Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phương án xử lý tình huống trong công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.45 KB, 19 trang )

ĐẶT VÂN ĐỀ
1 - Lý do chọn đề tài
Trong thực tiễn xã hội ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, tất yếu cũng nảy sinh nhiều
sự vụ, sự việc bức xúc, phức tạp liên quan đến những vấn đề quan trọng
trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân chúng ta. Trong đó, có những
vấn đề nổi cộm và còn tồn đọng có liên quan đến công tác đầu tư xây dựng
cơ bản; đó là vấn đề về đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng các công
trình phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
Để phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, một trong những
vấn đề cần tập trung thực hiện đó là vấn đề đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội, nhất là đầu tư hệ thống đường giao thông, các công trình
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, phúc lợi công cộng, phục vụ dân sinh….
Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát
triển toàn diện trên các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội của một địa
phương, quốc gia. Muốn thực hiện đầu tư đạt hiệu quả cao, một trong
những khâu được xem là quan trọng nhất, cần phải tập trung thực hiện tốt,
đó là khâu giải phóng mặt bằng, từ việc khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá
bồi thường, quyết định thu hồi đất, đến khâu giải quyết các khiếu nại có
liên quan, bàn giao mặt bằng, để đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công, sớm
hoàn thành công trình, đưa vào sử dụng…
Giải phóng mắt bằng là vấn đề rất thiết thực, bức xúc, nhưng lại rất đa
dạng, diễn ra phức tạp, kéo dài và phát sinh khiếu nại liên tục. Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến đất
đai, về vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong việc thu hồi đất, giải
quyết các vấn đề liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng xây dựng công
trình. Các cơ quan có thẩm quyền, các ngành chức năng đã có nhiều cố gắng
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, tìm ra nhiều giải pháp hữu hiệu nhất để tập
trung thực hiện, nhưng thực tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định; thậm

1




chí có một số vụ, việc phát sinh trong công tác giải phóng mặt bằng kéo dài,
gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết, xử lý cho dứt điểm.
Huyện Mỹ Đức là một huyện nghèo trực thuộc tình Hà Tây sáp nhập
về thành phố Hà Nội năm 2008, do là một huyện nghèo của Thành phố cùng
với quá trình xây dựng nông thôn mới nên Mỹ Đức đang được cấp trên quan
tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế xã hội, trong quá
trình xây dựng cơ sở hạ tầng không thể tránh khỏi việc giải phóng mặt bằng
và những vướng mắc trong quá trình giải phóng mặt bằng như giá cả đền bù
không Quangợp lý, tiến độ giải phóng mặt bằng chậm, chính sách áp dụng
không phù hợp … Để nâng cao kiến thức tiếp thu trong quá trình học lớp Bồi
dưỡng ngạch chuyên viên K1A-2014 tại trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
và vận dụng những kiến thức quản lý hành chính để giải quyết sự việc, kết hợp
với thực trạng ở địa phương em xin mạnh dạn đề xuất tình huống "Giải quyết vụ
việc giải phóng mặt bằng trong quá trình xây dựng trường tiểu học xã An Phú,
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội".
2 - Mục tiêu nghiên cứu
- Xây dựng được tình huống đáp ứng được yêu cầu của quá trình học tập.
- Nhận thức được lý luận và thực tiễn vấn đề giải phóng mặt bằng trong
quản lý hành chính nhà nước.
- Đưa ra được các phương án giải quyết đúng với pháp luật đồng thời hài
hòa được lợi ích của các bên tham gia.
- Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân và cách xử lý tình huống trong
giải quyết công việc.
3 - Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Tài liệu sơ cấp:
+ Trực tiếp hỏi, phỏng vấn những người có liên quan đến vụ việc để
hiểu được tình hình và xây dựng lên tình huống.

+ Phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu để tìm ra
phương án giải quyết công việc tối ưu nhất.
2


- Tài liệu thứ cấp:
+ Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến vụ việc nghiên cứu.
+ Nghiên cứu các đề tài đã từng nghiên cứu về vụ việc giải phóng mặt
bằng để tham khảo các phương án giải quyết vụ việc.
3.2 Phương pháp áp dụng các kỹ năng làm việc
- Kỹ năng phân tích tình huống: Phân tích chi tiết các yếu tố tác động đến vụ
việc nghiên cứu từ đó đề xuất được các phương án giải quyết tối ưu cho vụ việc.
- Kỹ năng viết báo cáo: Từ tình huống đưa ra phải liên kết được các yếu tố
tác động đến sự việc để viết được thành một bài tiểu luận có tính hiệu quả cao.
- Kỹ năng quản lý thời gian: Với thời gian cố định mà nhà trường cho,
người viết tiểu luận đề ra kế hoạch hoàn thành tiểu luận đúng thời gian quy định.
- Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin: Trong quá trình xây dựng tình
huống và giải quyết tình huống cần phải thu thập, lựa chọn những thông tin
chính xác tạo tiền đề cho việc xử lý thông tin tốt. Nếu thông tin không chính xác
sẽ dẫn đến phương án giải quyết không đem lại hiệu quả, ngược lại còn dẫn đến
sự việc trở nên phức tạp hơn.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng có liên quan đến vụ việc giải phóng mặt bằng: Người dân
có liên quan, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực,
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Tập trung vào xây dựng tình huống vi phạm trong quá trình giải phóng mặt bằng
từ đó đề ra các phương án giải quyết hiệu quả

- Về không gian: Xã An Phú, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
5 - Bố cục tiểu luận
Phần 1: Xây dựng, mô tả tình huống.
Phần 2: Xác định mục tiêu xử lý tình huống.
Phần 3: Phân tích tình huống.
Phần 4: Xây dựng, phân tích, lựa chọn phương án giải quyết.
Phần 5: Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn.
3


