Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh vật học một số loài rau rừng và đề xuất giải pháp quản lý sử dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.6 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

BÙI VĂN TÂN

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI
SINH VẬT HỌC MỘT SỐ LOÀI RAU RỪNG VÀ ĐỀ
XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ SỬ DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, 2010


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

BÙI VĂN TÂN

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI
SINH VẬT HỌC MỘT SỐ LOÀI RAU RỪNG VÀ ĐỀ
XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ SỬ DỤNG

Chuyên ngành: Lâm nghiệp
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Kim Vui

Thái Nguyên, 2010




LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin trân thành cảm ơn Phó Giáo sư Tiến sĩ Đặng Kim Vui đã
hướng dẫn trực tiếp, chỉ đạo tận tình, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin trân thành cảm ơn Thạc sĩ La Quang Độ đã giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu trên thực địa.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự quan tâm, giúp đỡ,
động viên của các thầy cô giáo khoa Sau đại học Trường đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, cùng bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin trân thành cảm ơn Ban quản lý Vườn Quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn,
Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiền Thần Sa, tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện
thuận lợi để đến nghiên cứu trong quá trình làm luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ động
viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân thành cảm ơn./.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 11 năm 2010
Tác giả

Bùi Văn Tân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ của
các thầy giáo hướng dẫn và những người tôi đã cảm ơn. Các nội dung và kết quả
nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào./.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 11 năm 2010
Tác giả


Bùi Văn Tân


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT

CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
NN: Nông nghiệp
PTNT: Phát triển nông thôn
PTNNNT: Phát triển nông nghiệp nông thôn
VQG:Vườn quốc gia
OTC: Ô tiêu chuẩn
NXB: Nhà xuất bản
USD: Đô la Mỹ
Stt ÔDB: Số thứ tự ô dạng bản
TB Trung bình
VH: Văn hóa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ẢNH
Danh mục

Trang

Bảng 4.1: Phân bố rau Sắng với các các loài rau tại khu vực nghiên
cứu

48


Bảng 4.2: Điều tra rau Sắng ở các trạng thái, cấu trúc rừng

49

Bảng 4.3: Đo độ tàn che dưới tán rừng

51

Bảng 4.4: Các loài cây sống quanh Bò Khai

52

Biểu đồ nhiệt độ không khí, ẩm độ, nhiệt đất trong ngày tại điểm đo
1 vườn Quốc gia Ba Bể

55

Biểu đồ nhiệt độ không khí, ẩm độ, nhiệt đất trong ngày tại điểm đo
2 vườn Quốc gia Ba Bể

56

Ảnh: Rau Sắng

40

Ảnh; Bò khai

40


Ảnh: Rau Dớn

41

Ảnh: Rau Sắng tại khu bảo tồn Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên và
VQG Ba Bể, Bắc Kạn

42

Ảnh: Cây rau Bò Khai ở vườn Quốc gia Ba Bể, Bắc Kạn và ở khu bảo
tồn Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên

43

Ảnh: Cây rau Dớn ở vườn Quốc gia Ba Bể, Bắc Kạn và ở khu bảo tồn
Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên

