Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận Tính định hướng của nội dung tuyên truyền miệng trong bối cảnh bùng nổ thông tin ở Việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.47 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công tác tuyên truyền nói chung, tuyên truyền miệng nói riêng, chúng
ta thường nói đến tính định hướng, thuyết phục như là một trong những yếu tố rất
quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, bởi lẽ mục đích
của tuyên truyền không chỉ là nâng cao nhận thức, cổ vũ niềm tin mà phải đi đến
hành động; Hay nói cách khác, mục đích cuối cùng của công tác tuyên truyền là
hành động. Bác Hồ đã dạy: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu,
dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất
bại”. Muốn bảo đảm tốt mục đích, ngoài những yếu tố khác, thì cần phải không
ngừng nâng cao tính định hướng, thuyết phục của công tác tuyên truyền.
Thực chất của việc định hướng, thuyết phục trong công tác tuyên truyền
miệng là người thực hiện tuyên truyền cần phân tích bản chất sự kiện, vấn đề, lập
luận và đưa ra cách lý giải các nội dung, dẫn chứng minh họa bằng tư liệu, tài liệu,
số liệu, thực tế... bảo đảm trung thực, khách quan để làm rõ bản chất vấn đề, quan
điểm... qua đó định hướng tư tưởng, thuyết phục, cảm hóa người nghe. Như vậy,
tính định hướng, thuyết phục biểu hiện cao hay thấp chủ yếu phụ thuộc vào năng
lực, trình độ lập luận, phân tích, lý giải vấn đề của người tuyên truyền, từ đó tạo sự
hấp dẫn, sức thuyết phục người nghe, cổ vũ niềm tin, thôi thúc người nghe hành
động. Nếu quan niệm tuyên truyền miệng chỉ đơn thuần là tác nghiệp thông tin,
không gắn liền với việc định hướng tư tưởng, vận động, thuyết phục để đi tới hành
động tích cực thì dẫn đến tuyên truyền kém hiệu quả. Để “dân theo, dân làm” như
Bác Hồ đã dạy, thì tính định hướng, thuyết phục phải được bảo đảm nguyên vẹn và
có giá trị bền vững bởi chính đạo đức cách mạng của người làm công tác tuyên
truyền miệng. Đây là nhân tố quyết định hàng đầu đến việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng hiện giờ và sau này.
Tuy nhiên, trong xu hướng toàn cầu hoá, hội quốc tế và bùng nổ thông tin đã
trở nên phổ biến với mọi người trong xã hội hiện đại ngày nay. Quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và bùng nổ thông tin đang diễn ra hết sức sôi động trên hầu
hết mọi mặt của đời sống xã hội, mà trước hết và rõ nét nhất là trên lĩnh vực kinh
tế. Cũng như các hiện tượng xã hội khác, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và bùng


1


nổ thông tin cũng là một quá trình mang tính hai mặt, nó vừa có mặt tích cực, vừa
có mặt tiêu cực. Ở mỗi quốc gia, khi tiếp nhận quá trình toàn cầu hoá, hội nhập
quốc tế và bùng nổ thông tin thì cả hai mặt này đều bộc lộ ra. Song, đối với Việt
Nam, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và bùng nổ thông tin đã tác động làm công
tác tư tưởng của Đảng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn
hạn chế, chưa sát thực tế và chưa linh hoạt. Công tác lý luận còn lạc hậu, thiếu thực
tiễn trên một số mặt…
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Tính định hướng của nội dung tuyên
truyền miệng trong bối cảnh bùng nổ thông tin ở Việt nam hiện nay” làm tiểu
luận hết học phần: Công tác tuyên truyền miệng, với hy vọng sẽ phần nào làm rõ
những nội dung trên và đưa ra những giải pháp khắc phục.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề có tính chất lý luận về công tác
tuyên truyền nói chung và công tác tuyên truyền miệng nói riêng, tiểu luận đánh
giá đúng thực trạng và tầm quan trọng của tính định hướng về nội dung của công
tác tuyên truyền miệng và đề xuất các giải pháp để tăng cường tính định hướng về
nội dung của công tác này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền nói
chung và công tác tuyên truyền miệng nói riêng;
- Đánh giá đúng thực trạng và tầm quan trọng của tính định hướng về nội
dung của công tác tuyên truyền miệng;
- Đề xuất các giải pháp để tăng cường tính định hướng về nội dung của công
tác tuyên truyền miệng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tiểu luận nghiên cứu những vấn đề về lý luận và tính định hướng về nội
dung của công tác tuyên truyền miệng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

2


- Tiểu luận nghiên cứu, làm rõ những vấn đề có tính chất lý luận của công
tác tuyên truyền miệng. Trong đó, chủ yếu đi sâu làm rõ tính định hướng về nội
dung của công tác tuyên truyền miệng hiện nay trong bối cảnh bùng nổ thông tin;
- Tiểu luận tập trung khảo sát, nghiên cứu qua các phương tiện thông tin đại
chúng, các văn bản của Đảng và Nhà nước, các sách báo và tạp chí… nói về tính
định hướng về nội dung của công tác tuyên truyền miệng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng CSVN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp luận chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản của khoa học xã hội và nhân văn, tập trung vào một số phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích - tổng; Phương pháp lịch sử và lôgic; Phương pháp so
sánh, đối chứng.
5. Đóng góp mới của Tiểu luận
- Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận của công tác tuyên truyền
miệng;
- Đánh giá thực trạng của tính định hướng về nội dung của công tác tuyên
truyền miệng trong bối cảnh bùng nổ thông tin ở Việt nam hiện nay;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường tính định hướng về nội dung
của công tác tuyên truyền miệng trong bối cảnh bùng nổ thông tin ở Việt nam hiện

nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Tiểu luận góp phần khái quát lại những vấn đề lý luận mang tính phổ thông
nhất cho sinh viên, đội ngũ, cán bộ công chức;…
- Nêu bật tính định hướng về nội dung của công tác tuyên truyền miệng
trong bối cảnh bùng nổ thông tin hiện nay ở Việt Nam để nhằm làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm.