II NỘI DUNG
2.1 Mô tả chi tiết tình huống:
An Phú là xã miền núi duy nhất và là xã nghèo nhất của huyện Mỹ Đức,
tỉnh Hà Tây cũ. Xã cách trung tâm huyện Mỹ Đức 12 km về phía Tây Nam, có
1740 hộ với 7606 nhân khẩu. Xã có 13 thôn, có 3 dân tộc chung sống trên địa
bàn xã, người dân tộc Mường chiếm tỉ lệ lớn nhất 70,96 %, người dân tộc Kinh
chiếm 28,89 %, người dân tộc Thái chiếm 0,15% (số liệu năm 2009 của UBND
xã An Phú). Về địa hình có ba dạng địa hình chính ở xã An Phú: Vùng đất thấp
chịu lụt lội pha lẫn diện tích mặt nước hẹp không lưu thông, vùng đồi và vùng
núi đá vôi. Tổng diện tích đất tự nhiên của An Phú là 2.227 ha, trong đó: Đất
lâm nghiệp 956,44 ha và đất nông nghiệp có 613,21 ha (đất 1 vụ 385,4 ha; đất 2
vụ 227,2 ha).
Do điều kiện địa hình phức tạp nên giao thông trong xã rất khó khăn, trước
năm 2007 không có đường ô tô đến xã, từ năm 2007, đường Hồ Chí Minh qua đi
xuyên qua địa bàn xã, đường liên huyện, xã, thôn được xây dựng đều khắp thôn
xóm tạo điều kiện thuận lợi cho xã An Phú phát triển nhanh.
Về trình độ học vấn của người dân, 50 % chủ hộ học hết cấp 2, số còn lại
học hết hoặc chưa hết cấp 1, số chủ hộ học hết cấp III và các trường dạy nghề
chỉ đếm trên đầu ngón tay. Số học sinh học cấp III trong những năm gần đây
cũng đã tăng đáng kể, một số đã đi học các trường đại học và dạy nghề khác.

Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 507/QĐ-UBND
ngày 19 tháng 05 năm 2011 về việc giao kế hoạch kiên cố hoá trường lớp học
cho các công trình khởi công mới năm 2011. Trong đó có Trường tiểu học xã
An Phú với quy mô nhà hai tầng sáu phòng học kết cấu khung chịu lực bêtông
cốt thép.
Theo đề nghị của chính quyền và nhân dân địa phương, đồng thời từng
bước xây dựng cơ sở hạ tầng cho ổn định và phát triển lâu dài của những công
trình kế tiếp nên cần có mặt bằng rộng và có một quy hoạch tổng thể.

4


Ngày 05 tháng 07 năm 2011 Uỷ ban nhân dân nhân huyện Mỹ Đức phê
duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán công trình trường tiểu học Xã An Phú theo
thiết kế định hình của thành phố Hà Nội.
Trường được xây dựng với quy mô là cấp IV, hai tầng. Tổng kinh phí phê
duyệt là: 1.590.000.000 đồng (Một tỷ, năm trăm chín mươi triệu đồng). Kinh phí
đền bù giải phóng mặt bằng và san gạt mặt bằng được lấy từ nguồn đối ứng (kinh
phí huyện). Nguồn kinh phí đầu tư xây dựng trường từ nguồn vốn ngân sách trung
ưng. Chủ đầu tư là Uỷ ban nhân dân huyện Mỹ Đức (Ban quản lý dự án- Công
trình xây dựng cơ bản của huyện được giao uỷ quyền đại diện chủ đầu tư).
Với chức năng là trường tiểu học, định hướng xây dựng nhà chuyên dùng,
gồm sáu phòng học, hai phòng chờ của giáo viên. Tổng diện tích cần sử dụng
của trường là: 5.000 m2, để có đủ số diện tích trên, cần phải thu hồi 5.000 m 2 đất
của 2 hộ gia đình ông Bùi Văn Quang, Nguyễn Văn Khoa đang ở phải di dời đi
nơi ở mới.
Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng của huyện được thành lập theo
Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 15/07/2011 của UBND huyện Mỹ Đức về
việc thành lập Ban giải phóng mặt bằng xây dựng công trình trường tiểu học xã
An Phu, huyện Mỹ Đức (bao gồm đại diện phòng Tài nguyên môi trường, phòng

Kinh tế, phòng Quản lý đô thị, trung tâm giải phóng mặt bằng của huyện, đại
diện UBND xã An Phú và phó chủ tịch huyện làm trưởng Ban) đã phối hợp với
chính quyền địa phương, tiến hành họp với các hộ phải di chuyển và bị thu hồi
đất. Thông báo chủ trương và quyết định xây dựng trường, phổ biến chính sách
đền bù về đất đai, tài sản hoa mầu trên đất khi Nhà nước thu hồi để sử dụng vì
lợi ích công cộng.
Các hộ phải di chuyển sau khi được quán triệt, phổ biến về chế độ chính
sách đền bù giải phóng mặt bằng, nhìn chung đều có sự nhất trí cao, không có gì
thắc mắc. Các ý kiến đều thể hiện sự ủng hộ việc xây dựng trường tiểu học trên
mảnh đất quê hương mình, và vì tương lai con em của mình.
Công tác tự kê khai, kiểm đếm, áp giá đền bù, thẩm định kinh phí đền bù
giải phóng mặt bằng được tiến hành đúng quy trình và thẩm quyền quy định.
5