44

Ảnh: Rau Sắng tái sinh tại vườn Quốc gia Ba Bể, Bắc Kạn

47


MỤC LỤC



1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ lâu, con người đã biết thu hái, sử dụng cây rau mọc hoang dại để phục
vụ nhu cầu trong cuộc sống. Đặc biệt trong những năm kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ và thiếu thốn, cây rau mọc hoang dại
đã góp phần quan trọng trong bữa ăn của bộ đội và nhân dân. Rau rừng đã bổ
sung một lượng dinh dưỡng cần thiết cho sức khoẻ của mọi người để hoàn
thành tốt nhiệm vụ chiến đấu và công tác.
Ngày nay, tuy là thời bình, cây rau mọc hoang dại vẫn đóng vai trò quan
trọng về dinh dưỡng cũng như làm thuốc phòng chữa bệnh đối với mọi tầng
lớp nhân dân đặc biệt là ở những nơi vùng núi rừng, vùng cao, vùng sâu, vùng
xa có khí hậu khắc nghiệt.
Cây rau xanh là thành phần quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của
nhân dân ta. Những câu nói “Cơm không rau như đau không thuốc” hoặc “Đói
ăn rau, đau uống thuốc” đã được khẳng định tầm quan trọng, sự cần thiết của
rau trong bữa ăn và trong đời sống con người [5].
Nhân dân ta có rất nhiều loại rau, phổ biến nhất trong bữa ăn hàng ngày là
các loại rau cải, rau muống, rau ngót… đặc biệt người dân sống ở miền núi
thường sử dụng các loài rau rừng như rau Dớn (Diplazium esculentum), rau
Sắng (Meliantha suavis Pierre)... Trong bữa ăn của người dân ta chỉ có hai loại
thực phẩm (tính bằng gam) thường xuyên chiếm 3 con số là gạo và rau. Cơm
rau cũng là thành ngữ quen thuộc và phổ biển ở Việt Nam.
Khoa học dinh dưỡng đã phân tích và xác định trong rau quả hầu hết các
chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Không những rau quả đã góp
phần quan trọng và kịp thời chống đói ở những vùng đói thường xuyên hoặc bị
thiên tai mà quan trọng hơn cả là vì rau là nguồn cung cấp chủ yếu vitamin,
chất khoáng, chất xơ và một phần quan trọng chất đạm là những chất dinh


2


dưỡng không thể thiếu đối với hoạt động sinh lý của cơ thể [5].


3

Rau là nguồn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho hoạt động
bình thường của các chức phận sinh lý và sự chuyển hoá của các chất trong cơ
thể. Lịch sử còn ghi lại 100 người trong số 160 thủy thủ của đoàn thám hiểm
Vasco de Gama đi tìm đường sang phương Đông đã bị chết về bệnh scorbut, do
chế độ ăn dài ngày trên biển thiếu Vitamin C. Lịch sử cũng ghi lại nhiều cuộc
chiến tranh đã phải nhanh chóng kết thúc vì hàng vạn quân số của 2 bên đều bị
bệnh thiếu vitamin, không còn sức chiến đấu [5].
Giá trị dinh dưỡng của rau cũng rất cao, nếu ăn mỗi ngày khoảng 300g rau
rừng sẽ cung cấp cho cơ thể khoảng 70 - 80 calo và trên 10g protein đồng thời
có thêm lượng vitamin C cần thiết cho cơ thể [5].
Ngày nay tuy là thời bình, thực phẩm đầy đủ nhưng vẫn còn nhiều người
thiếu kiến thức về ăn uống hợp lý dẫn đến xảy ra một số bệnh như khô mắt do
thiếu Vitamin A, tê phù do thiếu Vitamin B1... Thiếu Vitamin sẽ gây rất nhiều
bệnh tật, ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, thường xuyên gây cho người
ta cảm giác mệt mỏi, thiếu sức bền bỉ, năng suất lao động và công tác sút kém.
[5].
Về khẩu vị: ngoài các loại rau quen thuộc thì cây rau Sắng ở nước ta là loại
rau rất ngon được dân ta quen gọi là rau “mì chính”, nhiều loại rau còn có tác
dụng chữa bệnh như rau Bò Khai (Erythropalum scandens Blume) có tác dụng
lợi tiểu, chữa các bệnh viêm gan do virut…
Để duy trì được lâu dài nguồn rau rừng tự nhiên, trong khai thác thu hái sử
dụng cần phải được đảm bảo về điều kiện sinh tồn và phát triển của chúng,
nếu không chỉ sau một thời gian ngắn nữa nguồn rau rừng của chúng ta
không còn có khả năng phục hồi. Vì vậy khi khai thác thu hái rau rừng cần chú ý
thực hiện nguyên tắc “Ăn cây nào lấy cây đó, sử dụng bộ phận nào lấy bộ phận

đó” không được chặt tận gốc, nhổ cả cây. Chống quan niệm chỉ thu hoạch mà
không chăm sóc bảo vệ điều kiện và khả năng sinh tồn lâu dài của chúng.


