LUẬN VĂN:
Hoàn thiện chương trình giáo dục pháp
luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật ở Việt Nam hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục giáo pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng kỹ
thuật có ý nghĩa chiến lược, góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc
những thế hệ công dân - người lao động đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và
tương lai. Do đó, hơn 10 năm qua, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị
trong đó khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần
“Đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học,
trung học chuyên nghiệp và các trường của các đoàn thể nhân dân…”. Đòi hỏi này chỉ
có thể được thực hiện tốt, đầy đủ khi đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật trong các
trường cao đẳng kỹ thuật theo tinh thần Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
Bí thư trung ương Đảng và Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 của Thủ
tướng Chính phủ - “Chú trọng việc chuẩn hóa nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo
khoa giảng dạy pháp luật chính khóa cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục
pháp luật ngoại khóa bằng nhiều hình thức phong phú”.
Với tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước tổ chức triển khai
việc đưa giáo dục pháp luật vào các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, song
song với đổi mới các chương trình, mục tiêu ở hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ các trường phổ thông có chương trình
nội dung giáo dục pháp luật thống nhất trong toàn quốc, một môn học chính khóa - môn
“Giáo dục công dân”. Còn trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề chưa xây dựng được chương trình chuẩn quốc gia về giáo dục pháp luật,
lúng túng trong việc lựa chọn nội dung, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu,
phương pháp cho phù hợp từng loại đối tượng. Việc đào tạo, sử dụng đội ngũ giáo viên
giáo dục pháp luật trong các nhà trường còn bất cập. Công tác giáo dục pháp luật trong
các trường cao đẳng kỹ thuật chưa được chú trọng đúng mức, chưa ngang tầm với yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này đã dẫn đến chất
lượng giáo dục pháp luật trong các trường này chưa cao, tình trạng vi phạm pháp luật
trong sinh viên vẫn xẩy ra, trình độ hiểu biết pháp luật của sinh viên thấp. Trong khi đó,
sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong điều kiện đổi mới và hội nhập đòi hỏi công tác giáo
dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật phải được tăng cường thường xuyên và
chất lượng cao. Vì vậy việc hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường
cao đẳng kỹ thuật là một yêu cầu bức thiết hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện chương trình giáo dục
pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nội dung “giáo dục pháp luật” từ lâu đã được đề cập trong các tài liệu giảng dạy
của các trường đại học trong các tài liệu: “giáo trình lý luận về Nhà nước và pháp luật”
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
“Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật”, “Những vấn đề cơ bản về pháp
luật” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.
Trong những phạm vi và mức độ khác, đã có một số công trình đề tài nghiên cứu
khoa học đề cập vấn đề giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà
trường nói riêng như: “Các luận án phó tiến sỹ khoa học luật” ở nước ta hiện nay của
Đinh Xuân Thảo; “ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam ” của Nguyễn Đình
Lộc; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới.
(Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994 của Bộ Tư pháp); “Bàn về giáo dục pháp luật ” của
Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1995); “Giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường phổ thông ở nước ta hiện
nay” của Lê Quý Đình.
Nhìn chung, các công trình, bài viết nêu trên đã đề cập từng mặt, từng khía cạnh cả
về lý luận và thực tiễn của giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong nhà
trường nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, việc tiếp tục nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống về cơ sở lý luận, bản chất, đặc trưng, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật, nhất
là sự đổi mới và xây dựng chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong cao đẳng kỹ thuật
cho phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước vẫn chưa được thực hiện.
3. Mục đích nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn
hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung, góp phần hoàn
thiện chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nói riêng
ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích làm rõ khái niệm và các tính chất đặc thù của chương trình giáo dục
pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam.
- Đánh giá sơ bộ thực trạng về chương trình, nội dung giáo dục pháp luật hiện nay
trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta.
- Thử định chuẩn chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và thực hiện chương trình chuẩn
giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về chương trình giáo dục nói chung, chương trình giáo dục
pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nói riêng, góp phần định hướng hoàn thiện
chương trình chuẩn giáo dục pháp luật trong các trường đại học và cao đẳng ở nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan niệm cơ bản của Đảng
Cộng sản Việt Nam về việc đề cao vai trò của pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người phát triển toàn diện phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật, lịch sử, phân
tích so sánh, tổng hợp với phương pháp điều tra xã hội học pháp luật, phương pháp thí
điểm và phương pháp phân tích tổng hợp để chọn lọc, kế thừa và phát huy những kinh
nghiệm cũ và mới trong và ngoài nước.
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận hoàn thiện chương trình chuẩn giáo
dục pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng.
Trên cơ sở khái quát phân tích thực trạng về chương trình giáo dục pháp luật trong
một số trường cao đẳng kỹ thuật, nhất là Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, phát
hiện và phân tích những điểm chưa hợp lý hiện nay và đề xuất những biện pháp, phương
hướng có thể vận dụng để tiến tới hoàn thiện chương trình tương đối chuẩn về giáo dục
pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 9 tiết.
Ch¬ng 1
CƠ Sở Lý LUậN HOàN THIệN
CHƯƠNG TRìNH GIáO DụC PHáP LUậT
TRONG CáC TRƯờNG CAO ĐẳNG Kỹ THUậT ở VIệT NAM
1.1 GIáO DụC PHáP LUậT TRONG CáC TRƯờNG CAO ĐẳNG Kỹ THUậT ở
NƯớC TA
Giáo dục pháp luật là một chương trình giảng dạy và học tập chính khoá trong
các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta hiện nay. Giáo dục pháp luật trong các
trường cao đẳng vừa là hoạt động thực tiễn vừa là một vấn đề khoa học. Do đó, khi
bàn về hoàn thiện chương trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật ở nước ta, trước hết phải đề cập cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong các
trường cao đẳng kỹ thuật. Trên cơ sở đó, đối chiếu với thực tiễn giáo dục pháp luật
trong các trường cao đẳng để rút ra những nét đặc thù của giáo dục pháp luật trong
phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn.