3


7. Kết cấu của Tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận gồm 03
chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về công tác tuyên truyền và công tác
tuyên truyền miệng;
Chương 2. Thực trạng tính định hướng về nội dung của công tác tuyên
truyền miệng ở Việt Nam trong bối cảnh bùng nổ thông tin;
Chương 3. Giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường tính định hướng về nội dung
của công tác tuyên truyền miệng ở Việt Nam trong bối cảnh bùng nổ thông tin.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TUYÊN
TRUYỀN VÀ TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1.1. Những vấn đề chung về công tác tư tưởng
1.1.1. Tư tưởng và hệ tư tưởng
- Tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thức tồn tại của ý thức,

kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự
hiểu biết của mỗi con người.
- Đặc điểm cơ bản của tư tưởng:
+ Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, khi tồn tại xã hội thay đổi, tư tưởng cũng có sự thay đổi.
+ Tư tưởng có sự bảo thủ đồng thời có khả năng đi trước so với những vận
động của hiện thực khách quan.
+ Tư tưởng gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người nên tư tưởng
luôn luôn gắn liền với lợi ích.
+ Trong xã hội, có tư tưởng của cá nhân và tư tưởng xã hội. Các nhóm xã
hội, tầng lớp, giai cấp do có lợi ích giống nhau nên có tư tưởng giống nhau, hình
thành tư tưởng của một nhóm xã hội, một tầng lớp, một giai cấp.
- Quan hệ tư tưởng: Quan hệ tư tưởng là sự tác động qua lại và ảnh hưởng
lẫn nhau trong lĩnh vực tư tưởng giữa con người với con người trong xã hội.
1.1.2. Công tác tư tưởng
- Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính
đảng nhằm xây dựng, xác lập, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng, định hướng giá trị, tạo niềm tin và thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi
ích của mình.
- Hình thái của công tác tư tưởng: Quá trình tư tưởng diễn ra dưới các hình
thái:
+ Công tác lý luận là khâu đầu tiên của quá trình tư tưởng, bao gồm hình
thành, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn;
vận dụng nền tảng tư tưởng để xác định đường lối, chủ trương, chính sách trong
từng thời kỳ.
5


+ Tuyên truyền là hoạt động tiếp nối công tác lý luận, truyền bá hệ tư tưởng
vào trong quần chúng, làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống trị trong xã hội.

Tuyên truyền làm cho lý luận có sức sống mạnh mẽ, thể hiện sinh động trong thực
tiễn, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
+ Cổ động là khâu chuyển hoá lý luận đã được nhận thức, niềm tin đã được
xây dựng và củng cố thành hành động cách mạng.
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng
- Nguyên tắc tính đảng
+ Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, xuất phát từ
bản chất giai cấp của hệ tư tưởng. Tính đảng là biểu hiện tập trung của tính giai
cấp, là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất.
+ Công tác tư tưởng của giai cấp vô sản có tính đảng bởi vì hệ tư tưởng Mác
- Lênin phản ánh và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
nên mang tính giai cấp và tính đảng.
- Nguyên tắc tính khoa học
+ Hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, chủ nghĩa cộng sản khoa học là thế giới
quan, phương pháp luận khoa học đúng đắn nhất. Vì vậy công tác tư tưởng nhất
định phải mang tính khoa học.
+ Tính khoa học yêu cầu công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở khoa
học, tuân theo các qui luật vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng; có quan điểm
lịch sử - cụ thể; thường xuyên tìm tòi, sáng tạo những phương pháp công tác mới,
sử dụng các phương tiện hiện đại, phù hợp với trình độ giác ngộ và những nhu cầu
thông tin ngày càng cao của đối tượng; đánh giá một cách khách quan, toàn diện và
lịch sử - cụ thể các sự kiện, các vấn đề.
- Nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn
+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc quan trọng của công tác
tư tưởng, bởi vì lý luận khoa học chỉ có sức mạnh khi đi vào quần chúng, gắn bó
mật thiết với thực tiễn cách mạng, với đời sống của nhân dân.
+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng thể hiện trước
hết ở chỗ: công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở về phục vụ
6



thực tiễn. Đồng thời, thực tiễn công tác tư tưởng phải được soi sáng, định hướng
bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện bởi lý luận khoa học.
+ Tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận là phương pháp căn bản để
thực hiện sự thống nhất lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
1.1.4. Phương châm công tác tư tưởng
Tiến hành công tác tư tưởng cần thực hiện 6 phương châm:
Một là, công tác tư tưởng phải gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, với phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: Giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin và chủ trương đường lối của Đảng; giáo dục kiến thức khoa học, phẩm chất
và đạo đức cách mạng; giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản và tình hình, nhiệm vụ
trước mắt.
Ba là, kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác kiểm tra,
giám sát.
Bốn là, kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong
thực tiễn cách mạng.
Năm là, kết hợp giáo dục tư tưởng trong sinh hoạt của tất cả các tổ chức;
công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
Sáu là, kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán
những biểu hiện lệch lạc tư tưởng; biểu dương ưu điểm, phê bình uốn nắn những
khuyết điểm.
1.2. Tuyên truyền trong công tác tư tưởng
1.2.1. Khái niệm chung về công tác tuyên truyền
Tuyên truyền là một trong 3 hình thái của công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân
theo, dân làm. Nếu không đạt được mục tiêu đó thì tuyên truyền thất bại”.
Tuyên truyền có ba nội dung chủ yếu là: Thông tin (gồm cả định hướng
thông tin); Giáo dục và vận động quần chúng; Tổ chức quần chúng đi tới hành
động.

7


1.2.2. Vị trí, vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng
- Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư
tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân.
- Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình thành
và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối sống, lẽ sống; bồi dưỡng
phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
- Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với
những quan điểm sai trái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; góp phần xây dựng
con người mới, cuộc sống mới.
1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền
Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tư tưởng, trong công
tác tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau:
- Tính đảng, tính giai cấp
+ Tuyên truyền vô sản phải phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
+ Luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đặc biệt là cho thế hệ trẻ; giáo dục nhận thức đúng đắn, tư tưởng cách mạng, nhiệt
tình cách mạng cho quần chúng.
+ Mỗi cán bộ tuyên truyền phải thực sự trung thành với đường lối, chính
sách của Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật trong nói và viết, không được lồng những
quan điểm cá nhân, trái với đường lối quan điểm của Đảng khi tuyên truyền.
- Kiên quyết đấu tranh với các luận điệu thù địch, thói hư, tật xấu, các tệ nạn
trong xã hội...để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
- Tính khoa học và thực tiễn
+ Dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự
việc, hiện tượng, từ đó thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền.