Việc thanh toán chi trả tiền đền bù cho các hộ, được tiến hành công khai, dân
chủ, có sự chứng kiến và giám sát của chính quyền và nhân dân xã An Phú.
Cấp uỷ chính quyền địa phương quan tâm bố trí đất ở mới và vận động
nhân dân giúp đỡ các hộ phải di chuyển nhà, đã tháo dỡ và vận chuyển lắp dựng
nhà đến vị trí được xắp xếp ổn định lâu dài. Cây cối, hoa mầu trên đất cơ bản đã
được các hộ thu hoạch. Trước tình hình đó, để đảm bảo tiến độ thi công và giải
ngân, Ban quản lý dự án công trình xây dựng cơ bản của huyện đã xin ý kiến chỉ
đạo của UBND huyện và UBND xã đẩy nhanh tiến độ và xúc tiến công việc san
nền để cho đơn vị đã trúng thầu thi công, khởi công xây dựng công trình sớm
cho kịp năm học mới.
Ngày 15/09/2011 công trình bắt đầu đi vào khởi công xây dựng, khi công
trình đang thi công với các điều kiện thuận lợi để kịp thời gian khai giảng năm
học mới thì ngày 06/05/2012 có Đoàn kiểm tra của thành phố đi kiểm tra về thực
hiện xây dựng các công trình kiên cố hoá phát hiện ra rằng cần phải có rãnh trên
đỉnh mái taluy để khi mưa to nước mưa không sối xuống sườn taluy gây ra sạt lở

đất đến công trình (vì mái taluy rất cao và rộng). Như vậy phải bổ sung thêm
hạng mục đào đất rãnh đỉnh taluy và công tác bền bù lại tiếp diễn. Ban Giải
phóng mặt bằng của huyện được triệu tập, nhưng có vấn đề mới phát sinh nếu
tiến hành lại các thủ tục quyết định, lại thành lập tổ công tác rồi tiến hành thì
không kịp thi công trong khi đó đã vào mùa mưa. Nếu tình huống xấu xẩy ra
taluy cao 15m sạt nở thì ảnh hưởng lớn đến công trình đang thi công. Vấn đề lớn
hơn là mới mấy tháng trước đây huyện đã thu hồi của ông Bùi Văn Quang với
diện tích đất là 500 m 2 và toàn bộ tài sản hoa mầu trên đất với giá trị là
63.986.500 đồng, gia đình ông phải rời đi nơi khác. Cùng với đó là gia đình ông
Nguyễn Văn Khoa thu hồi 290 m2 và tài sản hoa mầu trên đất là 13.399.000
đồng. Như vậy cả hai gia đình đã chịu thiệt thòi để khôi phục nơi ở mới. Bây giờ
lại lấy đất canh tác tiếp mỗi nhà 400m2 nữa là khó khăn, nhất là ông Bùi Văn
Quang là thương binh hạng 2/4. Đất không lấy một lần để cho gia đình ổn định
trồng cấy.

6


Trước tình hình đó, Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng công trình
Trường tiểu học An Phú đã nhiều lần giải thích, vận động nhưng ông Quang vẫn
kiên quyết không nghe, Còn thách thức chính quyền địa phương. Hội đồng đền
bù giải phóng mặt bằng đã đề nghị UBND xã An Phú có biện pháp giải phóng
mặt bằng để công trình được thi công sớm tránh rủi ro sảy ra. UBND xã An Phú
lúng túng, khó xử chưa tìm ra biện pháp giải quyết vì trong ban lãnh đạo của xã
An Phú có một số người là con cháu của ông Quang, việc quy trách nhiệm chưa
rõ ràng, các cấp đùn đẩy lẫn nhau, công trình luôn trước nguy cơ bị sạt lở. Nhân
dân trong xã dao động, hoài nghi, đang chờ xem cách giải quyết của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
2.2 Xác định mục tiêu xử lý tình huống:
Qua việc phát sinh của công trình nói trên, khiếu nại của ông Bùi Văn

Quang về việc yêu cầu tăng giá đền bù cho các hộ phải di chuyển để lấy đất xây
dựng trường, do tính toán áp giá đền bù chưa thoả đáng, mức giá đền bù quá
thấp, không đủ kinh phí di chuyển. Cần phải kiểm tra làm rõ các quy trình xây
dựng cơ bản đã đúng trình tự và đúng pháp luật chưa? Tìm ra chỗ yếu của cán
bộ công chức khi thực thi nhiệm vụ, việc tính toán các chế độ chính sách đã
đúng theo quy định chưa, tại sao?
Thông qua xem xét khiếu nại và tiến hành điều tra, làm rõ để đưa ra
những biện pháp xử lý đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý, nhằm giải quyết hài hoà
giữa tính pháp chế và lợi ích của nhân dân, lợi ích xã hội.
2.3 Phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống:
Đây là một tình huống phức tạp trong công tác quản lý Nhà nước của các
cấp chính quyền, vấn đề không chỉ dừng lại ở đòi hỏi về kinh tế, không đúng
quy định của pháp luật, mà còn là những vấn đề xã hội, đảm bảo lòng tin trong
nhân dân. Để giải quyết vấn đề vừa đảm bảo tính pháp chế, vừa đảm bảo sự tin
tưởng của nhân dân, yêu cầu phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị
và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
Trước tình hình đó, Chủ tịch UBND huyện Mỹ Đức, đã thành lập tổ công
tác, do đồng chí Phó chủ tịch UBND huyện phụ trách công tác xây dựng cơ bản
7


làm tổ trưởng, cùng một số ngành chuyên môn, đoàn thể của huyện và đại diện
chính quyền xã và nhân dân xã An Phú tiến hành kiểm tra, đánh giá tình hình, đề
xuất phương án, biện pháp để tháo gỡ vướng mắc. Với mục tiêu giải quyết dứt
điểm nhưng phải có tình có lý với những yêu cầu thắc mắc của nhân dân nói
chung và ông Bùi Văn Quang nói riêng. Đảm bảo thi công công trình theo đúng
tiến độ, đúng quy hoạch và kế hoạch đã được phê duyệt, đảm bảo cho công trình
an toàn khi sử dụng. Thông qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công
tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn toàn huyện. Nhất là công tác
khảo sát, tư vấn thiết kế.

