơ bản đều là những tác phẩm văn học vô giá. Bia được đặt trên lưng
con rùa đá để biểu thị sự trường tồn của tinh hoa dân tộc.)
Qua đó em cho biết: Về giáo dục thời Lý có những điểm gì lưu ý ?
HS trả lời – GV kết luận đưa ra kiến thức cơ bản
- GV đưa hình ảnh: Chùa một cột, Tượng Phật A-di-đà ngồi kiểu thuyết pháp,
Tháp bảo thiên , hình rồng thời Lý lên màn hình.

9


GV yêu cầu HS quan sát, sau đó trả lời một số câu hỏi để khai thác kênh hình
để làm rõ nội dung dạy học :
? Em biết được những gì qua các hình ảnh trên ?
Sau khi HS trả lời GV cung cấp cho HS một số thông tin:
- Chùa Một Cột (Chùa Diên Hựu – Phúc lành dài lâu), được xây năm 1049 thời
vua Lý Thái Tông. Theo truyền thuyết, khi vua về già chưa có con trai nên nhà
vua thường đến chùa cầu tự. Một đêm,vua mơ thấy Đức Phật Quan Âm hiện lên
đài hoa sen ở một hồ nước phía tây thành Thăng Long, tay bế con trai đưa cho
nhà vua. Ít lâu sau, hoàng hậu sinh con trai. Nhà vua cho dựng chùa Một Cột có
dáng dấp như đã thấy trong giấc mơ để thờ đức Phật Quan Âm.Chùa được đặt
trên 1 cột đá cao giống như ngó sen. Bên trên cột là ngôi chùa giống như bông
Sen mọc trên mặt nước. Chùa có cấu tạo hình vuông, mỗi bên 3m, mái cong, cột
đá có đường kính 1,2m, cao 4m. Gồm 2 trụ đá ghép lại với nhau rất khéo, thoạt

nhìn như một khối liền. Tầng trên hoàn toàn bằng gỗ, có một hệ thống mộng
giằng chéo từ cột lớn đến sàn, không chỉ tạo thế vững chắc mà còn đem lại nét
lượn đẹp như những cánh sen.
- Tượng phật được làm bằng đá, cao gần 2m, được chia thành hai phần: tượng và
bệ đá hoa sen. Tượng phật A-di-đà được xếp bằng tròn, hai bàn tay để ngửa và
xếp chồng lên nhau ngay trước bụng. Cả thân tượng ngồi tĩnh tọa trên đài sen.
Nếp áo dài buông xuống phủ kín hai bàn chân. Khuôn mặt phật hiền từ với đôi
tai dài, đôi mắt lim dim vẻ suy tư. Bệ đá hình một bông sen nở rộ...Chiêm bái
pho tượng chính là để cảm nhận và thực tập triết lí sống thanh tịnh, từ bi, hỉ xả
muôn đời bất diệt.
- Toàn bộ con rồng có hoa văn uốn lượn theo hình chữ S, tượng trưng cho mây,
mưa, sấm, chớp. Thân Rồng uốn hình Sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm,
biểu trưng cho sự thay đổi thời tiết theo năm, tháng, sự trù phú và phồn vinh của
nền nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại, uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả
năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con Rồng cai quản thời tiết, mùa
màng. Đầu rồng luôn hướng lên đớp lấy viên ngọc, thể hiện tinh thần tôn trọng
các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.
? Qua những hình ảnh trên em biết được những gì về kiến trúc và điêu khắc thời
Lý?
Sau khi HS trả lời GV kết luận và đưa ra kiến thức cơ bản
*-Lưu ý:
Không đưa quá nhiều tư liệu hình ảnh lên màn hình. Vì như vậy việc khai
thác tư liệu sẽ làm mất thời gian của tiết học, các phần khác không còn thời gian.
Hơn thế nữa nhiều tư liệu quá sẽ làm cho kiến thức trọng tâm không được nổi
bật, HS bị phân tán, bài giảng sẽ bị “ loãng”…
Khi không cần sử dụng đến tư liệu, hình ảnh thì GV cần phải cất ngay (cho
máy chiếu sang Sile trắng) để HS không phân tán vì các hình ảnh hoặc tư liệu
Không nên đưa hình ảnh, phim tư liệu lên sau khi đã hình thành kiến thức cơ
bản. Nếu đưa lên sau, những thông tin ấy chỉ có tác dụng minh họa cho nội dung
bài mà không góp phần tích cực vào việc hình thành kiến thức mới