8


+ Luôn luôn gắn với thực tiễn, trên cơ sở tổng kết thực tiễn xác định
phương hướng và nhiệm vụ của công tác tuyên truyền trong từng thời kỳ cách
mạng. Trên cơ sở thực tiễn để giải đáp những vấn đề của cuộc sống đặt ra.
+ Phương pháp, hình thức tuyên truyền phải phù hợp với tình hình và với
từng đối tượng tuyên truyền.
- Tính chân thật
+ Phải trình bày một cách khách quan những kết quả thực tiễn, cả thành tựu
và thiếu sót, thắng lợi và sai lầm, phân tích, phản ảnh sự vật và hiện tượng đúng
bản chất.
+ Phản ánh đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình
thực hiện đường lối, chính sách, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa đổi,
hoàn chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật.
+ Tính chân thật không mâu thuẫn với việc lựa chọn, xử lý nội dung tuyên
truyền một cách phù hợp nhất với từng loại đối tượng, không nhất thiết nói hết
những nội dung có thể gây hiểu nhầm, hoang mang trong quần chúng.
- Tính chiến đấu
+ Tuyên truyền phải có sự nhạy bén chính trị và bản lĩnh chính trị. Trong
mỗi sự việc và hiện tượng cần phân biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được
cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần phải kịp thời phê phán.
+ Có tinh thần cách mạng tiến công, chống mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các lực lượng thù địch trên mặt trận tư tưởng văn hoá, chống mọi quan
điểm, khuynh hướng sai, trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
- Tính phổ thông, đại chúng
+ Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc sống thực tiễn phong phú
của quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn đề nóng hổi mà cuộc sống đang đặt
ra.

+ Hình thức tuyên truyền phải phù hợp với trình độ, tâm lý của từng loại đối
tượng, biết sử dụng những loại hình tuyên truyền mà quần chúng quan tâm, ưa
thích, thực hiện tốt thông tin hai chiều. Tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm.
9


1.2.4. Những nội dung của công tác tuyên truyền
- Tuyên truyền nền tảng tư tưởng của Đảng, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chủ
trương, biện pháp của địa phương.
- Thông tin có định hướng tình hình thời sự trong nước và quốc tế.
- Hướng dẫn, chỉ đạo và trực tiếp tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục nhân các ngày kỷ niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa
phương. Tuyên truyền, giáo dục truyền thống của dân tộc và của địa phương.
- Phổ biến kiến thức mới, quy trình công nghệ mới trong sản xuất, đời sống
và bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền về thành tựu chính trị, kinh tế, xã hội ... của đất nước và của
địa phương, những thuận lợi và khó khăn, những kinh nghiệm và bài học trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ.
- Tuyên truyền, giáo dục về người tốt việc tốt và các điển hình tiên tiến, thúc
đẩy phong trào thi đua.
- Tuyên truyền về lối sống, nếp sống và giáo dục công dân nhằm góp phần
xây dựng con người mới và nền văn hoá mới.
- Đấu tranh tư tưởng chống âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù
địch, chống quan liêu, tham nhũng và những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội.
1.2.5. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền
- Xuất phát từ bản chất và yêu cầu, nhiệm vụ của tuyên truyền cách mạng,
các cấp uỷ đảng phải lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và thống nhất công tác tuyên
truyền.

- Thực hiện phương châm “toàn Đảng làm công tác tư tưởng” mỗi đảng viên
đều làm công tác tuyên truyền.
- Sử dụng tất cả các lực lượng và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức, phương tiện trong công tác tuyên truyền.
- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện các phương tiện chủ lực làm công
tác tuyên truyền, trong đó các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền
miệng có vai trò đặc biệt quan trọng.
- Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên
truyền một cách toàn diện về nhận thức chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ…
10


1.3. Công tác tuyên truyền miệng
1.3.1. Tuyên truyền miệng trong hệ thống công tác tuyên truyền
- Khái niệm tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền, được tiến
hành thông qua sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền với đối tượng tuyên
truyền, chủ yếu bằng lời nói trực tiếp.
- Những ưu thế đặc trưng của tuyên truyền miệng
+ Là sự giao tiếp trực tiếp để cung cấp và trao đổi thông tin nên sử dụng
được mọi ưu thế của giao tiếp trực tiếp.
+ Tuyên truyền miệng qua hình thức đối thoại giữa người nói với người
nghe, là một hình thức tuyên truyền dân chủ nhất, thực hiện được chức năng thông
tin cả 2 chiều, không mang tính áp đặt.
+ Tuyên truyền miệng có thể sử dụng triệt để nhất ưu thế của ngôn ngữ nói
và " kênh" phi ngôn ngữ.
+ Tuyên truyền miệng có điều kiện và nhiều khả năng tiến hành một cách
thường xuyên và rộng rãi ở nhiều nơi, trong các điều kiện khác nhau.
- Những hạn chế của tuyên truyền miệng:
+ Lời nói có tính tuyến tính, chỉ đi một chiều, không quay trở lại.

+ Phạm vi về không gian có giới hạn, do khả năng phát ra của lời nói trực
tiếp.
- Dễ chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh do tập trung đông người và ở
các địa điểm khác nhau.
1.3.2. Mục đích, nhiệm vụ của tuyên truyền miệng
- Truyền bá, giáo dục sâu rộng về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, bản sắc văn hóa Việt Nam và những tinh hoa về tư tưởng văn hoá của nhân
loại.
- Quán triệt Cương lĩnh, quan điểm, đường lối, nghị quyết, các chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Giáo dục về tư tưởng- văn hoá, phẩm chất đạo đức, lối sống nhằm xây
dựng con người mới, nền văn hoá mới.
- Đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng phản động và lạc hậu, các quan
điểm chống đối và sai trái; góp phần hạn chế, đẩy lùi tiêu cực trong xã hội.
11


1.3.3. Những nguyên tắc cơ bản của tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng phải quán triệt và vận dụng các nguyên tắc của công tác
tư tưởng, công tác tuyên truyền, cụ thể là thực hiện tốt 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Tính đảng, ( tính tư tưởng) là nguyên tắc cơ bản hàng đầu, của công tác
tuyên truyền miệng.
- Tính chiến đấu, tuyên truyền miệng phải khẳng định và bảo vệ cái đúng,
xây dựng những tư tưởng tình cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm tư tưởng
lệch lạc, đấu tranh chống các luận điểm phản tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực .
- Tính quần chúng (tính nhân dân): nội dung tuyên truyền miệng phải xử lý
tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra và yêu cầu, nguyện vọng, lợi
ích của người nghe.
- Tính khoa học, chân thực, khách quan, đòi hỏi tuyên truyền miệng phải nói
đúng sự thật, không tránh né, không cực đoan, một chiều.