1.1.1 Giáo dục cao đẳng kỹ thuật trong hệ thống giáo dục quốc dân
Nếu không xác định được giáo dục cao đẳng kỹ thuật nằm ở đâu trong hệ
thống giáo dục quốc dân của nước ta thì không thể xác định được chương trình giáo
dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta nên như thế nào.
Vì giáo dục pháp luật được thực hiện đối với toàn dân, ở nhiều cấp độ, với
rất nhiều đối tượng hết sức khác nhau, có mục đích và yêu cầu khác nhau. Trong hệ
thống giáo dục quốc dân, trên thực tế, giáo dục pháp luật được thực hiện cả ở cấp
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Vậy giáo dục pháp luật ở các trường cao đẳng phải khác so với giáo dục pháp luật,
chẳng hạn ở các trường phổ thông, giáo dục và phổ biến pháp luật cho nông dân
trong hợp tác xã, giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người…
Vị trí và đặc điểm của giáo dục cao đẳng kỹ thuật trong hệ thống giáo
dục quốc dân
Ngày 2-5-2005, Quốc hội khóa XI, Kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Giáo dục
(sửa đổi). Luật Giáo dục (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2006 (dưới
dây xin gọi tắt là Luật Giáo dục).
Chương II của Luật Giáo dục qui định cụ thể về hệ thống giáo dục quốc dân
nước ta. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên.
- Giáo dục mầm non: thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ
ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
- Giáo dục phổ thông: gồm giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm
học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi học sinh vào lớp một là sáu tuổi; giáo dục trung
học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào
lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học; giáo dục trung học phổ thông được
thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp
mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm.
- Giáo dục nghề nghiệp: gồm trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba
đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai
năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; dạy nghề được thực
hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ một đến ba năm đối với
đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
- Giáo dục thường xuyên: giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc
làm và thích nghi với đời sống xã hội.
- Giáo dục đại học: đào tạo bốn trình độ, bao gồm đào tạo trình độ cao đẳng,
đào tạo trình độ đại học, đào tạo trình độ thạc sĩ và đào tạo trình độ tiến sĩ.
Xét theo hệ thống giáo dục quốc dân, chúng ta thấy một số đặc điểm sau đây
về vị trí của giáo dục cao đẳng:
Thứ nhất, giáo dục cao đẳng thuộc phạm trù giáo dục đại học. Giáo dục đại
học từ trước tới nay là một ước mơ cháy bỏng của người Việt Nam. Trở thành sinh
viên đại học luôn luôn có trong tiềm thức của người Việt Nam chúng ta, thậm chí có
thể nói trở thành một nét văn hoá trong đời sống tinh thần của người Việt.
Sự khác biệt cơ bản của giáo dục đại học ở nước ta cũng như ở hầu hết các
nước khác trên thế giới so với các bậc khác là ở chỗ: giáo dục đại học có tỷ trọng
cao của việc giảng dạy và học tập các nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết các môn
khoa học (cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ ), đồng thời
rèn luyện kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao, kết hợp với tính định hướng việc làm
của giáo dục dạy nghề (chẳng hạn đại học y khoa, các ngành khoa học chế tạo…).
Giáo dục đại học là giáo dục khoa học, hay giảng dạy khoa học.
Thứ hai, Giáo dục đại học có sự phân tầng trình độ đào tạo rất rõ ràng. Đào
tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo ngành nghề
đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp
trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung
cấp cùng chuyên ngành.
Thứ ba, có thể nói rằng giáo dục cao đẳng là giáo dục đại học không hoàn
chỉnh. Tại sao lại như vậy? Vì như đã nói ở trên, Luật Giáo dục qui định rằng cao
đẳng là một trình độ đào tạo thuộc hệ thống đại học. Hơn nữa, trong thực tiễn, giáo
dục đại học ở nước ta từ trước tới nay chỉ có một loại hình trường đại học, đó là
trường đại học truyền thống, trong đó có nhiều trường đại học được nâng cấp từ
trường cao đẳng.
Điều này cũng có thể thấy được rất rõ trên thế giới. ở nhiều nước, giáo dục đại
học đều có thể cấp cho người học một hoặc hai học vị. Nếu đại học nào cấp cho
người học một học vị thì học vị đó là cử nhân (trước học vị tiến sĩ). ở nhiều nước,
giáo dục đại học cấp cho người học hai học vị thì gồm có học vị cử nhân và thạc sĩ
(trước học vị tiến sĩ). ở một số nước khác có cấp bằng cao đẳng dành cho giai đoạn
một (hai năm ) của đại học. ở Mỹ, trong hệ thống các trường đại học có các trường
công lập (State University), trường đại học tư thục (Private University) và trường
đại học cộng đồng (Community College). Các trường đại học cộng đồng (còn gọi là
trường học hai năm) cung cấp các chương trình đào tạo để cho người học nhận học
vị cao đẳng và có thể chuyển thẳng vào năm học thứ ba của các trường đại học 4
năm. Nước Mỹ có tới 2.657 cơ sở đào tạo cấp học vị cao đẳng và 2.819 cơ sở đào
tạo cấp học vị cử nhân hoặc học vị cao hơn. Giáo dục đại học ở Mỹ được gọi là giáo
dục bậc cao (Higher education). Các trường đại học ở Mỹ được phân thành 7 loại
(category):
- University nghiên cứu.
- University cấp học vị tiến sĩ.
- University và college cấp học vị thạc sĩ.
- College cấp học vị cử nhân.
- Các School hoặc Institute chuyên nghiệp.