4

Hiện nay do tầm quan trọng của cây rau trong đời sống đặc biệt là là một số
loài rau rừng được người dân ở những nơi vùng núi gây trồng và sử dụng khá


5

phổ biển theo nhiều hình thức và phương thức khác nhau. Tuy vậy những hình
thức và phương pháp đó chưa góp phần nhiều trong công việc bảo tồn và phát
triển bền vững các loài rau rừng vì vậy việc “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái,
sinh vật học một số loài rau rừng và đề xuất giải pháp quản lý sử dụng” là
công việc rất cần thiết và cấp bách.


6

Chương I. TỔNG QUAN LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Các nghiên cứu về bảo tồn tài nguyên rừng gắn với hoạt động sinh
kế của cộng đồng địa phương
Trên thế giới cộng đồng quốc tế có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực làm thay
đổi chiến lược bảo tồn từ đầu năm 1980. Một chiến lược bảo tồn mới dần
được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên và vườn quốc gia với các hoạt động sinh kế của các cộng
đồng địa phương, cần thiết cho sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên

cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định.
Một dự án thử nghiệm của dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua
sự cộng tác” thực hiện tại Phu kheio Wildife Santuary, tỉnh Chaiyaphum ở miền
Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng “Điều căn bản để quản lý bền vững tài
nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải
bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động thu nhập của
họ”.
2.1.2. Các nghiên cứu về vai trò và giá trị sử dụng các loài rau
Theo Farmsworth et al., 1985 thì vào năm 1985 có khoảng 119 hợp chất
hóa học chiết xuất từ thực vật bậc cao được sử dụng vào sản xuất thuốc
trên toàn thế giới. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính là có 80% người dân ở
các nước đang phát triển của thế giới hiện đang phụ thuộc vào các loại thuốc
truyền thống để chữa bệnh và trong khoảng 85% các loại thuốc truyền thống
đó có sử dụng các chiết xuất từ thực vật.
Rất nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu tìm các hợp chất
mới từ thực vật như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Đức, Ấn Độ... Trong thực tế
các nghiên cứu như vậy chỉ được bắt đầu từ thế kỷ 19 và công nghệ cũng phát


7

triển rất mạnh mẽ từ đó. Tại trung tâm Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ đã kiểm tra rất
nhiều loài thực vật để tìm kiếm chất ung thư, rất nhiều loài đã chứng tỏ có
hoạt


8

chất chống ung thư, một số hoạt chất đã được chiết xuất và nghiên cứu về
cấu trúc để thử nghiệm chữa trị cho con người.