1.3.4. Phương châm tiến hành công tác tuyên truyền miệng
- Toàn Đảng phải làm công tác tuyên truyền miệng. Trước hết, các cấp uỷ
viên, cán bộ lãnh đạo phải tích cực làm công tác tuyên truyền miệng. Thông qua
các chương trình công tác, đi thực tiễn cơ sở để chủ động tuyên truyền chủ trương,
chính sách cho nhân dân. Mọi đảng viên phải chủ động nắm vững đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để kịp thời thông tin, giải
thích cho quần chúng hiểu và thực hiện.
- Chủ động và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị. Tuyên truyền phải đi
trước một bước và phải dự báo được tình hình, tránh cho quần chúng mắc vào
những sai lầm tự phát. Phân tích và hướng dẫn dư luận xã hội là một trong những
chức năng cơ bản của công tác tuyên truyền miệng.
- Nhạy bén, kịp thời. Bám sát tình hình thời cuộc, tình hình thực tiễn, những
vấn đề mới nảy sinh để kịp thời tuyên truyền, giải thích. Tình hình thế giới và
trong nước có nhiều diễn biến phức tạp càng đòi hỏi phải chủ động, nhạy bén để
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.
- Cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền miệng phải cụ thể, thiết thực, có số liệu, tư
liệu, sự kiện, căn cứ, lập luận rõ ràng, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, làm cho nội
dung tuyên truyền trở nên phong phú, sinh động, hấp dẫn, gợi cảm, có sức thuyết
phục cao, đáp ứng yêu cầu của đối tượng.
12


- Kết hợp xây và chống. Tuyên truyền miệng phải kết hợp hài hoà giữa xây
và chống, giữa biểu dương cái tốt, cái mới, phê phán cái sai, cái lạc hậu, khắc phục
tính chất cực đoan một chiều, dẫn tới những hậu quả xấu của kết quả tuyên truyền.
- Thường xuyên, liên tục, có hệ thống. Tuyên truyền miệng phải tiến hành
thường xuyên, liên tục, có hệ thống, vừa có những đợt tập trung cao điểm, vừa
thường xuyên, liên tục, không để đứt quãng.
- Phối hợp nhiều hình thức, biện pháp và lực lượng. Tuyên truyền miệng
phải kết hợp nhiều hình thức, phương pháp, sử dụng và phối hợp nhiều lực

lượng, nhất là với các phương tiện thông tin đại chúng, hoạt động văn hóa văn
nghệ và sinh hoạt, hội họp của các đoàn thể chính trị.
1.4. Tổ chức và hoạt động đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cấp
ủy các cấp.
1.4.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên
1.4.1.1. Sự cần thiết phải tổ chức, xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên
Việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng xuất phát
từ cơ sở thực tiễn và lý luận sau:
- Xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong quá trình tổ chức và
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.
- Xuất phát từ những ưu thế đặc trưng của công tác tuyên truyền miệng.
- Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền.
- Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc cần phải tăng cường định hướng
thông tin.
1.4.1.2. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng
Báo cáo viên
- Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và ra quyết định công nhận, được tổ chức
có hệ thống từ Trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, xã phường, thị
trấn và đảng bộ cơ sở.
- Báo cáo viên có hai loại: Báo cáo viên chuyên trách và báo cáo viên kiêm
chức, hoạt động kiêm nhiệm.
- Phương thức hoạt động chủ yếu của báo cáo viên là thuyết trình, diễn
thuyết, tuyên truyền trực tiếp.
13


- Chức năng, nhiệm chủ yếu của báo cáo viên
1- Cung cấp thông tin, đặc biệt là những thông tin mới có giá trị, những

thông tin có tính nội bộ về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến, giải thích các
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, mới, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại ...
2- Phân tích, bình luận, làm rõ ý nghĩa nội dung chính trị của các sự kiện,
các nhiệm vụ. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có sức thuyết phục
cao, báo cáo viên phân tích, bình luận làm rõ bản chất các sự vật, hiện tượng, từ
đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo chiều hướng, khả năng và triển vọng của tình
hình, định hướng thông tin, nhất là những thông tin có tính chính trị cao.
3- Động viên, cổ vũ người nghe, nhằm làm chuyển biến tư tưởng, từ nhận
thức đến hành động theo mục tiêu chính trị đề ra.
Tuyên truyền viên:
- Tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng được tổ chức của Đảng
ở cấp cơ sở, không có hệ thống dọc từ Trung ương.
- Mọi cán bộ, đảng viên đều có nhiệm vụ là tuyên truyền viên, thực hiện vận
động, cổ động, thuyết phục quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
- Tuyên truyền viên không nhất thiết phải là đảng viên, nhưng là những quần
chúng gương mẫu, có đủ tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực làm công tác tuyên
truyền.
- Tuyên truyền viên có phương thức hoạt động năng động, chủ động, độc
lập, thực hiện tuyên truyền, vận động trực tiếp từng người, từng nhóm trong sinh
hoạt, lao động, công tác hàng ngày với quần chúng.
- Nhiệm vụ của báo cáo viên, tuyên truyền viên
Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoa
X) về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng trong tình hình mới đã khẳng định rõ:

14



- Tuyên truyền miệng và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một một
khâu quan trọng, trực tiếp nối liền Đảng, Nhà nước với nhân dân, Trung ương với
địa phương và cơ sở để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách
của Nhà nước đến với nhân dân.
- Phải kịp thời thông tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân
dân ở nơi công tác và cư trú về các vấn đề quan trọng trong nước và trên thế giới.
- Nhiệm vụ của báo cáo viên, tuyên truyền viên:
+ Định hướng thông tin, tuyên truyền, vận động, góp phần định hướng suy
nghĩ và hành động của mọi người theo đường lối, nghị quyết của Đảng.
+ Thực hiện thông tin hai chiều "chiều xuống và chiều lên", nắm bắt và
hướng dẫn dư luận xã hội.
+ Là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
1.4.2. Tiêu chuẩn báo cáo viên và nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao phẩm
chất, năng lực của báo cáo viên
Tiêu chuẩn cơ bản của báo cáo viên
Để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ, báo cáo viên phải được lựa chọn và bồi
dưỡng rèn luyện theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, cụ thể:
1.4.2.1. Những tiêu chuẩn về phẩm chất
- Có lập trường quan điểm đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp đổi mới của Đảng.
- Có tính đảng, tính chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ
luật phát ngôn.
- Có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao; nhiệt tình, tâm huyết,
khiêm tốn học hỏi, gương mẫu và có mối quan hệ tốt với mọi người.
1.4.2.2. Những tiêu chuẩn chủ yếu về năng lực
- Có trình độ, giác ngộ chính trị cao. Nắm vững lý luận Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
- Có trình độ hiểu biết nhất định về các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng, kinh tế,

văn hóa, xã hội, khoa học.
- Có khả năng tiếp thu, phân tích, lập luận diễn đạt bài nói, có phương pháp
vận động thuyết phục quần chúng.
15