Qua kiểm tra cho thấy: Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng do tổ
công tác trước đây làm là đúng trình tự, đúng thủ tục và nguyên tắc. đơn giá đền
bù theo quyết định số 71/2005/QĐ-UBND ngày 23 tháng 2 năm 2005. V/v ban
hành quy định về bồi thường, và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trên địa
bàn thành phố Hà Nội là phù hợp đúng quy định, công tác thu hồi đất, kiểm kê
tài sản hoa mầu trên đất đầy dủ, đánh giá xác định phân loại là chính xác.
Nếu như lấy thêm ra thì cũng phải kê khai rồi phân loại như vậy, rồi xác
định danh giới cắm mốc xác định diện tích cần thu hồi đất.
* Kiểm tra về quy trình đầu tư xây dựng cơ bản:
- Về trình tự đầu tư xây dựng công trình trường tiểu học Xã An Phú.
+ Công trình được tiến hành khảo sát, thiết kế theo đúng quy hoạch và
những tiêu chuẩn, về tổng diện tích sử dụng và quy mô các hạng mục công trình.
+ Có cam kết của nhân dân và đề nghị của UBND xã về việc giải phóng
mặt bằng, có đủ các Văn bản của cấp có thẩm quyền như: Quyết định thu hồi
đất, cấp đất xây dựng công trình, giấy phép xây dựng.
+ Các bước lập dự án, phê duyệt dự án, hợp đồng khảo sát thiết kế, phê
duyệt thiết kế kỹ thuật tổng dự toán công trình, tổ chức đấu thầu và phê duyệt
kết quả trúng thầu đảm bảo đúng trình tự, thẩm quyền quy định.
- Về công tác đền bù giải phóng mặt bằng:

8


+ Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng công trình xây dựng trường tiểu
học Xã An Phú được thành lập theo đúng quy định (Theo Quyết định số: 71/
2005/QĐ- UBND ngày 23/2/2005 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban
hành quy định về bồi thường, và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích Quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng trên địa
bàn thành phố Hà Nội).

+ Công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện theo đúng trình tự các
bước, đảm bảo công khai, dân chủ và trung thực.
Nhưng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn bộc lộ một số khuyết
điểm và tồn tại như sau:
- Công tác kê khai, kiểm đếm không phân chia cụ thể chủ sử dụng đất,
không cắm mốc thu hồi đất giữa diện tích đất thu hồi và phần còn để lại của
từng chủ hộ, mà đồng ý để cho ông Bùi Văn Quang và doanh nghiệp thi công
thoả thuận san đủ mặt bằng. Do đó bây giờ lấy thêm ông Quang đòi tính lại cái
cũ do không chính xác không áp dụng được cụ thể về chế độ chính sách hỗ trợ
đền bù cho từng chủ hộ, rồi mới được kê khai thu hồi cái mới.
Qua kiểm tra thực tế cho thấy:
+ Ông Bùi Văn Quang (một thương binh 2/4) là chủ hộ
+ Ông Nguyễn Văn Khoa (một nông dân thuộc hộ nghèo) là chủ hộ
Trong khi làm việc, Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng còn biểu hiện
sự nóng vội, áp đặt chủ yếu tập trung vào mục tiêu giải phóng nhanh mặt bằng,
để có mặt bằng thi công công trình theo đúng tiến độ. Một số sai sót biểu hiện
là: Mặt bằng chưa giải phóng xong đã đồng ý cho đơn vị trúng thầu khởi công
và thi công công trình, đặt ra thời gian để các hộ di chuyển nhà cửa, mà không
tính đến các yếu tố về sau này cần bổ xung mở rộng, quá tin về tình cảm,...
Không điều tra nắm bắt những đối tượng chính sách cụ thể để áp dụng chính
sách hỗ trợ đền bù hợp lý. Chưa nắm được hoàn cảnh của từng gia đình để đề
xuất những giải pháp có tính khả thi cao. Cá biệt có thành viên của hội đồng đền
bù giải phóng mặt bằng, còn có ý kiến mang tính mệnh lệnh hành chính không
cần thiết.
9


- Trong khi có ý kiến của nhân dân đòi hỏi nâng giá đền bù, thì nhìn
chung người có trách nhiệm trong ban đền bù giải phóng mặt bằng, giải thích
chưa có tính thuyết phục cao, chỉ cứng nhắc trong khuôn khổ các quy định của