Tại Hồng Kông vào năm 1981 với dân số gần 5,7 triệu người, Hồng Kông có
ít nhất 346 người bán cây cỏ làm thuốc và 1477 cửa hàng bán thuốc từ các
loại cây cỏ, trong khi đó có 3362 thầy thuốc có đăng ký và 375 hiệu thuốc. Hiệp
hội các nhà thuốc Bắc ở đây có khoảng 5.000 hội viên. Có thể nói Hồng Kông là
một thị trường đông dược lớn nhất thế giới, nhập khẩu vượt con số 190 triệu
đô la Mỹ mỗi năm. Chỉ có khoảng 70% các loại sản phẩm thảo dược đó là được
sử dụng tại chỗ, còn 30% lại được tái xuất. Theo tính toán thì mỗi năm người
dân nơi đây tiêu thụ khoảng 25 đô la Mỹ cho thuốc Bắc. Đây mới chỉ là số liệu
tính riêng cho Hồng Kông mà chưa hề đưa ra các số liệu cho cả Trung Quốc, một
đất nước mà từ hàng nghìn năm qua người dân đã quen sử dụng thuốc dân tộc
sản xuất từ thực vật để chữa bệnh.
Tại Nhật Bản hệ thống y học cổ truyền được gọi là Kampo là một dạng ứng
dụng y học Trung Quốc. Thuốc dân tộc bao gồm các sản phẩm từ tự nhên, mà
chủ yếu là các chiết xuất từ thực vật. Tổng chi phí cho các sản phẩm thuốc tại
Nhật Bản là khoảng 8,3 tỉ đô la Mỹ trong năm 196, song các loại thuốc dân tộc
chỉ chiếm 12,5 triệu đô la Mỹ. Vào năm 1984, tổng chi phí cho các loại thuốc đã
lên tới 14,6 tỉ đô la Mỹ và chi phí cho thuốc dân tộc cũng tăng lên 150 triệu đô
la Mỹ (Terasawa, 1986).
Tonga Noweg và cộng sự (2003) nghiên cứu những loài cây làm rau lấy từ
rừng của các cộng đồng trong khu vực Vườn quốc gia Crocker Range, Sabah,
Malaysia cho thấy có đến 70,6% cộng đồng dân cư có lấy các loài rau từ rừng,
82% phụ nữ tham gia lấy các loại rau rừng phục vụ cho gia đình 18% vừa lấy để
dùng vừa đem bán ở các chợ địa phương.
Wang Guang-Yin và cộng sự (2002) nghiên cứu về khai thác và sử dụng
nguồn tài nguyên rừng tại tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, chỉ ra có tới 91họ, 226 chi


9

và 415 loài. Phân bố địa lý, sự khai thác và cách thức sử dụng được chỉ rõ và



10

đặc tính của loài, đặc điểm sinh học, các phần có thể ăn được, thời gian thu
hái và sinh cảnh của chúng cũng đề cập tới.
Tugba Bayrak Ozbucak và cộng sự đã nghiên cứu phân bố các loài cây ăn
được ở vùng biển đen Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy các loài cây ăn được rất phổ biến và
được dân cư vùng này sử dụng thường xuyên, thống kê được có 52 loài cây ăn
được thuộc trong 26 họ. Họ có số loài nhiều nhất là họ Lamiaceae (10 loài), tiếp
theo là các họ Asteraceae (5loài), Apiaceae và Boraginaceae (4 loài), Liliaceae
(3 loài), Orchidaceae và Polygonaceae (2 loài).
Ở Thái Lan đã và đang phát triển các mô hình trồng cây rau Sắng
(Melientha suavis) dưới tán các vườn cây ăn quả hay trong các mô hình nông
lâm kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông lâm nghiệp.
2.1.3. Thị trường rau xanh một số nước trên thế giới
Trong những năm gần đây, thị trường rau tươi ở châu Âu giảm về khối
lượng nhưng tăng về giá trị. Ở nhiều nước phía Đông châu Âu, mức tiêu dùng
sản phẩm rau tươi vẫn tiếp tục tăng và người tiêu dùng đang chuyển dần từ
tiêu dùng một số loại rau cơ bản sang những sản phẩm đa dạng hơn bao gồm
cả các loại nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự tồn tại sẵn có của nhiều đồ ăn khác như
thức ăn nhẹ, đồ ăn nhanh đã trở thành sản phẩm cạnh tranh gay gắt đối với sản
phẩm rau tươi. Các nước như Đức, Tây Ban Nha, Ý, Pháp là những thị trường
lớn nhưng đã gần như bão hòa. Chỉ có một số thị trường ngách và một số
nhóm sản phẩm nhất định còn có cơ hội tăng trưởng. Đây cũng là cơ hội cho
các nước đang phát triển đẩy mạnh việc xuất khẩu rau xanh và thị trường châu
Âu [40]
Tại các cửa hàng bán đồ châu Á và các khu chợ buôn bán ở một số thành phố
lớn như Moscow, Berlin, Praha, Warsaw, London, Paris… những mớ rau
muống, mùng tơi, cải xanh, rau bí, mướp, bầu, cùng rau thơm đủ loại: rau mùi,