1.4.2.3. Nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực của báo cáo
viên
- Trước hết cần rèn luyện tinh thần độc lập suy nghĩ, có ý thức trách nhiệm
cao, nhiệt tình, sẵn sàng với công việc được giao.
- Rèn luyện bản lĩnh chính trị, nhạy bén chính trị, không tùy tiện phát ngôn
theo tùy hứng chủ quan mà phải nói đúng quan điểm đường lối của Đảng.
- Cần phải có sự cần cù, sâu sắc, sáng tạo trong nghiên cứu, tổng hợp, phân
tích và phương pháp trình bày.
- Phải lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng báo cáo viên cả về phương pháp nghiệp
vụ và cung cấp thông tin.
- Báo cáo viên phải không ngừng học tập và tự rèn luyện kỹ năng nói, nâng
cao năng lực chuyên môn.

16


Chương 2
THỰC TRẠNG TÍNH ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG
CỦA CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
Công tác tư tưởng luôn giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng. Để tiến hành công tác tư tưởng có hiệu quả, Đảng ta đã thông qua nhiều
hình thức, phương pháp hoạt động cụ thể, phong phú, sinh động; trong đó, tuyên
truyền miệng (TTM) là một kênh thông tin và cũng là một công cụ quan trọng, là
hình thức được Đảng ta hết sức quan tâm.

Hoạt động này đã góp phần quan trọng làm cho chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đồng thời, đây cũng là một vũ
khí sắc bén đấu tranh chống lại các quan điểm thù địch, sai trái, giữ vững trận địa
tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
góp phần quan trọng giáo dục, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi đường
lối chính trị của Đảng.
TTM là một hình thức tuyên truyền giáo dục trực tiếp, thông qua nghệ thuật
diễn giải, đưa tiếng nói và tình cảm của Đảng đến với mọi đối tượng, tác động trực
tiếp vào trái tim, khối óc của từng con người.
Hình thức tuyên truyền này còn là sự giao tiếp và đối thoại sinh động giữa
người nói và người nghe, thực hiện có hiệu quả thông tin hai chiều trong quá trình
dân chủ hóa thông tin trong Đảng và trong xã hội; đồng thời, nó còn chuyển tải
được nhiều vấn đề quan trọng mà vì nhiều lý do khác nhau, các phương tiện thông
tin đại chúng khác không thực hiện được.
TTM là một giải pháp định hướng tư tưởng trực tiếp rất hiệu quả, dễ thay đổi
phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng, góp phần tăng cường mối quan hệ
trực tiếp, sinh động giữa Đảng với nhân dân, góp phần khắc phục tệ quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời quần chúng.
Trong hoạt động tuyên truyền miệng, có nhiều phương pháp để chuyển tải
thông tin. Mỗi phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất định. Tùy theo
tình hình, đặc điểm đối tượng mà có những phương pháp tuyên truyền phù hợp.
Những phương pháp tuyên truyền miệng có hiệu quả là: phương pháp thuyết trình,
phương pháp đối thoại, phương pháp thông qua người có uy tín có hiệu quả rất
cao. Do đó cần tăng cường thực hiện các phương pháp này một cách hợp lý với
chủ đề nội dung và đối tượng. Trong điều kiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời
sống xã hội hiện nay và trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân
ngày càng được nâng lên, cần tăng cường các phương pháp đối thoại và kết hợp
hài hòa đối thoại với độc thoại. Những phương pháp đối thoại như tọa đàm, trao

đổi, thảo luận, tranh luận, hỏi-đáp... là những phương pháp rất phù hợp trong tình
hình hiện nay.
17


2.1. Các yếu tố tác động tới tính định hướng nội dung công tác tuyên
truyền miệng
2.1.1. Tác động khách quan
Sự phát triển của khoa học – công nghệ, trong đó có cuộc cách mạng về, sự
bùng nổ của công nghệ thông tin giúp con người gần gũi nhau hơn, cặp phạm trù
xa – gần là một trong những biểu hiện đó (ví dụ)
Quá trình toàn cầu hoá trên thế giới thúc đẩy các quốc gia đẩy mạnh tiến trình
hội nhập quốc tế tích cực và chủ động hơn...
Còn nhiều tác động khách quan khác nhưng với chỉ hai tác động nói trên đã
làm cho công tác thông tin - truyền thông có nhiều biến đổi sâu sắc nhất là tạo điều
kiện cho mọi người nắm bắt, chia sẻ thông tin ngày càng tốt hơn.
2.1.2. Bối cảnh trong nước
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những vận hội mới của thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng. Những thành tựu to lớn của hơn 25 năm đổi mới đã và
đang tiếp tục tạo thế và lực mới cho việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, với khả năng và ưu thế của mình, công tác TTM phải phấn đấu thực sự
là một mũi nhọn của cuộc đấu tranh tư tưởng; đội ngũ những người làm công tác
này phải nhạy bén nắm bắt kịp thời diễn biến tình hình, đánh giá và dự báo chính
xác những diễn biến phức tạp có thể xảy ra, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng
tuyên truyền khác chủ động đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu tuyên truyền,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần định hướng dư luận, giữ vững ổn
định chính trị, củng cố niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự
nghiệp đổi mới.
Thời gian qua, các báo cáo viên đã biết tiếp thu, kế thừa và vận dụng cách

tuyên truyền của cha ông trong lịch sử, cách tuyên truyền trong cuộc đấu tranh bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Các báo cáo viên đã nắm vững những vấn đề cần tuyên truyền, nắm và căn cứ
vào đối tượng; biết xử lý thông tin và chọn lựa các thông tin cần thiết; biết sử dụng
ngôn ngữ phù hợp, có thái độ đúng mực khi trình bày, nói chuyện.
2.2. Thực trạng tính định hướng nội dung công tác tuyên truyền miệng
2.2.1. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và toàn cầu hoá cũng như quá
trình hội nhập quốc tế
Trong giai đoạn bùng nổ thông tin đa chiều như hiện nay, mọi người có thể tiếp
cận, cập nhật thông tin từ nhiều nguồn, nhiều phương tiện khác nhau một cách tiện
lợi, nhanh nhạy mọi lúc, mọi nơi. Nhất là việc truy cập sử dụng mạng internet, sau
một cú kích chuột máy tính hay chấm tay xoẹt trên màn hình điện thoại thông minh
chỉ vài giây người sử dụng có cả hàng ngàn trang web, blog cung cấp thông tin.