- Các Schoole kỹ thuật và dạy nghề sau trung học
Tóm lại, trong khuôn khổ giáo dục đại học của nhiều nước trên thế giới, cấu
thành của chương trình giáo dục đại học mang tính nhiều giai đoạn - cao đẳng -cử
nhân - thạc sĩ Còn hiện nay, nhiều trường chuyên ngành có các chương trình đào
tạo cấp học vị chuyển đổi thuộc một nhóm các lĩnh vực đào tạo có quan hệ mật thiết
với nhau.
Đề cập nội dung trên đây có ý nghĩa quan trọng đối với việc bàn về chương
trình giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta.
Mục tiêu của giáo dục cao đẳng và đại học.
Nếu không xác định được mục tiêu của giáo dục đại học nói chung ở nước
ta, mục tiêu riêng của giáo dục cao đẳng thì không thể định hướng được nội dung
giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta là gì, chương trình
giáo dục pháp luật phải như thế nào, giáo dục pháp luật để làm gì.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã được
định rõ trong nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VIII và lần thứ sáu khoá IX là: “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có
ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý
thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong
công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Mục đích cao nhất của giáo dục là “đào tạo các em nên những người công dân
hữu ích cho nước Việt Nam ”. Muốn vậy, trước hết phải giáo dục các em sinh viên
trở thành những người có lòng yêu nước nồng nàn, “thành những người xứng đáng
với nước độc lập, tự do” [39, Tr. 32] tức là giáo dục các em thành những người có nhân
cách, có tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hiến pháp nước ta ghi nhận: “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà
nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động
và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm
cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. [19].
- “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [30, tr. 8].
Mục tiêu nói trên của giáo dục bắt nguồn từ đường lối nhất quán của Đảng ta.
Trong cương lĩnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam và trong chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta đã vạch rõ giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu. Giờ đây, Đảng ta khẳng định một tư duy mới là coi giáo dục,
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, quyết tâm đưa sự nghiệp giáo dục,
khoa học và công nghệ phát triển lên tầm cao mới để xây dựng đất nước Việt Nam
phồn vinh và hạnh phúc.
Trước những thách thức mới của thời đại, đặc biệt là những thách thức do thời
đại công nghệ đặt ra, trước những đòi hỏi của việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, năng động và hiệu quả hơn, nền giáo
dục quốc dân của nước ta nói chung và giáo dục đại học nói riêng đòi hỏi phải có
những chuyển biến chiến lược, cơ bản và toàn diện để thật sự cùng với khoa học và
công nghệ trở thành quốc sách hàng đầu.
Giáo dục đại học nói chung, đào tạo trình độ cao đẳng nói riêng trong hệ
thống giáo dục đại học có vai trò cực kỳ quan trọng là đào tạo ra những con người
phát triển toàn diện, nhiều người lao động có tri thức, có trí tuệ, có khả năng thích
ứng nhanh với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh để
cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc gia và quốc tế. Phát triển giáo
dục đại học là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trường tồn những giá trị văn
hóa của nhân loại. Một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói
chung, giáo dục cao đẳng và đại học nói riêng là giáo dục nhân cách, phát huy và
phát triển hệ thống giá trị của dân tộc; nâng cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực
và là nguồn gốc để đào tạo bồi dưỡng nhân tài trên nền tảng nhân cách tốt đẹp.
Vì giáo dục cao đẳng hay đào tạo trình độ cao đẳng nằm trong phạm trù giáo
dục đại học, cho nên mục tiêu của giáo dục cao đẳng phải đáp ứng mục tiêu của
giáo dục đại học nói chung. Mục tiêu chung của giáo dục đại học được qui định
trong Luật Giáo dục năm 2005 là “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp
tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ”.
Nhiệm vụ của đào tạo đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn
và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Còn đối với hệ cao đẳng, mục đích đào tạo là giúp sinh viên có kiến thức
chuyên môn và kỹ thuật thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường
thuộc chuyên ngành được đào tạo [20].
Yêu cầu đào tạo trình độ cao đẳng là phải bảo đảm cho sinh viên có những
kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn cần thiết, chú trọng rèn luyện
kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn.
Vậy giáo dục đại học nói chung, giáo dục cao đẳng nói riêng, có hai mặt cơ
bản thể hiện thực chất của chương trình giáo dục:
- Một là giáo dục cho sinh viên các trường cao đẳng có được những kiến thức
khoa học cơ bản tức là giáo dục khoa học (giáo dục tri thức khoa học cơ bản).
- Hai là đào tạo kiến thức chuyên môn, kỹ năng và năng lực thực hiện công tác
chuyên môn.
Hai mặt này gắn liền mật thiết với nhau làm tiền đề, làm điểm tựa để tiếp cận
vấn đề giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật. Vì vậy giáo dục pháp
luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nên được đặt ra có mức độ và có giới hạn
nhất định trong khuôn khổ đào tạo cao đẳng và đại học.
Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục cao đẳng và đại học
Hiện nay, nền giáo dục đại học ở nước ta bắt đầu bước vào giai đoạn đổi mới
cơ bản và toàn diện. Giai đoạn này dự kiến sẽ được thực hiện từ năm 2006 đến năm
2020. Đây là một chủ chương lớn, chắc chắn sẽ tạo ra một bước ngoặt trong đổi mới
chương trình giáo dục cao đẳng và đại học ở nước ta. Chính bối cảnh này đặt ra
trước đề tài luận văn một thách thức to lớn là vậy trong bối cảnh mới, chương trình
giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở nước ta phải được đặt ra
như thế nào? Vì vậy, quán triệt tinh thần đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học trong giai đoạn tới là điều nhất thiết phải được lĩnh hội.
Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ bản và
toàn diện giáo dục đại học ở nước ta là gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo dục với nhu
cầu tào đạo nhân lực trình độ cao phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đáp
ứng những đòi hỏi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với xu thế phát triển
của khoa và công nghệ.