húng láng, húng chó, tía tô, kinh giới … được bầy bán khắp nơi, nhìn qua tưởng


11

“thuần Việt”, nhưng thật ra được trồng tại chính các nước sở tại. Nhu cầu
sử dụng rau xanh của các nước trên thế giới ngày một tăng cao. Bảng theo dõi
chi


12

phí sinh hoạt các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày của mirror.co.uk cũng cho thấy
người tiêu dùng tại Anh hiện đang phải chi thêm trung bình hơn 3% so với năm
2009 để mua rau xanh [41]
Nếu ở Việt Nam, các loại rau xanh bị coi là thực phẩm “bình dân”, nhà nào
cũng có trong bữa cơm gia đình thì khi đã “định cư” ở trời Tây, lại được xem là
món “sơn hào hải vị”. Điển hình nhất là rau muống, từ lúc nào đã trở thành
mặt hàng rất hút khách ở các nước châu Âu và chỉ dành cho những gia đình khá
giả. Không chỉ người châu Á thích ăn rau muống, mà cả dân Tây cũng ưa
chuộng. Tùy theo mùa, rau muống ở Nga có giá dao động từ 4,5 - 10 USD 1kg; ở
Đức là
7USD, Praha 5USD… Theo ủy ban Phát triển Thị trường Trái cây và Rau quả tại
Kalimati tại Ấn Độ, tổng lượng rau các loại đưa ra thị trường đã lên đến 360
tấn/ngày bắt đầu từ 17/01/2010. Trước khi lễ hội, cung lượng trung bình hàng
ngày của các mặt hàng nông sản trên thị trường vào khoảng 600-650 tấn/ngày.
Với sự cải thiện nguồn cung cấp, giá các loại rau quan trọng đã liên tục giảm
trên thị trường. "Hầu hết các mặt hàng rau quả hiện đang được bán với giá
thấp hơn so với giá đã ghi nhận một vài tuần trước đây", ông Ramesh Dangol,
một quan chức của ủy ban cho biết. Theo tin từ ủy ban, giá cả của cà chua lớn,

khoai tây đỏ và khoai tây trắng giảm xuống lần lượt là 24 Rupi, 20 Rupi và 14
Rupi/kg từ các mức giá 26 Rupi, 22 Rupi và 16 Rupi/kg ghi nhận được trước
đây hai tuần. Tương tự như vậy đối với một số loại rau khác như hành, súp lơ
thường và súp lơ Tarai cũng được bán với giá lần lượt là 33 Rupi, 18 Rupi và 10
Rupi/kg, giảm từ 36 Rupi, 22 Rupi và 18 Rupi/kg tương ứng. Giá của tỏi
Trung Quốc cũng giảm xuống còn 120 Rupi/kg từ 124 Rupi/kg trong khoảng
thời gian này. Tuy nhiên, giá của dưa chuột lại tăng từ 20 Rupi/kg lên 24 Rupi/kg
[41]
2.2. Ở trong nước


13

2.2.1. Cơ sở của việc bảo tồn và phát triển bền vững các loài rau rừng
Trước đây khi nguồn lâm sản ngoài gỗ đặc biệt là cây rau còn phong phú,
người ta ít chú ý đến việc bảo tồn nguồn gen của chúng. Đến cuối thế kỷ XX khi