18


Trong đó có cả những thông tin tốt- xấu, đúng- sai, thậm chí cả thông tin xuyên
tạc, vu khống mà các thế lực thù địch, những kẻ xấu lợi dụng không gian mạng để
tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Do đó, công tác tuyên giáo
nói chung và hoạt động tuyên truyền miệng nói riêng phải nâng cao chất lượng,
thực hiện tốt hơn nữa vai trò cung cấp, định hướng thông tin góp phần nâng cao
nhận thức, củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước.
Sự thực trong đời sống hiện nay chúng ta không thể phủ nhận những tiện ích
mà Internet mang lại và cũng nhờ Internet mà các châu lục, quốc gia, vùng miền
xích lại gần nhau hơn. Đó là xu thế của thời hội nhập, thời đại bùng nổ thông tin và
huyện Quỳ Châu (Nghệ An) cũng không ngoài quy luật đó. Tính đến nay, toàn
huyện đã có 1.271 thuê bao Internet và có khoảng trên 60% dân số sử dụng điện
thoại, trong đó có nhiều người sử dụng điện thoại thông minh tích hợp nhiều tiện

ích đang thường ngày truy cập, tra cứu khai thác thông tin, nhất là đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức.
Trong không gian thông tin đa chiều đó, hoạt động tuyên truyền miệng qua đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ huyện đến cơ sở là lĩnh vực quan trọng
trong công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Châu Quỳ hiện nay. Thông qua tuyên
truyền miệng để cung cấp thông tin chính thống, đồng thời định hướng thông tin,
góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin và đạo đức, lối sống lành mạnh,
tiến bộ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong nhân dân.
Mặt khác, thông qua công tác tuyên truyền miệng, người làm công tác tuyên
truyền có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của đối tượng tiếp nhận thông tin qua
thái độ, cử chỉ tiếp thu, từ đó giúp cho người làm công tác tuyên truyền có thể trao
đổi, giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ mới, công tác tuyên truyền
miệng, định hướng thông tin vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên còn hạn chế về trình độ, năng lực, chưa thật sự "nhanh, nhạy, sắc
bén". Một số đảng bộ, chi bộ cơ sở chưa tổ chức được hội nghị báo cáo viên mà
chủ yếu lồng ghép trong các hội nghị, giao ban nên thời lượng ít, thông tin chắp vá,
thiếu kịp thời. Việc tổ chức tiếp xúc, đối thoại chưa nhiều. Trong đó, ngày nay cán
bộ, đảng viên và nhân dân trình độ học vấn được nâng lên, cập nhật nhiều nguồn
thông tin khác nhau, muốn được nghe thông tin mới, có hệ thống, có chiều sâu,
muốn trao đổi, thậm chí tranh luận nhưng trong thực tế đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên chưa đáp ứng được nhu cầu đó.

19


Hơn nữa, trong thời đại không gian mạng rộng mở như hiện nay cũng có người
cho rằng việc đọc sách báo, tạp chí hay ngồi nghe thông tin từ người báo cáo viên
là lỗi thời, mất thời gian. Đây là cách nghĩ thiện cận, bởi tuyên truyền miệng là một
trong những kênh thông tin quan trọng, chính thống, không thể thay thế. Trong thời

đại bùng nổ thông tin, càng khẳng định vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng - một
vũ khí sắc bén, linh hoạt, có truyền đạt, có đối thoại và định hướng, phản bác
những luận điệu xuyên tạc, những thông tin sai trái, trong đó có những thông tin
"nhảy cảm" mà không thể một tài liệu, phương tiện truyền thông nào có thể truyền
đạt được.
Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng và định hướng thông tin
trong thời gian tới, nhiệm vụ quan trọng là việc tuyên truyền sao cho kịp thời nhạy bén - chính xác, nhất là đối với những sự kiện thời sự, những vấn đề mới phát
sinh được cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, góp phần làm rõ và định hướng
dư luận sát đúng. Hoạt động tuyên truyền cần chú trọng gắn với nhu cầu thông tin
của người nghe và phải gắn lý luận với thực tiễn. Để làm được như vậy, người báo
cáo viên phải tự nâng cao trình độ, "nghệ thuật" trình bày vấn đề, đồng thời đi sâu
nắm bắt những diễn biến về nhận thức tư tưởng, những băn khoăn, tâm tư, nguyện
vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân… Từ đó có kết hợp việc cung cấp thông
tin với phân tích rõ nguyên nhân và hướng xử lý, để định hướng thông tin, nâng
cao nhận thức, củng cố niềm tin.
Thông tin được công khai, minh bạch, phong phú, đa dạng, nhiều chiều thông
qua nhiều kênh, nhiều phương tiện hiện đại thoả mãn nhu cầu của con người nhưng
cũng có những tác động trái chiều, áp đặt tư tưởng của nước lớn, chiến lược diễn
biến hoà bình, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của các thế lực thù địch có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy tác dụng.
Công chúng được tiếp cận thông tin bằng nhiều kênh, nhiều phương tiện hiện
đại, liệu công tác tuyên truyền miệng có còn tác dụng?
2.2.2. Vấn đề đặt ra
Hiện nay, chúng ta cũng đứng trước nhiều thử thách gay gắt. Các thế lực thù
địch vẫn tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với những âm
mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc. Chúng tập trung chống phá trên lĩnh
vực chính trị, tư tưởng; nhất là xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm phá hoại sự
lãnh đạo của Đảng, hạ thấp ý nghĩa, thắng lợi của đất nước trong công cuộc đổi
mới, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội.