các văn bản pháp luật.
- Sự phối hợp giữa Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng với cấp uỷ,
chính quyền, uỷ ban mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ở địa phương chưa đồng
bộ và chặt chẽ. Đặc biệt là công tác tuyên truyền, thuyết phục và vận động nhân
dân, gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và công tác xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư.
Việc áp dụng những văn bản quy phạm pháp luật về đền bù giải phóng
mặt bằng chưa đầy đủ và chặt chẽ. Tính toán áp giá còn thiếu so với quy định cụ
thể là: Tại Theo Quyết định số 71/2005/QĐ- UBND ngày 23/2/2005 của UBND
thành phố Hà Nội về việc ban hành về bồi thường, và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích Quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng trên địa bàn thành phố Hà Nội, quy định tại mục 4 điều 24 về
chính sách hỗ trợ gia đình phải di chuyển nhà, đất ở nếu quá 6 tháng kể từ khi có
quyết định kinh phí bồi thường chưa được bố trí đất ở theo quy thì hỗ trợ tiền
thuê nhà ở mức 500.000 đồng/hộ/tháng.
Sự yếu kém của cán bộ công chức trong việc nghiên cứu nắm vững các
văn bản pháp luật khi thi hành nhiệm vụ đã tính toán, áp giá đền bù chưa đủ theo
chế độ dẫn đến sự mất uy tín của cơ quan, cán bộ công chức và làm giảm lòng
tin trong nhân dân. Nếu không giải quyết dứt điểm mặt bằng sẽ không được giải
phóng, công trình sẽ không được thi công bổ xung, người sử dụng không được
đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản.
2.4 Đề xuất các phương án giải quyết tình huống.
2.4.1 Đề xuất các phương án
1. Xây dựng phương án giải quyết tình huống.
* Phương án 1:
Tính đủ kinh phí đền bù theo chế độ. Vận động nhân dân đóng góp ủng hộ
bằng tiền, ngày công lao động tổ chức đền bù theo yêu cầu của hộ gia đình ông
10



Quang. Mức ủng hộ tính bình quân một lao động là 10 ngày công lao động. Số
tiền và ngày công quy ra giá trị, được tính vào giá trị nhân dân tham gia xây
dựng công trình.
* Phương án 2:
- Tính bổ sung kinh phí đền bù, bảo đảm đúng, đủ theo chế độ quy định.
Trích từ ngân sách địa phương hỗ trợ giải phóng tiếp.
*Phương án 3:
- Tính đủ kinh phí đền bù theo chế độ. Tiếp tục duy trì hoạt động của tổ
công tác, phối hợp với cấp uỷ chính quyền, các tổ chức đoàn thể của xã tiến
hành đợt tuyên truyền, sinh hoạt chính trị, tư tưởng để vận động, giải thích sâu
rộng trong cán bộ và nhân dân, đặc biệt là xác định lại ranh giới diện tích bị thu
hồi của 2 chủ hộ rồi cắm mốc cố định vẽ sơ đồ hoàn công.
- Uỷ ban nhân dân xã An Phú xem xét bố trí vị trí đất hợp lý, phù hợp với
quy hoạch để di chuyển nhà ông Quang đến nơi ở mới.
- Cán bộ Ban văn hoá xã cùng với uỷ ban mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
xây dựng và quán triệt quy ước về nếp sống văn hoá, tình làng nghĩa xóm. Đồng
thời vận động nhân dân giúp các chủ hộ về vật chất và lao động để giúp các gia
đình di chuyển về vị trí quy định.
- Trích từ quỹ tình nghĩa, quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ tình thương, ngân
sách địa phương hỗ trợ thêm khi hộ ông Quang phải ở tạm 500.000 đồng/ tháng.
- Phân loại đối tượng, kiên trì các biện pháp giáo dục, thuyết phục, đồng
thời kiên quyết xử lý những người có hành vi chống đối hoặc xúi giục người
khác không chấp hành.
2.4.2 Lựa chọn phương án:
Theo thẩm quyền quản lý, cả ba phương án trên đều có thể áp dụng để
giải quyết tình huống. Tuy nhiên, cần đi sâu phân tích từng phương án để thấy rõ
các ưu điểm, khuyết điểm, từ đó lựa chọn hoặc phối hợp những mặt tích cực
của các phương án với nhau.
* Nếu thực hiện theo phương án 1:


11


Thực hiện phương án này vừa hợp tình, hợp lý, không vi phạm nguyên
tắc, tạo được sự đoàn kết trong nhân dân. Tuy nhiên phương án này cũng có
những mặt hạn chế, khó có thể thực hiện được vì: Vận động nhân dân ủng hộ,
giúp đỡ bằng ngày công lao động, một số vật chất khai thác tại chỗ thì được, vì
việc này rất phù hợp với tập quán sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc
miền núi. Xong vận động nhân dân đóng góp bằng tiền, dù là ở mức thấp cũng
không được đa số nhân dân ủng hộ, vì đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn, chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp, mặt khác việc vận động này còn xa lạ
đối với tập quán chung của nhân dân. Vậy phương án 1 rất khó có thể thực hiện
được.
* Nếu thực hiện theo phương án 2:
Giải quyết tình huống nhanh gọn, cơ bản đáp ứng được đòi hỏi của dân về
mức đền bù. Nhưng nếu thực hiện theo phương án 2 chính là việc làm sai
nguyên tắc quản lý, sự nhượng bộ không đúng quy định của pháp luật, tạo lên
một tiền lệ xấu. Mặt khác sau khi đã được giải quyết đền bù, ông Quang ngang
nhiên nhận tiền và nhân dân nhìn vào đội ngũ cán bộ làm rất tắc trách, mất lòng
tin, nhà nước tốn kém thất thoát ,ông Quang sẽ tuyên truyền kích động nhân dân
trong vùng và sau này rất khó làm các việc khác với dân. Điều đó sẽ làm cho
tình hình càng thêm phức tạp.
* Nếu thực hiện theo phương án 3:
Đây là phương án khả thi hơn, vừa phát huy được tình làng nghĩa xóm
trong nhân dân, củng cố thêm tình đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng
dân cư. Thể hiện đầy đủ trách nhiệm của cấp uỷ chính quyền, các đoàn thể của
địa phương. Góp phần nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, lấy được lòng tin trong nhân dân, giải quyết được mối nghi ngờ trong
cán bộ làm giải phóng mặt bằng. Thông qua đó, còn là điều kiện thực tế để rèn
luyện, thử thách đội ngũ cán bộ các cấp.