10


Hình ảnh, phim tư liệu…Khi sử dụng cần rõ ràng, chính xác, có cơ sở khoa
học, không đưa theo ý chủ quan cá nhân
2. Ứng dụng công nghệ thông tin để soạn bài giảng điện tử.
Ứng dụng công nghệ thôngt tin để soạn bài giảng điện tử là quá trình đưa
toàn bộ phần kiến thức trọng tâm bài giảng của GV lên màn hình máy chiếu.
Không chỉ mình phần kiến thức cơ bản của bài mà cả phần tư liệu chữ viết, hình
ảnh, bản đồ, lược đồ.
Đây là hình thức truyền đạt đến HS nội dung của bài rất công phu, đòi hỏi GV
phải thành thạo vi tính, đồng thời hiểu rõ trọng tâm của bài mới có thể thực hiện
tốt được.
a- Tác dụng của việc dạy bằng giáo án điện tử.
- Tiết kiệm dược thời gian cho HS:
Thay bằng những phần ghi bảng đen, GV đưa những kiến thức cơ bản của bài
lên màn hình. Chỉ cần nhấn chuột thì các kiến thức cần có đã có trên màn hình.
Trong một tiết học, nếu ghi bảng GV phải mất từ 7 – 10 phút, đây là khoảng thời
gian rất quý đối với HS. Do GV đã chuẩn bị ở nhà, đến lớp chỉ việc trình chiếu
nên thời gian đó GV sử dụng để kiểm tra mức độ nhận thức của HS: cho HS làm
bài tập, cho HS chơi trò chơi, cho HS tường thuật lại diễn biến . . .
- Kiểm tra được việc tiếp thu, ghi chép bài của HS:
Có GV cho rằng: Nếu chỉ dạy bằng máy chiếu, đưa kiến thức trọng tâm lên
màn hình thì HS không biết cách ghi, khó nắm nội dung bài. Đó là quan niệm
hoàn toàn sai lầm. Với HS, nếu chúng ta ghi bảng hoặc đọc cho HS ghi thì sẽ
quay trở lại cách dạy: “ thầy đọc - trò chép, thầy ghi trước - trò chép sau ”. Đây
là việc làm hết sức “nguy hiểm” cho thế hệ trẻ.
Dưới sự hướng dẫn của GV, bằng những câu hỏi gợi mở, câu hỏi khai thác
kênh hình, kênh chữ HS sẽ biết tự ghi kiến thức cơ bản vào vở, vào trí nhớ của
mình. Nếu không chủ động tiếp thu bài, HS sẽ không ghi được nội dung mà GV

đã truyền đạt.
- Góp phần nâng cao kỹ thuật sử dụng máy vi tính của GV:
Dạy bằng giáo án điện tử đòi hỏi GV phải thành thạo máy vi tính. GV phải
biết chọn các hiệu ứng hợp lí cho từng nội dung bài. GV phải biết liên kết các
Sile để khi thực hiện không bị đảo lộn quá trình, nội dung bài giảng. Chính vì
vậy thường xuyên dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp GV nâng cao trình độ sử
dụng máy vi tính.
b- Cách thực hiện:
GV dùng các hiệu ứng để thực hiện bài giảng của mình. Thay bằng việc viết
ra viết ra bảng đen là phần chiếu lên màn hình lần lượt được thực hiện.
Tiết – Tên bài – Các mục: I, 1, 2, . . . II, 1, 2, …..
Mục I: 1.…: GV đưa phần kiến thức cơ bản.
Sau mỗi đơn vị kiến thức cơ bản, nếu cần phải mở rộng, khắc sâu GV đưa
câu hỏi để phân tích, khắc sâu kiến thức cơ bản.

