Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Chính sách tỷ giá hối đoái ở việt nam giai đoạn 2008 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.96 KB, 20 trang )

I. Cơ sở lý luận về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ
giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng mỗi quốc gia.Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng
như sự biến động của tỷ giá giữa USD/VNĐ trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá luôn
là vấn đề thời sự, nhạy cảm. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác
động lên hoạt động XNK và cán cân thương mại, cán cân thanh toán của mỗi quốc
gia. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến hoạt động XNK, cán cân thương
mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến
niềm tin của dân chúng. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ giá thích
hợp là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là nhà nước sử dụng và
điều chỉnh chính sách tỷ giá như thế nào để phù hợp với mục tiêu kinh tế xã hội của
quốc gia và đảm bảo sự ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.
1.

Tỷ giá hối đoái

a)

Khái niệm
Tỷ giá hối đoái là giá cả chuyển đổi của một đơn vị tiền tệ nước này thành đơn
vị tiền tệ nước khác.

b) Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
- Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ lưu thông là tiền đúc bằng vàng và giấy bạc ngân

hàng tự do chuyển đổi ra vàng, thì cơ sở xác định tỷ giá hối đoái là hàm lượng
vàng của hai đồng tiền.

-


c)

VD: năm 1958, hàm lượng vàng của bảng Anh(GBP) là 2,488 gram vàng nguyên
chất, của dolla Mỹ là 0,888674 gram vàng nguyên chất. Như vậy đồng giá vàng
của GBP là 2,488/0.888674 =2,799. Nghĩa là 1GBP= 2,799 USD
Khi giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra vàng thì ngang giá vang
không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái, việc xác định tỷ giá hối đoái được
thực hiện bằng cách dựa trên quy luật một giá và ngang giá sức mua ( chế độ bản
vị tiền giấy sau tháng 12/1971)
+ Quy luật một giá: Nếu bỏ qua chi phí vận chuyển, hàng rào thương mại và các
rủi ro, thị trường là cạnh tranh hoàn hảo, thì các hàng hóa giống hệt nhau sẽ có giá
là như nhau ở mọi nơi khi quy về một đồng tiền chung.
+ Ngang giá sức mua là so sánh sức mua của hai đồng tiền. Nghĩa là phải dựa theo
chỉ số giá cả những nhóm hàng hóa và dịch vụ nhất định được tao đổi trên những
thị trường đã được lựa chọn.

Vai trò của tỷ giá


-

Tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ biên giới quốc gia về tiền tệ, góp
phần thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các nước.
Tỷ giá có vai trò quan trọng trong điều chỉnh kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Tỷ giá có vai trò quan trọng trong điều chỉnh kinh tế vi mô.
Tỷ giá có vai trò to lớn trong việc tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hóa, trong
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tham gia vào các thị trường vốn, thị trường tiền tệ
của quốc gia.

-


Tỷ giá hối đoái phản ánh quan hệ cung cầu ngoại tệ của một quốc gia.

-

2.Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái
Khái niệm: Chính sách điều hành tỷ giá là những định hướng và giải pháp của
Nhà nước nhằm đảm bảo sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, thực hiện
chính sách ổn định tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế đã dự định.
a)
-

b)

Ý nghĩa của chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá là một bộ phận hữu cơ của chính sách tiền tệ, liên quan đén
ngoại tệ và ngoại hối nói chung.
Có ảnh hưởng quan trọng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: xuất nhập khẩu, thu
hút đầu tư, vay trả nợ, lợi suất tái chiết khấu... nên ảnh hưởng lớn tới lưu thông tiền
tệ.
Tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng nội địa trên thị trường quốc tế, cũng
như bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.
tác động lớn đến chính sách dòng chảy ngoại tệ của quốc gia như thu hút kiều hối
và ngoại tệ, ảnh hưởng lớn tới dự trữ quốc gia.

Mục tiêu của chính sách tỷ giá
 Mục tiêu trực tiếp:

-


Giữ ổn định của tỷ giá và tiền tệ, đặc biệt là tỷ giá với những đồng tiền mạnh, đảm
bảo sự phát triển ổn định và vững chắc của nền kinh tế quốc dân
Thu hút ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán.
Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, mở rộng các hoạt động tài chính quốc tế của
quốc gia thông qua các hoạt động thu hút đầu tư quốc tế, tín dụng quốc tế...
Mục tiêu chiến lược lâu dài:


-

-

Giữ vững chủ quyền tiền tệ quốc gia, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
chống hiện tượng ngoại tệ hóa, đặc biệt là dollar hóa trong các giao dịch trên thị
trường.
Nâng dần vị thế của nội tệ, thực hiện chuyển đổi từng phần, tiến tới chuyển đổi
hoàn toàn đồng nội tệ.

c)Nội dung của chính sách tỷ giá
Nội dung của chính sách tỷ giá gắn liền với nội dung của chính sách tiền tệ nói
chung và chính sách hối đoái nói riêng, chỉ có thể nêu khái quát hoạt động và định
hướng của chính sách này:
-