Những mục tiêu chung chủ yếu của đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học (trong đó bao hàm đào tạo cao đẳng) là:
- Đến năm 2020, giáo dục đại học phải chuyển biến cơ bản về chất lượng và
qui mô.
- Giáo dục đại học phải có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng và hoạt động
hiệu quả trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đạt được trình độ giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực.
- Đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Những mục tiêu cụ thể của đổi mới giáo dục đại học trong thời gian tới cần
phải đạt được là:
- Hoàn chỉnh mạng lưới cơ sở giáo dục đại học trên phạm vi toàn quốc.
- Có sự phân tầng rõ rệt về chức năng, bảo đảm sự hợp lý cơ cấu trình độ đào
tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, đồng thời phù hợp với qui hoạch tổng
thể phát triển kinh tế-xã hội của cả nước.
- Phát triển các chương trình đào tạo theo hai hướng: nghiên cứu phát triển và
nghề nghiệp ứng dụng.
- Bảo đảm sự liên thông của các chương trình đào tạo từ trình độ thấp lên trình
độ cao hơn.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm định chất
lượng giáo dục đại học.
- Đạt được sự công nhận văn bằng tương đương với văn bằng của các nước
trong khu vực và trên thế giới.
- Xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Theo hướng đó, giáo dục đại học sẽ đổi mới cơ cấu trình độ đào tạo liên quan
tới đào tạo trình độ cao đẳng. Các trường cao đẳng kỹ thuật, bản thân nó thiên về
hướng đào tạo nghề nghiệp ứng dụng chắc chắn sẽ được ưu tiên mở rộng qui mô,
đổi mới cơ cấu đào tạo theo mô hình đào tạo đại học đa giai đoạn, có qui định thêm
các văn bằng, chứng chỉ trung gian.
Đồng thời với việc đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao, Chính phủ đã khẳng định rõ chủ trương chuyển các cơ sở giáo dục đại học bán
công và một số cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tư thục,
phát triển các trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng qui chế chuyển tiếp đào tạo
với các trường đại học để có thể mở rộng qui mô của loại hình này. Nhà nước cũng
sẽ khuyến khích mở cơ sở giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp
lớn.
Mặt khác, sẽ xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi cho người học tích luỹ kiến thức, dễ dàng
chuyển đổi tín chỉ hoặc đào tạo liên thông với các cấp học tiếp theo.
Do vậy, nội dung đào tạo đại học và khung chương trình đào tạo đại học,
trong đó có đào tạo trình độ cao đẳng sẽ phải cơ cấu lại theo các cấp học cao đẳng,
đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa giáo dục đại cương và
giáo dục chuyên nghiệp.
Giáo dục đại học còn sẽ được triển khai việc dạy và học bằng tiếng nước
ngoài, trước mắt là bằng tiếng Anh; nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo
và nghiên cứu có sức thu hút người nước ngoài và tiếp thu có chọn lọc các chương
trình đào tạo tiên tiến trên thế giới; đạt được thoả thuận về tương đương chương
trình đào tạo với các cơ sở giáo dục quốc tế.
Những mục tiêu nói trên tất nhiên phải được quán triệt trong chương trình
đào tạo cao đẳng kỹ thuật, trong đó có chương trình giáo dục pháp luật ở các trường
này.
Trong bối cảnh đó, với tinh thần và nội dung của những mục tiêu như đã nêu
trên, Luật Giáo dục ghi nhận: đào tạo trình độ cao đẳng giúp cho sinh viên có kiến
thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông
thường thuộc chuyên ngành đào tạo và đào tạo những người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm về giáo dục là gì? ở nước ta, các hoạt động giáo
dục được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản như thế nào?
Có nhiều cách phân tích khác nhau trong nhân thức về giáo dục. Trong luận
văn này, trên cơ sở tập hợp và phân tích nhiều ý kiến khác nhau về giáo dục, khái
niệm giáo dục được hiểu như sau:
- Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác động vào con người
thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức khoa học
chuyên môn và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp và lối sống, chuẩn bị
cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận
cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Theo khái niệm rộng,
giáo dục bao gồm cả đào tạo, cung cấp các nguồn nhân lực cần thiết cho từng lĩnh
vực hoạt động kinh tế - xã hội. ủy ban quốc tế và giáo dục thế kỷ xã hội đã đưa ra
triết lý giáo dục về xây dựng xã hội học tập, trong đó nền giáo dục của thời đại ngày
nay phải dựa trên bốn yêu cầu về học tập là học để biết, học để làm việc, học để xây
dựng nhân cách và học để chung sống với đồng loại.
Do vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước là đa dạng hóa các loại hình đào
tạo đáp ứng không chỉ cho nhu cầu nhà nước mà cho toàn xã hội, người đi học phải
đóng học phí, bãi bỏ chế độ phân phối học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và
trung học chuyên nghiệp dạy nghề cho phép và mở rộng từng bước các trường
ngoài công lập như bán công, dân lập, tư thục các trường liên doanh với các tổ chức
quốc tế và các hãng 100% đầu tư vốn từ nước ngoài, đây được coi là một bước
chuyển quan trọng của quản lý phát triển giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Sự ra đời và
phát triển nhanh chóng của các loại hình trường, cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài
công lập từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học đã mang một diện mạo mới cho
sự phát triển và giáo dục Việt nam không chỉ ở khía cạnh đa dạng loại hình, huy
động thêm nguồn lực xã hội cho sự phát triển giáo dục, mà còn tạo tiền đề để thúc
đẩy sự cạnh tranh lành mạnh cho giáo dục, từng bước hình thành nền giáo dục và
đào tạo có định hướng tiên tiên và hiện đại trong phát triển nguồn nhân lực. Việc
thực hiện chúng phải nhằm hoan thành các mục tiêu quốc gia cũng như mục tiêu
của từng địa phương. Điều này đến nay vẫn đang trong quá trình phân cấp theo
ngành dọc và phân cấp theo chiều ngang nhằm tiến tới một sự phân định ranh giới
rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm, ý thức chung về thực hiện tốt các mục tiêu
quốc gia. Để có thể thực hiện thành công các chương trình giáo dục và đào tạo, Bộ
giáo dục và Đào tạo có những bộ phận cấu thành liên kết chặt chẽ: xây dựng
chương trình học, đào tạo giáo viên, quy chế thi tuyển, mạng lưới thông tin theo
ngành dọc, kế hoạch hóa và tiếp nhận các thông tin phản hồi.