14

nhận ra rất nhiều loài lâm sản ngoài gỗ đã trở lên khan hiếm, một số loài đứng
trước nguy cơ tuyệt chủng nên chúng ta mới bắt đầu chú ý bảo tồn nguồn gen.
Ở Việt Nam hiện nay quan điểm bảo tồn nguồn gen thường kết hợp với bảo tồn
đa dạng sinh học vì bếu bảo vệ được hệ sinh thái, bảo vệ được các loài động
thực vật thì cũng bảo vệ được nguồn gen của chúng. Hiện nay có 2 hình thức
để bảo tồn nguồn gen lâm sản ngoài gỗ là: Bảo tồn nội vi (In situ) và bảo tồn
ngoại vi (Ex situ) [2].
- Bảo tồn nội vi (Bảo tồn In situ): Là hình thức bảo tồn các hệ sinh thái và
những nơi cư trú tự nhiên, duy trì và phục hồi các quần thể loài đang tồn
tại trong điều kiện sống tự nhiên của chúng. Trong trường hợp các loài được

thuần hoá và canh tác, công việc này được tiến hành tại khu vực mà các giống
vật nuôi cây trồng đó hình thành nên đặc tính của mình. [theo CBD]. Là hình
thức bảo tồn đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái vận động tiến hoá của nơi
cư trú nguyên thủy hoặc môi trường tự nhiên. [theo GBA]
Hiện nay, đối với một bộ phận lớn của đa dạng sinh học trên trái đất, công
tác bảo tồn chỉ khả thi khi các loài đó được duy trì trong phạm vi phân bố cũng
như ở trạng tự nhiên của chúng. Điều này còn có nhiều ý nghĩa khác như cho
phép loài tiếp tục quá trình thích nghi trong tiến hoá và về nguyên tắc đảm bảo
cho việc tiếp tục sử dụng các loài (mặc dù điều này đòi hỏi phải có sự quản lý).
- Bảo tồn ngoại vi (Bảo tồn Ex situ): Là hình thức bảo tồn các thành phần
của đa dạng sinh học bên ngoài những nơi cư trú tự nhiên của chúng. [theo
CBD]. Là hình thức duy trì các thành phần của đa dạng sinh học tồn tại bên
ngoài nơi cư trú nguyên thủy hoặc môi trường tự nhiên của chúng. [theo GBA]
Các quần thể đang tồn tại của nhiều sinh vật có thể được duy trì trong
canh tác hoặc nuôi giữ. Thực vật có thể được bảo tồn trong ngân hàng hạt
giống và các bộ sưu tập mô; các kỹ thuật tương tự cũng được phát triển cho
động vật (lưu giữ phôi, trứng, tinh trùng), nhưng khó giải quyết hơn nhiều.


15

Nước ta nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa; nhiệt độ trung bình
năm khác nhau giữa các địa phương; lượng mưa trung bình lớn nhưng phân bố
không đều theo vùng lãnh thổ và trong năm.
Nhờ có yếu tố về địa hình và khí hậu đa dạng, do vậy nước ta có thảm thực
vật phong phú và nguồn cây làm thuốc dồi dào. Bảo tồn và phát triển
nguồn gien, giống cây làm thuốc là một việc làm cần thiết góp phần tăng nguồn
lực chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Các nhà khoa học đã phát hiện ở nước ta có 3.948 loài thực vật và nấm lớn
được dùng làm thuốc, thuộc 307 họ của chín ngành và nhóm thực vật khác