11


Hoặc: Muốn xuất hiện một đơn vị kiến thức cơ bản mà có hình ảnh hay phim tư
liệu thì GV đưa tư liệu, hình ảnh trước, sau đó đưa hệ thống câu hỏi khai thác tư
liệu hoặc tranh ảnh
(Ở phần này khi sử dụng các nguồn thông tin được thực hiện như: Phần 1 Mục b – Sử dụng tư liệu chữ viết, hình ảnh, phim tư liệu, bản đồ, lược đồ
lên màn hình)
GV có thể dùng hai cách để đưa phần kiến thức cơ bản và các nguồn thông tin:
- Đối với GV chưa thực sự thành thạo máy vi tính: Nên đưa thành nhiều Sile.
Sile kiến thức riêng, đến phần cần đưa tư liệu, hình ảnh hoặc lược đồ, bản đồ thì
cho sang một Sile khác. Sử dụng xong tiếp tục cho sang một Sile kiến thức khác
(nhưng những phần kiến thức đã nêu vẫn được giữ nguyên )
Với cách này GV sử dụng dễ dàng khi giảng dạy nhưng rất mất thời gian khi
soạn bài và không mang tính khoa học

- Đối với GV đã thành thạo máy vi tính: Nên dùng cách liên kết Sile để thuận
tiện cho việc khắc sâu kiến thức trọng tâm cũng như sử dụng tài liệu, hình ảnh,
bản đồ, lược đồ một cách hiệu quả
VD: Bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
kết thúc 1953-1954
Phần IV: ý nghÜa lÞch sö, nguyªn nh©n th¾ng lîi
Mục 1: Ý nghĩa
Có 2 phần: Ý nghĩa trong nước và quốc tế
Dạy phần trong nước:
Trước khi cho phần kiến thức cơ bản xuất hiện, GV dùng kĩ thuật liên kết
sile, cho HS quan sát một số hình ảnh: Tướng Đơ Ca-xtơ-ri và Bộ tham mưu đầu
hàng, tù binh Pháp bị bắt trong trận Điện Biên Phủ, vũ khí và phương tiện chiến
tranh ta thu được.

Tướng Đơ Ca-xtơ-ri và Bộ tham mưu đầu hàng

12


Tù binh Pháp bị bắt trong trận Điện Biên Phủ

Vũ khí và phương tiện chiến tranh ta thu được của thực dân Pháp
Sau khi HS quan sát, GV hỏi: Em biết được những gì qua các hình ảnh trên?
(Đây là những hình ảnh chứng tỏ quân Pháp đã thất bại trong việc tiến hành
chiến tranh xâm lược Việt Nam)
? Đối với nước ta, cuéc kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p thắng lợi có ý nghÜa
như thế nào ?
(Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, chấm dứt ách thống trị của Pháp. Miền
Bắc giải phóng, chuyển sang CMXHCN, tạo điều kiện giải phóng miền Nam)
Mục 2: Nguyên nhân thắng lợi

Mục này có 2 phần: Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan
Dạy phần nguyên nhân chủ quan:
Trước khi cho phần kiến thức cơ bản xuất hiện, GV dùng kĩ thuật liên kết
sile, cho HS quan sát một số hình ảnh: Kéo pháo chuẩn bị cho Điện Biên Phủ,
mở đường tiến lên Điện Biên Phủ, dân công chuyển lương thực, thực phẩm cho
13


Điện Biên Phủ, thanh niên hậu phương tự nguyện phục vụ cho chiến trường
Điện Biên Phủ.