Về nguyên lý giáo dục, nền giáo dục nước ta là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Nền giáo dục nước ta được thực hiện
theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận
gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
Đường lối ấy được thể chế hóa thành luật như Luật Giáo dục đã ghi “Nền giáo
dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,
hiện đại. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”.
1.1.2 Giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng kỹ thuật
Giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng rõ ràng là một môn học thuộc
phần giáo dục đại cương.
Thực chất của giáo dục pháp luật là giảng dạy chính khoá về pháp luật cho
sinh viên cao đẳng.
Vậy nên quan niệm và giới giới hạn chương trình giáo dục pháp luật trong
trường cao đẳng kỹ thuật như thế nào? nên có một chương trình giảng dạy qui mô
như thế nào với tính cách là giáo dục hay giảng dạy pháp luật?. Yêu cầu này có
phải là yêu cầu đích thực hay không, hay chỉ là mầu mè? còn thực tiễn thì quan
niệm giống như giáo dục luân lý chung chung, trừu tượng? có cũng được, mà không
có cũng được?
Dĩ nhiên nếu không thực hiện chương trình giáo dục pháp luật trong trường
cao đẳng, chúng ta vẫn đào tạo được những nhà chuyên môn, kỹ thuật giỏi. Vậy thì
ý nghĩa của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật là ở đâu?
Giáo dục pháp luật là giáo dục cái gì?
Giáo dục pháp luật là giáo dục cái gì? câu hỏi tưởng như rất khôi hài. Nhưng
rất ít khi chúng ta xác định được giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng là giáo
dục cái gì?
- Là giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật?
- Là giáo dục ý thức công dân?
- Là tuyên truyền và phổ biến rộng rãi pháp luật?
- Là giáo dục đạo đức hay là giáo dục chính trị?
Trong sách báo và trong thực tiễn hiện nay đang tồn tại một số quan niệm
khác nhau về giáo dục pháp luật.
Thứ nhất, có người cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục
chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức. Điều đó có nghĩa là nếu tiến hành giáo dục
chính trị, tư tưởng hay đạo đức tốt thì trên thực tế có thể đạt được sự tôn trọng pháp
luật ở người lao động. Hay nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật ở quần
chúng lao động được xem như là “sản phẩm phụ” của quá trình giáo dục chính tri,
giáo dục đạo đức.
Quan niệm như vậy là coi nhẹ giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật, không được đúng vai trò, vị trí của nó trong toàn bộ quá trình đào tạo cao
đẳng, nhất là trong bối cảnh đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học.
Thứ hai, một quan niệm khác coi giáo dục pháp luật là việc tuyên truyền, phổ
biến pháp luật bằng các hình thức và phương thức khác nhau để mọi người chấp
hành, làm theo pháp luật.
Thứ ba, lại có một quan niệm khác là chỉ nhấn mạnh và xem những yếu tố
khách quan như điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị và pháp luật nhà nước,
môi trường giáo dục là nhân tố quyết định vấn đề giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật cho công dân, do đó thường coi nhẹ giáo dục pháp luật trong các trường cao
đẳng.
Thứ tư, một số người lại có quan niệm rằng điều kiện kinh tế thấp kém, kỷ
cương pháp luật bị buông lỏng, đạo đức và lối sống trong xã hội xuống cấp như
hiện nay thì giáo dục pháp luật không thể đạt được mục đích mong muốn.
Những quan niệm phiến diện trên đây có tác động không nhỏ đến việc triển
khai và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật.
Khi nghiên cứu khái niệm giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật, về mặt phương pháp luận, trước hết phải xuất phát từ khái niệm chung về
giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục cao đẳng kỹ thuật cần
được xét trên cả hai phương diện:
- Giáo dục đại học theo nghĩa bậc học.
- Giáo dục cao đẳng theo nghĩa một trình độ đào tạo của bậc đại học .
Mặt khác, giáo dục pháp luật cần dựa trên cơ sở lý luận về giáo dục hiểu theo
nghĩa rộng - tức là quá trình tác động của tất cả những điều kiện khách quan và chủ
quan (chế độ kinh tế - xã hội, thể chế chính trị - pháp luật, trình độ dân trí nói
chung, môi trường sống ) đến ý thức và đời sống tinh thần của con người.
Xuất phát từ khái niệm chung về giáo dục, chúng ta thấy giáo dục pháp luật là
hình thức giáo dục cụ thể, là “cái riêng, cái đặc thù” trong mối quan hệ giữa giáo
dục pháp luật với giáo dục nói chung. Giáo dục pháp luật với tư cách một bộ phận
của giáo dục, vừa mang những nét chung của quá trình giáo dục, sử dụng các hình
thức và phương pháp của quá trình giáo dục nói chung, vừa có những nét đặc thù.
ở cấp đào tạo đại học, cao đẳng như đã nói ở trên, giáo dục pháp luật thuộc
phần giáo dục đại cương, vì thế trước hết, như một môn học chính khoá, nó phải
được giảng dạy nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết về pháp luật, nhằm hình thành tri
thức ở trình độ cao đẳng về pháp luật, hình thành tình cảm, lòng tin đối với pháp
luật (mục đích cảm xúc) và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục
đích hành vi).
Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động có định hướng cơ bản
là chuyền tải tri thức lý luận và thực tiễn về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Giáo dục pháp luật với ý nghĩa là một một dạng giáo dục đặc thù, một môn
học có vị trí độc lập tương đối, được hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật,
bồi dưỡng tình cảm, thái độ đúng đắn đối với pháp luật một cách có định hướng, có
tổ chức, có chủ định nhằm mục tiêu chung là tác động tới việc hình thành tri thức
pháp luật, cảm xúc và lòng tin vào pháp luật, làm cơ sở cho hành vi và lối sống theo
pháp luật của mọi công dân.
Mục đích của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật
Giáo dục pháp luật trong trường cao đẳng kỹ thuật được thực hiện thông qua
việc tổ chức hoạt động giảng dạy và học tập về luật học, trong đó giảng viên giảng
giải cặn kẽ, có mục đích, có hệ thống nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết về luật
pháp và thực tiễn của đời sống pháp luật, cung cấp cho sinh viên những kiến thức
khoa học cơ bản về pháp luật, nhằm làm cho sinh viên có hiểu biết nhất định một số
vấn đề lý luận cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật hình thành tri thức pháp luật, ý
thức trách nhiệm, văn hóa pháp luật, làm cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với quy
định pháp luật, góp phần đào tạo lên độ ngũ kỹ sư kỹ thuật trong tương lai.
Xác định mục đích giáo dục pháp luật cho sinh viên là một vấn đề quan trọng
hàng đầu đối với việc xây dựng chương trình nội dung giáo dục pháp luật và toàn
bộ công tác tổ chức thực hiện. Thực tiễn trong thời gian vừa qua cho thấy việc xác
định mục đích giáo dục pháp luật cho sinh viên chưa được cụ thể và thống nhất, tính
định hướng chưa rõ ràng và phần nhiều bị động. Có thể thấy rõ điều đó trong việc
xây dựng chương trình, xác định các hình thức giáo dục pháp luật, trong việc tạo lập
các điều kiện vật chất bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật đạt kết quả.
Vấn đề then chốt nhất trong việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật cho
sinh viên là phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của đào tạo cao đẳng, xuất phát từ
hiện thực khách quan, phù hợp với đối tượng sinh viên tránh khuynh hướng áp đặt
chủ quan, những căn cứ đó có thể là:
- Phải xuất phát từ nhu cầu giáo dục và đào tạo toàn diện cho sinh viên.
- Phải xuất phát từ thực trạng tình hình hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng
pháp luật của sinh viên hiện nay rất thấp, tri thức pháp luật của họ hầu như không
đáng kể.
- Phải xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.
Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật sẽ quy định việc xác định hình
thức, phương tiện, phương pháp và nội dung của giáo dục, đồng thời còn giúp cho
việc xác định hiệu quả của quá trình giáo dục. Không dựa vào mục đích của giáo
dục pháp luật, chẳng những không thể đánh giá mà còn không thể tiến hành tìm
kiếm các chỉ số xác định hiệu quả của giáo dục pháp luật. Với ý nghĩa như vậy, mục
đích của giáo dục pháp luật được xác định như trên là phù hợp, đáp ứng được các
nhu cầu của xã hội ta, phù hợp với thực tiễn để có khả năng trở thành hiện thực và
giúp ích cho việc đánh giá, nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật ở nước ta trong
từng thời kỳ.
Mục đích của việc giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng là hình thành
ở sinh viên ý thức pháp luật, làm cơ sở cho sự hình thành hành vi và thói quen hành
vi phù hợp với các chuẩn mực pháp luật. Hình thành ở sinh viên tình cảm và thái độ
đúng đắn đối với pháp luật, lòng tin vào pháp luật.
Có tri thức về pháp luật chưa có nghĩa là đã có tình cảm đúng đắn và lòng tin
vào pháp luật. Đó mới chỉ là cơ sở nhận thức tạo niềm tin bên trong ở mỗi sinh viên.
Do vậy, việc biến nhận thức thành niềm tin, động cơ bên trong cho sinh viên là yêu
cầu quan trọng. Thiếu tự tin, thiếu tình cảm sẽ không tạo ra được các hành vi hợp
pháp và khả năng chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh.
Trong hệ thống các mục đích của giáo dục pháp luật thì mục đích hình thành
hành vi hợp pháp cho sinh viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, suy cho đến
cùng kết quả của giáo dục pháp luật được biểu hiện ở ứng xử theo pháp luật của mọi
sinh viên. Đây chính là cái đích cần đạt được của giáo dục pháp luật. Giáo dục các
hành vi hợp pháp là giáo dục để hình thành ở sinh viên thói quen tuân theo pháp
luật. Thói quen phần lớn là kết quả của niềm tin bên trong và sự tự ý thức sâu sắc
được lặp đi lặp lại nhiều lần thông qua các hành vi xử sự. Do vậy, giáo dục để hình
thành hành vi hợp pháp là một việc khó khăn, lâu dài.
Mục đích của giáo dục pháp luật là phải bằng những hình thức, phương thức
tác động khác nhau tạo cho mọi sinh viên tình cảm đúng đắn và niềm tin vào pháp
luật được biểu hiện ra thành những hành vi hợp pháp trong đời sống hàng ngày.