nhau. Trong đó có 52 loài tảo biển, 22 loài nấm, bốn loài rêu và 3.870 loài
thực vật bậc cao. Mỗi loài lại có bộ gien đa dạng riêng của mình. Ðiều này làm
cho kho tàng nguồn gien cây thuốc ở Việt Nam vô cùng đa dạng, từ cấp hệ sinh
thái đến cấp loài và phân tử.
Phần lớn số loài cây thuốc ở nước ta được ghi nhận dựa trên tri thức
và kinh nghiệm sử dụng của cộng đồng dân tộc ở khắp các địa phương trên
toàn quốc. Tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc ở nước ta tồn tại ở nền y học
chính là y học cổ truyền chính thống, với các hệ thống lý luận và thực hành
được tư liệu hóa trong sách vở như các học thuyết Âm - Dương, Ngũ hành,
v.v. Các nền y học nhân dân hay y học cổ truyền dân tộc, thường được gọi là
thuốc Nam. Ðiều này đã tạo nên một kho tàng tri thức sử dụng cây thuốc của
các dân tộc ở nước ta rất phong phú.
Nhận thức được vai trò và tiềm năng của cây thuốc trong công tác chăm
sóc sức khỏe, chữa trị bệnh tật và phát triển kinh tế, bảo vệ bản sắc văn hóa các
dân tộc, nước ta đã tích cực tham gia và phê chuẩn các công ước quốc tế như
Công ước Ða dạng sinh học (1992), Kế hoạch và Hành động đa dạng sinh học
(1994) và ban hành nhiều luật và chính sách gắn liền việc chăm sóc sức khỏe
nhân dân, phát triển ngành dược và bảo tồn cây thuốc. Một trong số đó là việc


16

triển khai nhiệm vụ Bảo tồn nguồn gien và giống cây thuốc của Bộ Khoa học
và Công


17

nghệ và Môi trường từ năm 1988, trước khi có hướng dẫn bảo tồn cây thuốc
của Tổ chức Y tế thế giới và chuyển thành Ðề án bảo tồn nguồn gien và giống

cây thuốc vào năm 1997.
Công tác bảo tồn và phát triển giống cây thuốc trong 20 năm qua đã thu
được kết quả đáng khích lệ. Các địa phương đã hình thành hệ thống bảo tồn
cây thuốc rộng khắp, từ vườn thực vật, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên
đến các vườn thuốc Nam thiết yếu và vườn hộ tại các cộng đồng. Các nguồn
gien và giống cây thuốc cũng như tri thức sử dụng chúng đang được lưu giữ
trong các hệ thống bảo tồn trong cả nước có giá trị tiềm năng to lớn. Có hàng
triệu hộ gia đình ở nước ta thuộc vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa
đang hằng ngày sử dụng cây thuốc được trồng trọt và lưu giữ tại các vườn hộ,
tại các vườn thuốc Nam thiết yếu cũng như ở thiên nhiên chung quanh nơi
sinh sống. Các hoạt động bảo tồn như chọn tạo, phục tráng, đột biến gien,
nghiên cứu quy trình trồng trọt, v.v. đã tạo ra những giống cây thuốc có năng
suất và hàm lượng hoạt chất cao, ổn định. Ðiều này tạo nền tảng quan trọng
trong việc thực hiện Thực hành trồng trọt tốt các cây thuốc (GAP), một điều
kiện tiên quyết để thực hiện Thực hành sản xuất thuốc tốt (GMP) trong công
nghiệp dược, tạo ra các sản phẩm hàng hóa có chất lượng ngày càng cao, bảo
đảm hiệu lực điều trị cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuốc và
sản phẩm thiên nhiên của nước ta. Mặc dù đã đạt được những thành tựu có ý
nghĩa quan trọng trong công tác bảo tồn nguồn gien phát triển giống cây
thuốc, ngành dược đang gặp nhiều khó khăn, cần tháo gỡ.
Nhiều nhà khoa học, cán bộ quản lý tham gia Hội nghị tổng kết 20 năm
thực hiện nhiệm vụ bảo tồn nguồn gien và phát triển giống cây thuốc, cho rằng:
Khung pháp lý cho công tác bảo tồn chưa được kiện toàn một cách đồng bộ.
Nhiều điều luật, chủ trương, chính sách chưa được cụ thể hóa dẫn đến sự lúng
túng trong triển khai công tác bảo tồn cây thuốc, có khi chồng chéo nhau nhưng


×