Kéo pháo chuẩn bị cho Điện Biên Phủ

Mở đường tiến lên Điện Biên Phủ
14


Mở đường tiến lên Điện Biên Phủ

Dân công chuyển lương thực, thực phẩm cho Điện Biên Phủ

Thanh niên hậu phương tự nguyện phục vụ cho chiến trường Điện Biên Phủ
15


GV hỏi: Em có suy nghĩ gì qua các hình ảnh trên?
(Đây là sự chuẩn bị của quân và dân ta cho chiến dịch Điện Biên Phủ dưới sự
lãnh đạo của Đảng)
? Em hãy nêu nguyên nhân chủ quan cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
thắng lợi của nhân dân ta?

(Có Đảng lãnh đạo, đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.Có sự chuẩn bị
chu đáo về mọi mặt. Có tinh thần yêu nước của nhân dân. Có chính quyền, có
lực lượng vũ trang, có hậu phương vững chắc…)
VD: Bài 25: Phong trào Tây Sơn – Phần I: Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn
Mục 2: Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ
Dạy đến phần Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
GV liên kết Sile với hình ảnh của Nguyễn Huệ
GV hỏi HS: Em biết gì về Nguyễn Huệ?
? Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn?
Dạy đến phần căn cứ, GV liên kết Sile
kiến thức với Sile : Lược đồ căn cứ địa
của nghĩa quân Tây Sơn.

Lược đồ: Căn cứ địa của nghĩa quân Tây Sơn.
Bằng kĩ thuật vi tính, GV hướng dẫn HS tìm hiểu căn cứ của nghĩa quân Tây
Sơn.
Sau khi biết được căn cứ của nghĩa quân, GV liên kết với Sile kiến thức và cho
xuất hiện kiến thức cần thiết
16


c- Lưu ý:
- Không lạm dụng việc sử dụng giáo án điện tử để đưa toàn bộ giáo án (Bao
gồm: kiến thức cơ bản, tất cả các câu hỏi về nội dung cơ bản cũng như mở rộng,
các câu trả lời về nội dung cơ bản cũng như mở rộng, tư liệu, hình ảnh, bản đồ,
lược đồ…) lên màn hình. Vì như vậy HS khó xác định nội dung bài, không thể
nắm được kiến thức trọng tâm
- Không đưa quá nhiều các câu hỏi lên màn hình. Chỉ đưa những câu hỏi cần
thiết như: Câu hỏi thảo luận nhóm, câu hỏi để HS làm bài tập, câu hỏi cần phải
thảo luận. Một tiết học chỉ cần đưa từ 3 đến 5 câu hỏi lên màn hình. Các câu hỏi

khắc sâu kiến thức GV nên trực tiếp hỏi. Có như vậy mới thu hút được sự chú ý
của HS
VD:
Tiết 54 - Bài 27: Quang Trung xây dựng đất nước
Bài này dạy theo sơ đồ tư duy. Để hình thành được nội dung bài cần nhiều câu
hỏi, nhưng chỉ đưa lên màn hình 5 câu hỏi, trong đó 4 câu hỏi cho các nhóm và
1 câu hỏi đòi hỏi sự tổng hợp kiến thức của HS sau khi học xong bài 26, 27…
Câu 1- Nhóm 1:
Để phát triển nông nghiệp Quang Trung đã có những biện pháp gì?
Câu 2 - Nhóm 2:
Để phát triển công thương nghiệp Quang Trung đã có những biện pháp gì?
Câu 3 - Nhóm 3:
Quang Trung đã những biện pháp gì để phát triển văn hóa giáo dục?
Câu 4 - Nhóm 4:
Trước âm mưu của kẻ thù Quang Trung đã có những chính sách gì?
Câu 5:
Em hãy nêu công lao của người anh hùng Nguyễn Huệ (Quang Trung) đối
với nước ta ?
Sau khi kiểm tra bài cũ, GV đưa câu hỏi của 4 nhóm lên màn hình. HS các
nhóm nhận nhiệm vụ và thảo luận 5 phút. Hết thời gian thảo luận, HS học chung
cả lớp. GV sử dụng hệ thống câu hỏi để hình thành kiến thức cơ bản trọng tâm.
Đến câu hỏi của nhóm nào, yêu cầu nhóm ấy trả lời, các nhóm khác nhận xét, bổ
sung. GV phân tích, kết luận
Dạy phần 1 - Mục a – Nông nghiệp:
Khi cung cấp kiến thức cho HS: Quang Trung cho ban hành chiếu khuyến nông,
GV liên kết với Sile tư liệu về chiếu khuyến nông để khai thác làm nổi bật trọng
tâm bài (Như phần: Sử dụng tư liệu chữ viết – Trang 8 )
Dạy đến phần Công lao của Quang Trung:
Trước khi đưa câu hỏi 5 lên màn hình, GV liên kết Sile kiến thức (Sơ đồ tư
duy ) với Sile tượng đài Quang Trung và đền thờ Tây Sơn (Bình Định).