Tuy nhiên thực hiện phương án này đòi hỏi phải kiên trì, phương pháp
vận động có tính thuyết phục cao, chủ động phối hợp, tổng hợp các biện pháp.

12


2.5 Giải pháp và kế hoạch thực hiện: (Theo phương án 3)
2.5.1 Giải pháp thực hiện
1/ Giao cho Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng, rà soát, tính toán bổ
xung đúng đủ theo quy định hiện hành, đối với từng đối tượng cụ thể, sau đó
thông báo công khai cho từng hộ biết.
Tiếp tục giao cho tổ công tác xây dựng kế hoạch, phối hợp chặt chẽ với
cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan đoàn thể xã An Phú. Tiến hành đợt học tập
tuyên truyền trong nhân dân, trước hết tổ chức họp xin lỗi công khai trước nhân
dân về việc sai sót trong quá trình làm còn chủ quan nóng vội chưa chuẩn mực.
Quán triệt với chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn, xã
biên giới, về chính sách đền bù thiệt hại, khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng
các công trình vì lợi ích chung với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”, những vấn đề về chính sách dân tộc và tôn giáo; chỉ đạo, hướng dẫn giúp
đỡ xây dựng qui ước làng bản văn hoá xây dựng nếp sống văn hoá, cải tạo các
phong tục, tập lạc hậu.
2/ Tổ chức các buổi thảo luận cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào
xây dựng kế hoạch vận động giúp đỡ các hộ phải di chuyển. Đồng thời kiểm
điểm, phê bình những hành vi, lời nói thiếu ý thức xây dựng, gây khó khăn, cản
trở cho công tác giải phóng mặt bằng.
3/ Giao cho các ngành chuyên môn của huyện, cùng chính quyền địa
phương, phát động phong trào xây dựng các quỹ: Quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ tình
thương, quỹ vì người nghèo... Đồng thời trích các quỹ của huyện để hỗ trợ các đối
tượng là gia đình chính sách, hộ nghèo, gia đình hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
4/ Tổ chức các cuộc họp ở thôn bản và trong dòng họ Lù. Tổ công tác, cấp

uỷ, chính quyền, đại diện các đoàn thể phải cử cán bộ có uy tín trực tiếp tham
gia, lắng nghe và giải đáp những thắc mắc của nhân dân. Kế hoạch về huy động
lao động, sự giúp đỡ về vật chất, địa điểm tập kết hộ ông Quang phải di chuyển,
mức hỗ trợ đền bù cho từng đối tượng, phải được nhân dân bàn bạc nhất trí.
5/ Trên cơ sở có sự nhất trí của nhân dân, tổ công tác xây dựng kế hoạch
cụ thể về bố trí lao động, chỉ đạo hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng chi trả bổ
13


sung kinh phí đền bù theo chế độ quy định, xác định lại điện tích đã thu hồi
trước đây, nếu thiếu diện tích để đào rãnh thì thống kê bổ xung và giao cắm mốc
lập sơ đồ có chủ hộ và đại diện dân chứng kiến cùng ký nhận, phân bổ kinh phí
hỗ trợ từ nguồn của các quỹ, và các vật chất khác do nhân dân, các tổ chức ủng
hộ. Tích cực vận động những người cao tuổi, người có uy tín trong nhân dân và
nêu những tấm gương sáng để mọi người noi theo. Vận động doanh nghiệp
trúng thầu thi công trường tiểu học Tả Ngảo giúp đỡ về phương tiện vật tư.
Từ những chủ trương, việc làm làm tích cực, hợp tình, hợp lý. Sau một
thời gian vận động, mặt bằng của công trình đã được giải phóng toàn bộ, hộ ông
Quang đã được chuyển về địa điểm mới, các gia đình ông Quang, ông Khoa đã
phấn khởi yên tâm. Nhân dân trong xã đã giúp đỡ các gia đình 15 kéo vầu, và
100 ngày công lao động để di chuyển mới. Doanh nghiệp đã giúp gia đình ông
Quang cát để trát lại nhà. Trích từ các quỹ giúp các gia đình chính sách, hộ
nghèo gia đình đặc biệt khó khăn được: 1.000.000 đồng . Hỗ trợ cho ông Quang
trong thời gian phải ở tạm.
Việc tổ chức di chuyển nhà được đơn giản gọn nhẹ, không tổ chức ăn
uống linh đình, do đó không gây tốn kém quá khả năng mức kinh phí được đền
bù và hỗ trợ . Đồng thời các thôn bản trong xã phấn khởi tin tưởng vào cán bộ.
2.5.2 Kế hoạch thực hiện phương án
TT


Thời gian

Công việc
Người thực hiện
Triệu tập tổ công tác Ban giải phóng mặt UBND huyện

1

08-15/05/2012

2

16-31/05/2012 xét vị trí chuyển đến, xác định ranh giới của

bằng (GPMB)
Ban GPMB tính kinh phí bồi thường, xem Ban GPMB
các hộ, lên kế hoạch, phương án tiếp dân
Ban GPMB làm việc trực tiếp với hộ bị thu Ban GPMB,

01-15/05/2012 hồi đất bàn bạc thỏa thuận.