Chính sách ổn định tỷ giá: các Chính phủ cố gắng duy trì tỷ giá hối đoái ổn định
Điều chỉnh tỷ giá thay đổi phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Hoạch định chiến lược tỷ giá với các đồng tiền mạnh như USD, EUR, JPY.
Đưa ra những biện pháp nhằm đảm bảo tỷ giá luôn ổn định tương đối, tránh các cú
sốc về tỷ giá thông qua các công cụ: sử dụng linh hoạt quỹ dự trữ ngoại tệ, chính

sách lãi suất, khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu, tăng cường thu hút vốn
đầu tư và tài trợ nước ngoài.

d. Một số biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
-

-

Để điều chỉnh tỷ giá hối đoái, NHTW sử dụng một số biện pháp sau:
Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là chính sách của NHTW dùng công cụ lãi suất tái chiết
khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường
Khi tỷ giá lên cao, muốn làm cho tỷ giá hạ xuống NHTW tăng lãi suất chiết khấu
đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Khi tỷ giá xuống thấp, muốn làm tăng tỷ giá,
NHTW giảm lãi suất chiết khấu đối với đồng ngoại tệ.
Tuy nhiên, sự vận động của dòng vốn giữa các quốc gia không chỉ chịu ảnh hưởng
của lãi suất mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: tình hình chính trị,
tính mạnh yếu của đồng tiền… Do vậy, chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh
hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá hối đoái. Nhưng chính sách chiết khấu
vẫn là 1 công cụ vĩ mô được nhiều nước sử dụng để can thiệp vào sự biến động của
tỷ giá.
Chính sách hối đoái
Chính sách hối đóa là biện pháp NHTW can thiệp trực tiếp đến tỷ giá bằng cách
mua bán ngoại tệ.


-

-


Khi tỷ giá hối đoái tăng, muốn giảm tỷ giá hối đoái NHTW sẽ bán ngoại tệ ra. Khi
tỷ giá hối đoái giảm, muốn tăng tỷ giá hối đoái NHTR sẽ mua ngoại tệ vào.
Chính sách này chỉ có tác dụng tạm thời để ổn định tỷ giá hối đoái, không thể thay
đổi tình hình tiền tệ trong nước và chỉ được áp dụng khi NHTW có dự trữ ngoại tệ
dồi dào.
Phá giá tiền tệ
Phá giá tiền tệ là giảm giá trị của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, làm cho đồng
nội tệ mất giá trị ở 1 mức nào đó. Điều này làm cho giá cả hàng hóa, sản phẩm của
nước này tại nước ngoài trở nên rẻ hơn, do đó kích thích xuất khẩu, tăng thu ngoại
tệ, tăng dự trữ ngoại hối.
Ngược với dòng luân chuyển của hàng hóa là dòng luân chuyển của vốn. Phá giá
nội tệ sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn làm giảm nhu cầu về ngoại tệ. Khuyến khích
du lịch trong nước.
Nâng giá tiền tệ
Nâng giá tiền tệ là việc nâng sức mua của nội tệ so với ngoại tệ, cao hơn sức mua
thực tế của nó. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ ngược lại so với phá giá tiền tệ
Một quốc gia nâng giá tiền tệ do:
+ Áp lực của nước khác
+ Để tránh phải tiếp nhận những đồng đôla bị mất giá từ Anh và Mỹ chạy vào nước
mình.
+ Để hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng( để giảm xuất khẩu, giảm đầu tư vào trong
nước)
+ Để xây dựng sự ảnh hưởng của nước mình ra bên ngoài ( tăng cường đầu tư và
xuất khẩu vốn ra bên ngoài).

II. Thực trạng chính sách tỷ giá ở Việt Nam năm 20082012
1.

Năm 2008


a.

Bối cảnh chung

Trên thực tế vào nửa đầu năm 2007 và từ tháng 10/2002 đến tháng 3/2008, thị
trường ngoại hối Việt Nam đã có dư cung về USD khiến cho tỷ giá NHTM giảm
xuống sàn biên độ. VNĐ đã lên giá trong giai đoạn này. Trong nửa đầu năm 2008, lạm
phát tăng cao và cuộc khủng hoảng kinh tế Thế Giới đã bắt đầu tác động tới nền kinh
tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Từ giữa năm 2008. Cùng với sự suy thoái kinh
tế, luồng FII vào Việt Nam đã bắt đầu đảo chiều.


b.