17


Tượng đài Quang Trung

Đền thờ Tây Sơn (Bình Định)

GV hỏi HS: Em có suy nghĩ gì qua 2 hình ảnh trên? (Qua 2 hình ảnh trên,
chúng ta nhận thấy lòng biết ơn của nhân dân ta đối với người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ - Quang Trung đã có công lao to lớn đối với dân tộc ta)
Sau khi HS trả lời, GV đưa câu hỏi 5 lên màn hình, HS thực hiện yêu cầu của GV
- Không đưa tất cả các câu trả lời lên màn hình. Vì như vậy GV mất thời gian
khi soạn giảng. Các câu trả lời đã đưa lên màn hình HS chú ý vào màn hình mà
không tập trung vào lời của GV làm cho không khí lớp học bị phân tán. GV mất
thời gian cho việc sử dụng “chuột” nhiều lần.
Lưu ý:
Khi dạy bằng giáo án điện tử không có nghĩa là giáo viên không sử dụng bảng
đen.
Trên bảng Giáo viên ghi đề bài và các mục lớn, khi mất điện trong quá trình
lên lớp thì vẫn có thể tiêp tục dạy mà không bị gián đoạn.
Đưa kết quả hoạt động nhóm của học sinh lên bảng đen.
Học sinh vẽ lại hoặc trình bày lại sơ đồ tư duy (GV chuẩn bị sẵn sơ đồ tư duy
nhưng không để theo thứ tự, để kiểm tra việc nhận thức bài của HS ) khi giáo
viên yêu cầu.
Học sinh đưa kết quả làm bài tập lên bảng đen.
Như vậy:
Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học có nhiều biện pháp khác
nhau. Trên đây là 2 biện pháp chính để nâng cao hiệu quả bài học và phát huy
tính tích cực của học sinh:

1- Ứng dụng CNTT – Phương tiện hỗ trợ làm nổi bật trọng tâm bài giảng
(Thay thế bảng phụ, tranh ảnh và lược đồ, bản đồ trong phòng thiết bị ).
2. Ứng dụng CNTT - Giảng dạy bằng giáo án điện tử
Tuỳ thuộc vào từng bài, từng giáo viên, tùng đối tượng học sinh mà áp dụng
từng biện pháp cho phù hợp
18


2.4. Hiệu quả của các biện pháp
Qua việc áp dụng nghệ thông tin vào dạy học, đặc biệt là lên lớp với bài soạn
điện tử đã giúp bản thân nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao
trình độ sử dụng máy tính. Không chỉ nâng cao trình độ cho bản thân mà còn
giúp một số đồng nghiệp trong trường, đặc biệt là cùng bộ môn trong huyện
nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ thuật sử dụng máy vi tính.
Học sinh trường trung học cơ sở Minh Sơn đã có tiến bộ rõ rệt. Các em hào
hứng với các tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin. Do có sự hướng dẫn của
giáo viên nên việc khai thác kênh chữ, kênh hình và đặc biệt là các tài liệu, hình
ảnh, lược đồ, sơ đồ… đưa lên màn hình, học sinh phân tích, đánh giá, nhận xét
rất tốt. Học sinh biết vào mạng để tìm những tư liệu cần thiết phục vụ cho nội
dung bài khi giáo viên yêu cầu.
Chất lượng học sinh được nâng lên qua từng năm học với lớp mình phụ trách:
Năm học
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2015 - 2016
10,3%
29,1%