20


Xã hội càng phát triển, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng càng phức tạp,
quyết liệt thì yêu cầu càng cao với chất lượng công tác tuyên truyền. Phải khẳng
định rằng, hoạt động tuyên truyền bước vào thời kỳ mới có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng có không ít khó khăn. Đó là sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, là
sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô.
Đó là sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch với Việt Nam, nhất là
trên lĩnh vực ý thức hệ. Đó là sự diễn biến tư tưởng trong Đảng, trong xã hội về
mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về truyền thống dân tộc, về văn
hóa và lối sống, về cơ chế thị trường, về sự phân hóa trong xã hội với các lợi ích
và các tâm trạng khác nhau. Phương pháp tuyên truyền miệng phải hết sức chú ý
tới thời kỳ chuyển giai đoạn này.
Tuy nhiên, số báo cáo viên, cán bộ tư tưởng sử dụng phương pháp tuyên truyền
miệng có sức hấp dẫn, có tính thuyết phục còn dừng lại ở tỉ lệ thấp. Ngược lại, số
báo cáo viên, cán bộ tư tưởng có khả năng nói hạn chế còn chiếm tỷ lệ cao; Tính
đảng, tính khoa học, tính chiến đấu trong phương pháp tuyên truyền chưa cao, nên
hiệu quả tuyên truyền còn hạn chế; còn thiếu sắc bén và chưa kịp thời phản bác lại
các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; Cách tuyên truyền nhiều khi còn
thiếu sáng tạo, đơn điệu, một chiều; chưa chú ý đúng mức đến "con tim", đến "lợi
ích thiết thực", phần nhiều chưa chuyển được từ độc thoại sang đối thoại trong
cách trình bày nên chưa kích thích được tư duy, chưa gợi mở được cái mới của vấn
đề trình bày, do vậy dễ bị khô khan và kém hứng thú, hấp dẫn.

21


Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH ĐỊNH HƯỚNG
NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
3.1. Đổi mới nội dung, phương thức phù hợp với đối tượng nghe và tình
hình thực tiễn chính là bước cơ bản thực hiện việc nâng cao tính định hướng
tư tưởng của công tác tuyên truyền miệng
Thực tế vô cùng sinh động và phức tạp, đòi hỏi người làm công tác tuyên
truyền miệng phải linh hoạt, sáng tạo trong việc đổi mới phương thức, nội dung,
đồng thời, kiên trì, nhạy bén trong các vấn đề, tình huống phức tạp, nhất là các vụ
việc, vấn đề nổi cộm được dư luận xã hội quan tâm. Đổi mới nội dung, phương
thức phù hợp với đối tượng nghe và tình hình thực tiễn chính là bước cơ bản thực
hiện việc nâng cao tính định hướng tư tưởng, thuyết phục của công tác tuyên
truyền miệng. Công tác tuyên truyền miệng không những đòi hỏi người tuyên
truyền phải nắm vững đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, luôn luôn đứng vững trên lập trường tư tưởng của Đảng, đặt lợi ích của
Đảng và dân tộc lên hàng đầu, mà còn thường xuyên cập nhật thông tin và có kỹ
năng truyền đạt nhất định. Đây là những phẩm chất đặc trưng của một báo cáo
viên, thiếu những phẩm chất này, người tuyên truyền gặp rất nhiều khó khăn trong
việc thuyết phục, định hướng tư tưởng trong điều kiện bùng nổ thông tin và những
vấn đề phức tạp nảy sinh trên các lĩnh vực trong quá trình đổi mới đất nước mà
hàng ngày, thậm chí hàng giờ tác động đến tư tưởng và tâm trạng xã hội.
Như vậy, muốn đảm bảo tính định hướng, thuyết phục thì người làm báo cáo
viên trước hết và cơ bản là xác định đúng nội dung cần tuyên truyền. Chẳng hạn
khi tuyên truyền về đại hội Đảng các cấp thì cần tuyên truyền về ý nghĩa và tầm
quan trọng của đại hội, trong đó nhấn mạnh bối cảnh tổ chức đại hội (tình hình thế
giới, trong nước, tình hình của các địa phương, đơn vị, những thành tựu đạt được
do Đảng lãnh đạo); Tuyên truyền kết quả công tác nhân sự đại hội để làm rõ tính
dân chủ, thống nhất, trí tuệ, đoàn kết của đại hội, trong đó cần chú trọng tuyên
truyền các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo đại hội, việc thực hiện các quy trình, quy
định; đồng thời, trên cơ sở thành công của đại hội cần đấu tranh phản bác những
luận điệu xuyên tạc, bịa đặt; Tuyên truyền những thành tựu đạt được, những hạn

chế, yếu kém trên các lĩnh vực của đất nước, của địa phương, đơn vị được Báo cáo
chính trị trình bày tại đại hội.
22


Hay để góp phần tích cực trong việc bảo đảm an ninh tư tưởng, giữ vững ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội ở các địa bàn thường có những vụ việc nhạy
cảm xảy ra thì người báo cáo viên cần nắm rõ vụ việc, từ đó xác định đúng nội
dung, phương thức tuyên truyền cụ thể, phù hợp với đối tượng, tình hình cụ thể.
Trong công tác tuyên tuyền miệng thì đối tượng quy định nội dung, nghĩa là đối
tượng quyết định đến nội dung tuyên truyền. Mặt khác, một trong những nguyên
tắc của công tác tuyên truyền miệng là tính khoa học. Tính khoa học đòi hỏi báo
cáo viên phải đảm bảo tuyên truyền chính xác, khách quan, làm rõ cơ sở khoa học
của các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực
và vận dụng một cách khoa học trong quá trình tuyên truyền. Chẳng hạn, khi phối
hợp với các cơ quan chức năng giải quyết về tranh chấp đất đai, giải phóng mặt
bằng để làm các công trình phúc lợi xã hội, quốc phòng-an ninh, báo cáo viên cần
tuyên truyền về Luật Đất đai, chính sách đất đai, trong đó tập trung giải thích rõ,
tận gốc sở hữu đất đai, lợi ích chung mà các công trình mang lại. Điều này có ý
nghĩa quan trọng, vì đã thông tin đầy đủ, chính xác và chính thống về nội dung cho
đối tượng cần tác động, góp phần tạo thuận lợi cho việc triển khai các giải pháp
tiếp theo để ổn định tình hình, đảm bảo thực hiện mục tiêu trực tiếp.
Sau khi xác định đúng nội dung, báo cáo viên cần có lập luận, phân tích bản chất
vấn đề mà mình thông tin, chọn và sắp xếp các dẫn chứng minh họa để tăng tính
thuyết phục; chuẩn bị nội dung trả lời cho các câu hỏi liên quan đến vần đề mà báo
cáo viên đã thực hiện tuyên truyền (có thể xảy ra).
Cần phải nói thêm rằng, hoạt động định hướng là hoạt động lãnh đạo, mà
hoạt động lãnh đạo thì xuất phát từ thực tiễn và đòi hỏi của thực tiễn. Cũng như các
định hướng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, xây
dựng Đảng…, công tác tuyên truyền miệng – một trong những phương thức tiến