UBND xã, hộ bị
thu hồi đất

16-30/06

Tiến hành giải phóng mặt bằng đi vào thi

công công trình
* Bài học kinh nghiệm:

14


Hiện nay nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, cho vùng sâu vùng xa, biên
giới, đang diễn ra với tốc độ nhanh, nhất là kiên cố hoá trường lớp để hoàn thành
mục tiêu phổ cập giáo dục Trung học cơ sở của thành phố Hà Nội. Đó là tín hiệu
phấn khởi về sự phát triển của đất nước. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng là
công việc hết sức quan trọng, nó chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, là một công
việc hết sức khó khăn. Từ những nguyên nhân và kết quả đạt được trong giải
quyết vụ việc xung quanh vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng công
trình trường tiểu học Xã An Phú, từ góc độ của công tác quản lý Nhà nước và
của Thanh tra có thể nêu ra một số bài học kinh nghiệm sau:
1) Phải coi công tác đền bù giải phóng mặt bằng là một kinh nghiệm trọng
tâm của chủ đầu tư, của cấp uỷ, chính quyền nơi xây dựng công trình. Khi lập
các dự án đầu tư, cần phải xác định quy mô diện tích sử dụng đất, dự toán công
trình và phải được lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng, tính toán kinh phí
đền bù sao cho hợp lý. Được cấp có thẩm quyền phê duyệt cùng với phê duyệt
dự án đầu tư.
- Xây dựng phương án di chuyển, chính sách đền bù để nhân dân được
bàn bạc thảo luận, tổ chức lấy ý kiến nhân dân về việc thu hồi đất và cấp đất ở
nơi ở mới.
- Khi xây dựng kế hoạch đền bù giải phóng mặt bằng đến công tác tổ chức
thực hiện phải đảm bảo dân chủ, công khai. Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng
phải có sự phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ chính quyền và các đoàn thể ở địa phương,
thông qua quy chế, quy định trách nhiệm, thẩm quyền rõ ràng, rành mạch.
- Khi tiến hành thành lập hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng phải tuyển
chọn những thành viên tham gia có năng lực và kinh nghiệm, để khi thực thi vừa
đảm bảo tính khách quan, đúng đủ theo chế độ chính sách của Nhà nước vừa có
tính thuyết phục cao.
2) Quy trình đầu tư xây dựng cơ bản phải được đổi mới cho có hiệu quả vì

thực tế hiện nay, khi phê duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán công trình xong mới
tiến hành kê khai, kiểm đếm xác định kinh phí đền bù. Trong khi đó việc giải
ngân lại hoàn toàn phụ thuộc vào tiến độ thi công và niên độ cấp vốn, do đó có
15


nhiều công trình không được thực hiện theo đúng tiến độ thanh toán, do vướng
mắc trong công tác giải phóng mặt bằng. Vì vậy cần chấm dứt tình trạng vừa thi
công vừa giải phóng mặt bằng.
3) Khi thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng phải tiến hành khảo
sát, nắm bắt tình hình, hoàn cảnh, nguyện vọng của từng hộ trong diện phải di
chuyển, từ đó có kế hoạch phân công trách nhiệm tuyên truyền, vận động cụ thể.
Các chế độ chính sách về đền bù giải phóng mặt bằng phải được phổ biến công
khai, dân chủ, khi thực hiện phải nghiên cứu thật kỹ và chi tiết để tránh tình
trạng tính toán không đủ, sai các chế độ đã được Nhà nước quy định. Đặc biệt là
phải có mốc giới rõ ràng và sơ đồ hoàn công, chữ ký của chủ hộ và người được
chứng kiến.
Các cấp chính quyền địa phương chưa có sự phối hợp đồng bộ, chưa phát huy
vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức đoàn thể, một số tổ chức đoàn thể và phần đông
nhân dân còn đứng ngoài cuộc, chờ và nghe ngóng cách giải quyết của cấp trên.
4) Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở phải được tiến hành triển khai toàn
diện, chu đáo ở các lĩnh vực. Thực tế cho thấy việc lập kế hoạch và phê duyệt về
cơ bản nhân dân không được bàn bạc kể cả việc không công bố công khai quy
hoạch. Do đó, khi triển khai thực hiện gặp khó khăn trở ngại là lẽ đương nhiên,
vì người dân chưa nắm bắt được chủ trương chung, cũng như chưa chuẩn bị
trước về tư tưởng. Mặt khác việc triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng trường
tiểu học Xã An Phú cũng chưa được quán triệt đầy đủ. Đó là những nội dung của
công tác quản lý nhà nước, có ý nghĩa hết sức quan trọng nếu xem nhẹ hoặc đơn
giản hoá vấn đề thì hậu quả rất khó lường.
5) Quyền lợi của người dân trước hết là quyền lợi về kinh tế phải được tôn

trọng một cách triệt để và thực hiện nghiêm túc, đáp ứng những đòi hỏi chính
đáng của nhân dân. Hơn nữa phải tính đến những yếu tố khác tác động như
chính sách động viên. Thực tế cho thấy số tiền đề bù mà nhà nước quy định sẽ
không đủ các chi phí mà gia đình họ bỏ ra, trong khi điều kiện kinh tế còn eo
hẹp, thì không ai muốn làm việc đó, họ sẽ tìm mọi lý do để bảo vệ cái lý của họ.