59,1%
1,5 %
0
2016 - 2017
15,5%
33,3%
51,2%
1,0%
0
Học sinh đoạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh, huyện :
Năm hoc 2015 -2016 : 1 giải nhì, 2 giải ba, 3 giải khuyến khích.
Năm học 2016 – 2017 : 1 giải nhất, 2 giải nhì, 1 giải ba, 2 giải khuyến khích.
Năm học 2017 – 2018 : Lớp 9 (1 giải tỉnh, 3 giải huyện: 1 giải nhất, 1 giải
nhì, 1 giải khuyến khích.)
Như vậy, qua kết quả giảng dạy trên tôi nhận thấy rằng khi vận dụng linh hoạt
ứng dụng cộng nghệ thông tin vào trong bài học cho thấy học sinh có sự hào
hứng với giờ học, gắn bài học với thực tiễn nhanh và hiệu quả. Giờ học trở nên
sôi nổi hơn, tạo tâm lý nhẹ nhàng thoải mái cho học sinh ở những bài học sau.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua giảng dạy thực tế ở tất cả các trường, tất cả các môn đã cho thấy rõ : Công
nghệ thông tin góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy. Ứng dụng
công nghệ thông tin một cách hợp lý, khoa học có tác dụng lớn trong việc tự
học, tự bồi dưỡng của giáo viên. Đồng thời nâng cao chất lượng dạy học, phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
Có rất nhiều biện pháp để ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nhưng
chúng ta cần chọn sử dụng biện pháp nào nào phù hợp với từng bài học, từng đối
tượng học sinh.
Một số kinh nghiệm khi Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học:
1- Không đưa quá nhiều tư liệu, tranh ảnh, lược đồ không cần thiết vào bài giảng.

2- Các nguồn tư liệu, thông tin cần được cô đọng, chọn lọc, đảm bảo tính chính xác
và có cơ sở khoa học.
3- Không sử dụng tư liệu, tranh ảnh để minh họa bài giảng.
4- Cần khai thác tư liệu, tranh ảnh để tìm ra kiến thức cơ bản hoặc làm nổi bật
trọng tâm bài giảng.
19


5- Khi sử dụng xong các nguồn thông tin cần cho sang 1 Sile trắng hoặc Sile
kiến thức để tránh sự mất tập trung của HS vào bài học.
6- Không đưa kênh chữ hoặc kênh hình đã có trong sách giáo khoa lên màn hình
7- Nên soạn và dạy bằng Giáo án điện tử (với việc liên kết các Sile) sẽ giành
được nhiều thời gian cho HS.
8- Không đưa toàn bộ Kế hoạch dạy học (Bài soạn) của giáo viên lên màn hình.
9- Không đưa tất cả các câu hỏi hoặc câu trả lời của bài lên màn hình.
10- Không lạm dụng việc trình chiếu làm mất đi vai trò tổ chức, hướng dẫn, dẫn
dắt của GV đối với HS.
11- Sử dụng bảng đen hợp lý: GV ghi các mục lớn, HS trình bày kết quả hoạt
động nhóm, HS Làm bài tập, HS chơi trò chơi.
12- Cỡ chữ khi trình chiếu phải rõ ràng, HS dễ tiếp thu.
Hai biện pháp trên đây có những ưu, nhược điểm khác nhau. Nếu sử dụng hợp
lý, giáo viên sẽ tạo cho học sinh cách tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, sinh động.
Học sinh dễ nhớ, hiểu sâu bài, học sinh có kiến thức để nhìn nhận vấn đề một
cách logich, theo quy luật lịch sử. Cũng từ các bài giảng ứng dụng công nghệ
thông tin học sinh trở nên linh hoạt, biết áp dụng các kiến thức đã học vào thực
tiễn. Học sinh hiểu được các giai đoạn lịch sử của dân tộc, biết được những biểu
tượng lịch sử, ghi nhớ công ơn các anh hùng dân tộc.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với các cấp quản lí về giáo dục.
- Cần điều chỉnh, cập nhật chương trình, tài liệu cho phù hợp với thực tế ở từng