hành công tác tư tưởng cần phải luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, bám sát phong
trào quần chúng cách mạng và thực tiễn sinh động của cuộc sống để có định hướng
tuyên truyền sát đúng, phù hợp. Do vậy, nâng cao tính định hướng, thuyết phục
trong công tác tuyên truyền miệng, báo cáo viên cần thường xuyên thâm nhập thực
tế, nắm chắc tình hình, từ đó rút được những kinh nghiệm để xác định đúng nội
dung và phương thức tuyên truyền, đồng thời tìm được cách làm sáng tạo, đột phá
để nâng cao tính định hướng, thuyết phục trong quá trình tuyên truyền, góp phần
vận động cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo giải quyết tốt các vấn
đề vướng mắc, giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

23


3.2. Tuyên truyền miệng là một khoa học, liên quan đến khoa học sư
phạm, tâm lý xã hội học,... vì vậy báo cáo viên nâng cao năng lực nắm đối
tượng và chú ý tới tâm lý, tư tưởng, tình cảm cũng như những vấn đề mà đối
tượng quan tâm (biết được qua các kênh khác) khi tuyên truyền miệng. Khi
tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, điều quan trọng của người
tuyên truyền là phải nắm đối tượng, hiểu đối tượng, hóa thân vào đối tượng
thì tuyên truyền mới có hiệu quả.
Hiệu quả công tác tuyên truyền miệng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng quan
trọng hơn cả sáu nội dung là phương pháp tuyên truyền miệng.
Hay nói cách khác phương pháp là một trong những yếu tố tham gia quyết định
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng.
Để đổi mới và nâng cao phương pháp tuyên truyền miệng đạt hiệu quả, tất
nhiên là chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều việc. ở đây, chúng tôi chỉ chọn một
số vấn đề đang nổi lên trong tình hình hiện nay mà theo chúng tôi, lâu nay chúng
ta đã làm nhưng chưa chú ý đúng tầm.
Ở giải pháp này cần chú ý:

- Nâng cao năng lực nắm và hiểu đối tượng;
- Nâng cao năng lực giao tiếp với đối tượng;
- Nâng cao năng lực xử lý tài liệu phù hợp với đối tượng;
- Nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đối tượng.
Liên quan đến việc nâng cao năng lực nắm và hiểu đối tượng là vấn đề phải
nhận thức đúng các đối tượng đang quan tâm đến những vấn đề gì, đặc biệt là
những vấn đề về lợi ích thiết thực.
Tư tưởng bao giờ cũng gắn lợi ích. Do vậy, khi tuyên truyền phải biết đối
tượng đang tán thành, ủng hộ cái gì, đang phản đối, thậm chí bất bình, phẫn nộ với
cái gì.
Tất cả những vấn đề trên lại không cố định, luôn luôn thay đổi với sự thay đổi
của thực tiễn. Do vậy người làm công tác tuyên truyền phải hết sức nhạy cảm với
những vấn đề nảy sinh từ thực tế cuộc sống đặt ra.
3.3. Quán triệt sâu sắc sự thống nhất giữa lời nói và việc làm trong phương
pháp tuyên truyền.
Khi tuyên truyền miệng nói riêng và công tác tuyên truyền nói chung phải phù
hợp và thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm vừa là tư cách,
phẩm chất, đạo đức của người cách mạng, vừa là phương pháp tốt nhất để cảm
hóa, thuyết phục, thu phục con tim, khối óc của đối tượng ở mọi tầng lớp, mọi lứa
tuổi.
24


Không thể để tồn tại tình trạng cán bộ khi đi tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội
mà mình lại là người hoài nghi, dao động và giảm sút niềm tin vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Không thể có cán bộ khi tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng trong khi chính mình lại là người hoang mang, thiếu tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Không thể có cán bộ khi tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống mà chính
mình lại đang thoái hóa, biến chất và sa sút về phẩm chất, đạo đức và lối sống.
Thiếu niềm tin, họ dễ bị dao động trước những biến đổi lớn của hiện thực xã hội,
mất phương hướng khi xuất hiện những tình huống chính trị phức tạp, mất động
lực khi giải quyết những vấn đề bức xúc và trở thành những người nói nhiều mà
làm ít, nói một đường làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Tóm lại, phải biết kết hợp trong ngoài, vừa rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng
thuyết trình, vừa phải học làm người, phải không ngừng tu dưỡng đạo đức nhân
cách, làm việc thực, nói lời thực. Có như thế một buổi thuyết trình của báo cáo
viên mới đạt kết quả tuyên truyền như mong muốn.
3.4. Để tuyên truyền miệng không chỉ là một khoa học mà phải trở thành
nghệ thuật, đòi hỏi báo cáo viên phải khổ công rèn luyện.
Quá trình luyện tập đó được chia thành các bước: luyện tố chất tâm lý, luyện cơ
sở kỹ xảo biểu đạt, luyện kỹ xảo biểu đạt ngôn ngữ, luyện tố chất tư duy, luyện
tích luỹ kiến thức và trao dồi tri thức.
Trong đó:
- Gốc cây là rèn luyện tố chất tâm lý. Khâu rèn luyện này giúp cho báo cáo
viên mới nói lần đầu (hoặc ít nói trước công chúng) đột phá cái tôi cá nhân, khắc
phục sự sợ hãi;
- Thân cây là rèn luyện cơ sở biểu đạt ngôn ngữ nói. Khâu rèn luyện này giúp
cho báo cáo viên thành thục nắm được các kiến thức cơ sở như phát âm, ngôn ngữ
cơ thể;
- Cành cây là rèn luyện kỹ xảo biểu đạt ngôn ngữ nói. Khâu này giúp cho báo
cáo viên nói một cách trôi chảy;
- Lá cây là rèn luyện tố chất tư duy. Khâu rèn luyện này có thể giúp cho báo
cáo viên ứng biến linh hoạt trong trao đổi, đối thoại với người nghe.
25



×