16


Trong khi thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng cần phải có biện
pháp mềm dẻo, khi các quyết định của nhà nước còn nhiều bất cập, chưa được
điều chỉnh, bổ sung thì phải kết hợp đồng bộ các giải pháp quản lý về mọi mặt
như: kinh tế, xã hội, văn hoá.v.v. kết hợp nhuần nhuyễn giữa các biện pháp như:
Vận động, thuyết phục, cưỡng chế… Dựa trên pháp luật, trên cơ sở tôn trọng và
đảm bảo lợi ích của người dân, giải toả được tâm lý bức xúc.
6) Cấp uỷ, chính quyền các cấp ở địa phương đặc biệt là khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc lập
quy hoạch khu trung tâm xã, thôn bản. Đảm bảo vừa tiết kiệm được quỹ đất, khi
phát triển mở rộng không gây tốn kém, vừa giữ gìn vệ sinh môi trường, đồng
thời thuận tiện cho công tác quản lý đất đai của chính quyền cơ sở.
III. Kiến nghị và kết luận
Qua tình huống diễn ra chúng ta có thể xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
trong công tác quản lý nhà nước ở địa phương phải giải quyết hài hoà giữa
quyền lợi cá nhân và lợi ích chung của tập thể. Do trình độ trong công tác giải
quyết công việc chưa cụ thể, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn còn gặp rất
nhiều sai sót, đã dẫn đến việc nhân dân khiếu kiện như trên. Công tác đền bù
giải phóng mặt bằng là một công việc hết sức nhạy cảm, không đơn thuần chỉ
dùng những mệnh lệnh hành chính đơn phương, thông qua các quyết định quản
lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là một quá trình tổng hợp các biện
pháp quản lý, trong đó tiến hành công tác giáo dục, thuyết phục vận động nhân

dân là một biện pháp cơ bản hàng đầu, có ý nghĩa quyết định hiệu quả và hiệu
lực của công tác quản lý nhà nước vì đối tượng quản lý, tác động trực tiếp là
những người dân gắn với những quyền và lợi ích thiết thực của họ, ảnh hưởng
nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân.
Hiện nay các chế độ, chính sách về đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều
bất cập, chưa thống nhất, các văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn chỉnh và
đồng bộ. Nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển do đó đặt ra cho
công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản sự nhạy bén có quan điểm
toàn diện, vận dụng đảm bảo nguyên tắc chung, hợp tình hợp lý.
17


Trong quá trình xử lý một tình huống chỉ ra rằng, đội ngũ cán bộ công
chức phải có quan điểm đúng đắn, toàn diện, phải được bồi dưỡng, tập huấn kỹ
năng tác nghiệp cụ thể trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đồng thời
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và cơ sở. Ý thức của người dân là
rất tốt, tin tưởng vào cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, đội ngũ cán
bộ, công chức. Song, đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan công quyền khi thực thi
công vụ phải công tâm, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân, hay
nói một cách khác, trong sử lý đền bù không để cho dân bị thiệt dù ở mức độ thấp.
Cần phải nắm bắt được các đặc điểm tâm lý này của người dân để vận dụng
những biện pháp xử lý nhằm đạt những hiệu quả cao trong quá trình thực hiện.
Từ tình huống về công tác đền bù giải phóng mặt bằng trong đầu tư xây
dựng cơ bản trên cho thấy vụ việc tuy không lớn và quá phức tạp, căng thẳng.
Tuy nhiên, nếu không được giải quyết một cách kịp thời, sẽ tiềm ẩn những nhân
tố gây mất ổn định, dẫn đến hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước bị suy giảm.
Để giải quyết tình huống cần áp dụng đồng bộ các giải pháp trên cơ sở các chế
độ chính sách và pháp luật quy định. Mặt khác, hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành còn chưa đồng bộ, sự điều chỉnh bổ sung lại chưa kịp thời,
nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế. Từ đó thanh tra xin nêu một số

đề nghị như sau:
Xây dựng và ban hành chính sách đền bù cần phải điều chỉnh bổ sung cho
sát với thực tế của từng địa phương. Chẳng hạn như chế độ bồi thường thiệt hại
áp dụng đối với từng vùng, từng đối tượng.
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng luôn là công tác khó khăn, phức tạp.
Trong điều kiện hiện nay, mỗi địa phương áp dụng các quy trình, thủ tục khác
nhau, đặc biệt là các dự án được đầu tư từ các nguồn vốn vay của các tổ chức tín
dụng Quốc tế thì quy trình và đơn giá đền bù rất khác biệt với quy trình và đơn
giá của các địa phương. Để đảm bảo sự thống nhất thì Chính phủ nên sớm ban
hành quy chế chung, áp dụng trong phạm vi toàn quốc, xác định đơn giá đền bù
đảm bảo tính thực tế hơn.

18


Khi giải quyết các tình huống trong quản lý nhà nước cần có sự quan tâm,
cân nhắc một cách toàn diện và kĩ càng giữa lý và tình, giữa lợi ích chung của
tập thể Nhà nước và quyền lợi riêng của công dân. Giải quyết phải dựa trên
nguyên tắc dân chủ, công khai trên cơ sở tôn trọng quyền lợi hợp pháp và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Mặt khác người cán bộ lãnh đạo phải thực sự là người
đại diện cho ý trí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Tất cả vì lợi ích chung của
địa phương, của nhân dân, của đất nước mà phấn đấu khắc phục những khó khăn
tìm ra những giải pháp và biện pháp phù hợp vơí tình hình thực tiễn ở địa phương.
Tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cơ sở đương nhiệm để có
kiến thức về quản lý Nhà nước để điều hành Bộ máy chính quyền ở địa phương.
Quan tâm đến chế độ chính sách của cán bộ cơ sở để nhằm thu hút các
cán bộ có trình độ, năng lực về mọi mặt về công tác tại cơ sở.
Khi tiếp xúc với nhân dân, người lãnh đạo phải có thái độ nghiêm túc,
nhiệt tình, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Nói để dân nghe, nói
để dân hiểu, làm để dân biết, làm để dân làm (Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra). Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở từ đó nâng cao được uy tín lãnh
đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của nhà nước ở địa phương.

19



×