địa phương. Cần giảm bớt những kiến thức quá xa rời thực tế của địa phương và
trình độ nhận thức của học sinh bằng cách lấy ý kiến đóng góp của giáo viên
giảng dạy. Làm được điều này sẽ góp phần điều chỉnh cho phù hợp giữa “nội
dung - phương pháp - thời lượng” trong dạy học.
- Cần trang bị cho các nhà trường số máy chiếu nhiều hơn.
- Cần mở lớp bồi dưỡng chương trình ứng dụng công nghệ thông tin vào trong
dạy học.
- Cần tổ chức những buổi rút kinh nghiệm thường kỳ (1 năm 2 lần) chuyên về
vấn đề Ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn huyện, tỉnh.
3.2.2. Đối với Giáo viên
- Cần học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Nắm vững phương pháp dạy học tích cực và chuẩn kiến thức, kĩ năng cần
truyền đạt cũng như đối tượng học sinh trong lớp học.
- Tâm huyết với nghề nghiệp, có tư duy sáng tạo, linh hoạt trong dạy học.
- Biết lập kế hoạch chi tiết cho một bài học theo hướng tích cực, thu thập thông
tin, tranh ảnh.
- Trong dạy học giáo viên phải là người định hướng, tổ chức và là trọng tài trong
các hoạt động, đồng thời là người đưa ra các kết luận và đánh giá trên cơ sở tự
đánh giá, đánh giá lẫn nhau của người học.
3.2.3. Đối với học sinh.
- Rèn luyện phương pháp tự học, tự tìn hiểu kênh thông tin
20


- Chuẩn bị bài, đọc trước bài mới trước khi đến lớp.
- Thường xuyên cập nhật thông tin dưới sự chỉ dẫn của giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình vận dụng Ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy. Do thời gian thực hiện chưa lâu, bản thân
vẫn còn hạn chế nên rất mong được sự trao đổi, góp ý của các thầy cô đi trước
của bạn bè đồng nghiệp có kinh nghiệm để tôi học tập, bổ sung cho phương

pháp dạy học ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn .

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngọc Lặc,ngày 4 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết đề tài

Vũ Thị Hồng

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch Sử THCS.
- Sách giáo khoa - Sách giáo viên Lịch Sử
- Tranh ảnh, lược đồ,... thu thập qua thông tin Internet.
- Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch Sử THCS.

22


Mẫu 1 (2)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC

CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
VŨ THỊ HỒNG
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Minh Sơn

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết
quả
Năm học
đánh
giá xếp đánh giá xếp
loại
loại
(A, B,
hoặc C)

1.

1.

2.


Môn Lịch Sử tên đề tài : Vận
dụng phương pháp và kỹ
thuật dạy học tích cực trong
môn Lịch sử ở trường THCS.
Môn Ngữ Văn tên đề tài: Vận
dụng một số kĩ năng để làm
tốt bài văn miêu tả ở lớp 6
trường THCS
Môn Lịch Sử tên đề tài: “
Dạy bài ôn tập lịch sử thế
giới cổ đại lớp 6, theo hướng
đổi mới phương pháp hạy học
tích cực gây hứng thú cho học
sinh học môn Lịch Sử ở
trường THCS Minh Sơn”.

Ngành GD cấp huyện

C

2010– 2011.

Ngành GD cấp huyện

B

2014– 2015

Ngành GD cấp huyện


B

2015– 2016.

* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.

23



×