Song việc hình thành tình cảm, lòng tin bền vững vào pháp luật ở sinh viên,
một vấn đề không đơn giản, gặp phải những trở ngại. Tình trạng kỷ cương pháp luật
bị buông lỏng, những tập tục của người sản xuất nhỏ tác động không ít vào lớp
người trẻ tuổi. Do vậy giáo dục pháp luật cần có định hướng rõ ràng, có nội dung,
hình thức phù hợp mới đạt được mục đích đề ra. Trước hết, các chủ thể giáo dục mà
trực tiếp là các nhà giáo dục phải có lòng tin và tình cảm đúng đắn với pháp luật
mới có thể truyền cho sinh viên những tình cảm và lòng tin ấy. Đúng như Các Mác
đã nói “Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục ”.
Nét đặc thù của mục đích giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng trước
hết do vị trí tương lai của những người học ở những trường đó quyết định. Trong
vốn học vấn chung, đặc biệt trong vốn học vấn nghề nghiệp của họ không thể thiếu
được một bộ phận quan trọng là hiểu biết về pháp luật. ý thức pháp luật của sinh
viên hôm nay sẽ là một bộ phận quan trọng của nhân cách người cán bộ khoa học,
cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý mai sau. Từ đó, họ không những biết sống và làm
việc theo pháp luật với tư cách là người công dân mà còn biết sống và làm việc
theo pháp luật, bảo vệ pháp luật với tư cách là những người đã có những cương vị
xã hội quan trọng, những vị trí chủ chốt ở các tầng bậc trong hệ thống nghề nghiệp
ở mỗi người. Như vậy, có thể nói rằng giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng
là một yêu cầu khách quan nhằm chuẩn bị có hệ thống cho thế hệ trẻ vào đời biết
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, góp phần xây dựng dần dần một xã
hội có kỷ cương, một nhà nước pháp quyền và một nền dân chủ có pháp chế.
Tất cả các mục đích trên tạo lên một thể thống nhất có mối quan hệ tác động
lẫn nhau, bổ sung cho nhau tạo thành ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong sinh
viên. Khi tiến hành giáo dục phải hướng hoạt động nhằm vào cả ba mục đích, chứ
không phải là quá trình tác động rời rạc theo từng công đoạn, trước hết là trang bị tri
thức, sau đó là bồi dưỡng tình cảm và cuối cùng mới là giáo dục thói quen xử sự
hợp pháp. Thiếu hoặc coi nhẹ một nội dung nào mục đích của giáo dục pháp luật sẽ
không hoàn chỉnh bởi vì” không phải đơn thuần về lý luận pháp luật, cũng không
phải chỉ học những quy định cụ thể của pháp luật một cách khô khan mà là quá
trình bồi dưỡng và nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa ” [44]. Việc xác định
đúng đắn mục đích của giáo dục pháp luật cho sinh viên có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng trong toàn bộ quá trình giáo dục pháp luật. Song để đạt được mục đích đã xác
định, giáo dục pháp luật cần phải thực hiện đúng những yêu cầu của giáo dục học
nói chung và yêu cầu của giáo dục pháp luật nói riêng.
Như vậy để nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục pháp luật trong nhà
trường trước hết phải xác định đúng mục đích, quán triệt yêu cầu của giáo dục pháp
luật. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là cơ sở cho việc xây dựng nội dung chương
trình cũng như các hình thức, biện pháp giáo dục pháp luật.
Khi đã xác định rõ được mục đích yêu cầu thì vấn đề cần phải giải quyết tiếp
theo là nội dung chương trình giáo dục pháp luật, tức là dạy và học những gì? nội
dung dạy và học pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo sự cân đối trong toàn bộ
chương trình giáo dục nhất là trong tình hình tiếp tục điều chỉnh cải cách giáo dục
hiện nay, nhiều môn học mới đã và sẽ đưa vào chương trình học tập như tin học,
dân số và kế hoạch hóa gia đình Tính cân đối của nội dung giáo dục pháp luật
nằm trong toàn bộ hệ thống các môn học nói chung và trong nội dung giáo dục về
chính trị, tư tưởng và đạo đức nói riêng, phải được đảm bảo. Do vậy nội dung giáo
dục pháp luật qúa sơ lược hoặc ngược lại quá nặng nề, tách rời một cách cô lập với
các môn học khác là không khoa học và không thực tế. Nội dung giáo dục pháp
luật phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý và quy luật nhận thức của sinh viên.
Đây là một vấn đề khó, nhất là trong việc biên soạn chương trình, bởi lẽ bản thân
các quy phạm pháp luật đôi khi bao hàm những khái niệm pháp lý trừu tượng, trình
tự và kết cấu trong từng quy phạm cũng hết sức chặt chẽ, lôgíc. Nghệ thuật diễn
giảng của giáo viên là biến những khái niệm pháp lý đó thành những hướng dẫn
hành động thực tế, sao cho sinh viên dễ hiểu, hiểu đúng và vận dụng thiết thực trong
cuộc sống.
Thử đặt một số câu hỏi liệu chúng ta có thể đơn giản hoá chỉ giảng dạy chuyên
môn kỹ thuật trong các trường cao đẳng kỹ thuật thay vì học cả các môn học khác
như triết học, kinh tế chính trị học, luật học vì chúng ta cần các nhà kỹ thuật có
trình độ cao đẳng, chứ không cần những người biết hoặc nói lý thuyết về đạo đức và
pháp luật? Nói cách khác liệu có nên phân nền giáo dục đại học và cao đẳng thành
hai nền giáo dục - một nền giáo dục "phổ thông" về những môn văn hoá (đại
cương) và một nền giáo dục chỉ tập trung "chuyên sâu" vào các môn kỹ thuật hay
không?
Để trả lời chung về những vấn đề nêu ra, dưới đây xin trình bày rõ hơn về vai
trò và ý nghĩa của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật. Trước hết
cần phải khẳng định rằng đào tạo trình độ cao đẳng và đại học trước hết là nhằm
phát triển năng lực trí tuệ của con người, những năng lực trí tuệ mà thiếu chúng thì
con người không thể hoàn tất được một công việc trí tuệ nào, nhất là trí tuệ về khoa
học kỹ thuật. Do đó, đào tạo cao đẳng không thể bị trói buộc chỉ vào những môn kỹ
thuật chuyên ngành, nhưng cũng không nên lạm dụng thái quá những môn khoa học
xã hội, chẳng hạn như giảng dạy về văn chương hay các môn nghệ thuật
Đào tạo cao đẳng kỹ thuật ở nước ta, theo truyền thống, trong chương trình có
giáo dục pháp luật và một số môn khoa học xã hội thuộc phần giáo dục đại cương.
Khẳng định rằng những môn học đó có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đào tạo và
phát triển những nhà chuyên môn kỹ thuật hàng đầu. Có thể nói rằng nếu không có
các môn khoa học giáo dục đại cương, bao gồm cả giáo dục pháp luật trong các
trường học (trong đó có trường cao đẳng) thì chúng ta chỉ có thể đào tạo được
những nhà kỹ thuật, mà những người ấy sẽ không thể hiểu những nguyên lý cơ bản
đằng sau những hoạt động mà họ thực hiện.
Vì vậy, giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật nhằm góp phần
để sản sinh ra những con người có trí tuệ, biết cách sử dụng trí tuệ và phát triển
khả năng chuyên môn của mình, để họ sử dụng kiến thức và khả năng chuyên môn
một cách có trách nhiệm với tư cách là một công dân, biết sử dụng đúng đắn các
quyền con người và quyền công dân chân chính của mình, chứ không phải chỉ là
những nhà kỹ thuật được đào tạo nhưng không có tri thức về xã hội.
Cho nên chỉ có thể đào tạo nghiêm túc chương trình giáo dục đại cương, bao
gồm cả giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật mới có thể đạt được
mục tiêu của giáo dục nước ta. Do đó, đào tạo trình độ cao đẳng kỹ thuật không chỉ
đào tạo đơn thuần về kỹ thuật và ngành nghề kỹ thuật. Có như vậy đào tạo trình độ
cao đẳng mới phát triển năng lực trí tuệ và vun đắp những kỹ năng, chuẩn bị cho
sinh viên trở thành con người toàn diện và trưởng thành cùng với ý thức chấp hành
pháp luật và tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp.
Tuy nhiên cần phải khẳng định rằng giáo dục pháp luật phức tạp hơn rất nhiều
so với việc giảng dạy chuyên môn kỹ thuật. Chúng ta có thể giảng dạy sinh viên cao
đẳng đại học lý thuyết về đạo đức và pháp luật, nhưng như thế không đủ để ngăn
họ có thể hành động gian dối trong các kỳ thi cử, kể cả thi môn học về pháp luật.
Bởi vì ý thức và nhân cách con người là một phẩm chất của toàn bộ con người với
tư cách cá nhân là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Không hẳn một sinh viên
học thuộc lòng các nội dung được giảng dạy về luật pháp đã là người chấp hành
pháp luật một cách nghiêm túc. Nhân cách của con người là kết quả của một quá
trình rèn luyện lâu dài, thậm chí cả đời người với những kinh nghiệm vô cùng
phong phú.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện đất nước, trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thiết lập một xã hội “công bằng, dân
chủ, văn minh”, giáo dục pháp luật trở thành nhiện vụ trọng tâm. Trong lời bế mạc
Kỳ họp thứ IV Quốc hội khóa XI, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã nhấn
mạnh việc ban hành được nhiều đạo luật là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là
phải làm cho pháp luật phát huy tác dụng tích cực trong cuộc sống. Để làm được
điều này các cơ quan hữu quan cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn
thi hành làm tốt việc triển khai thực hiện, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật; kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật có tác động quan trọng
và trực tiếp trong việc trang bị kiến thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức trách
nhiệm và khả năng điều chỉnh các hành vi đúng đắn cho đội ngũ cán bộ chuyên môn
kỹ thuật. Giáo dục pháp luật còn góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc
nâng cao hiệu lực và hiệu quả học tập chuyên môn đối với sinh viên, thúc đẩy việc
nâng cao ý thức học tập của sinh viên.
Điều quan trọng xin được nhấn mạnh ở đây là, đối với người dân, cũng như
đối với sinh viên, mục tiêu hàng đầu của chương trình giáo dục pháp để giúp họ
thực hiện các quyền con người và quyền tự do dân chủ của mình trong khuôn khổ
của luật pháp. Vấn đề ở chỗ phải làm cho sinh viên, cũng như mỗi người hiểu được
rằng pháp luật không phải chỉ là cấm đoán, hạn chế tự do hay áp đặt nghĩa vụ, mà
giáo dục pháp luật để mọi người hiểu mình có quyền làm những việc không trái với
đạo đức và luật pháp không cấm. Giáo dục pháp luật góp phần tạo cho sinh viên
năng lực sử dụng pháp luật và kỹ năng chuyên môn phục vụ cuộc sống.
Vì thế khi đề cập đến vấn đề giáo dục pháp luật một mặt phải khẳng định rằng
đó là một bộ phận không thể tách rời của qúa trình giáo dục chung, mặt khác giáo
dục pháp luật có những nét riêng, phản ánh tính đặc thù của nó được thể hiện ở chỗ
có chương trình riêng.
Tính đặc thù của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ
thuật
Tính đặc thù của giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật thể
hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng kỹ thuật là giảng dạy
chính khoá một môn học thuộc chương trình đào tạo chính thức ở trình độ cao đẳng,
thuộc hệ thống đào tạo đại học. Nội dung giảng dạy về pháp luật trong các trường
cao đẳng kỹ thuật bao gồm giảng dạy về những nội dung cơ bản và cơ sở lý thuyết
về luật pháp và giảng dạy về thực tiễn của đời sống pháp luật, trong đó bao hàm
giảng dạy một cách có chọn lọc nội dung luật thực định.