Chính sách tác động của nhà nước

- Trong khoảng thời gian từ 01/01 đến 25/03/2008, giai đoạn này: nguồn cung ngoại tệ
là rất lớn do lượng Kiều hối nhận được nhiều( gần dịp tết dương lịch); Các nhà đấu tư
dự kiến VNĐ sẽ tăng giá so với USD cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và
VNĐ nên các nhà đầu tư và các NHTM đẩy mạnh bán USD và mua VNĐ. NHNN đã
điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 10 lên 11% tháng
2/2008.Ngoài ra, Chính Phủ và NHTW đã đẩy mạnh kiềm chế lạm phát, sử dụng
chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTW không thực hiện mua USD nhằm hạn chế bơm tiền
ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VNĐ từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày
10/03/2008. Kết quả của các chính sách trên làm tỷ giá USD/VNĐ liên tục giảm dưới
mức sàn.
- T ừ ngày 26/03 đ ến 16/07/2008, trong giai đoạn này tỷ giá tăng dần đều và đột
ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên tới 19400đ/USD ngày 18/06, trên thị
trường tự do tỷ giá này còn ở mức cao hơn. Mặc dù NHTW đã có những chính sách
điều chỉnh song tỷ giá vẫn tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị

trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.Khi NHTW nới biên độ từ 1% lên 2% và
kiểm soát chặt các bàn thu đổi ngoại tệ tỷ giá đã giảm
- Từ ngày 17/07 đến 15/10/2008, Tỷ giá giảm mạnh từ 19400đ/USD xuống
16400đ/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16600đ/USD trong giai đoạn từ tháng 8
tới tháng 11. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn
đứng. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử
NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia là 20,7 tỷ USD khi các thông
tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.NHNN đã ban hành một loạt
chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi
ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM),
cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và
cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Sự nỗ lực của NHNN với những chính sách hiệu quả đã dần đưa tỷ giá về trạng thái
ổn định.
- Từ ngày 16/10 đến hết năm 2008, Tỷ giá USD/VNĐ tăng đột ngột từ mức
16.600đ/USD lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên
độ tỷ giá quy định. Tuy nhiên nguồn cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Và một lần
nữa NHTW tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3%, trong ngày 7/11/2008, tỷ giá tăng lên
177.440đ/USD. Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao do khi NHNN không cho
phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập
khẩu. NHNN đã bán USD cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu tín dụng cần thiết. Giai
đoạn này tỷ giá USD đã tăng trở lại.

2.Năm 2009
a. Bối cảnh chung


Trong cả năm áp lực về cung cầu trên thị trường cùng với áp lực tâm lý đã khiến
tỷ giá trên thị trường tự do ngày càng dời xa tỷ giá chính thức. Tình trạng nhập siêu
kéo dài và ngày càng tăng từ tháng 3 đến cuối năm cộng với chênh lệch lớn giữa giá

vàng trong nước và quốc tế đã khiến cho nhu cầu về USD tăng mạnh để phục vụ nhập
khẩu.Tâm lý hoang mang mất long tin vào VNĐ làm tăng cầu và giảm cung về USD
đã đẩy tỷ giá thị trường tự do tăng lên hàng ngày. Người dân lo ngại thực sự về khả
năng phá giá tiền VNĐ, sau khi một số báo cáo của các định chế tài chính được công
bố.
b.
-

Chính sách tác động của nhà nước

Từ ngày 01/01 đến 24/11/2009, hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tâm lý bất
ổn của cả DN và người dân làm cho tỷ giá biến động mạnh trên thị trường liên ngân
hàng và thị trường tự do. Trước tình hình trên NHTW đã phải nới rộng biên độ dao
động của tỷ giá chính thức trong tháng 3 từ +/-3% lên +/-5% biên độ lớn nhất trong
vòng 10 năm qua, nhưng các NHTM vẫn giao dịch ở mức tỷ giá trần. Ngoài ra, tác
động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, lãi suất vay tiền đồng
thập, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên một
số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng
chứ không mua VNĐ bằng USD. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn
khi triển khai gói kích cầu. Và còn một số nguyên nhân khác như thâm hụt cán cân
thương mại lớn các tháng cuối năm 2008… đều làm cho tỷ giá tăng mạnh.
- Từ ngày 25/11 đến hết năm 2009, tình trạng nhập siêu tăng cao (cụ thể trong
tháng 11, nhập siêu lên tới 2 tỷ USD mức lớn nhất trong năm). Thêm vào đó với
chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế đã khiến cho nhu cầu về USD tăng
mạnh để phục vụ nhập khẩu. Đến ngày 26/11/2009, NHTW buộc phải chính thức phá
giá VNĐ 5,4%, Tỷ lệ phá giá cao nhất trong 1 ngày kể từ năm 1998 để chống đầu cơ
tiền tệ và giảm áp lực thị trường, đồng thời thu hẹp biên độ dao động xuống còn +/3%. Cùng với chính sách tỷ giá, vào thời điểm này NHTW đã nâng lãi suất cơ bản từ
7% lên 8%/năm. Các chính sách trên được cho là hợp lý nhưng khá muộn, tỷ giá trên
thị trường tự do vào cuối năm 2009 vẫn ở mức cao và các NHTM tiếp tục giao dịch ở
mức trần.

Như vây, NHTW đã có nhiều nỗ lực trong điều hành chính sách tỷ giá nhưng
việc sử dụng biên độ tỷ giá thay cho việc phá giá chính thức vào tháng 3/2009 lại
không có tác dụng như mong muốn. Trong cả năm, bất chấp các biện pháp hành
chính( như yêu cầu các tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho chính phủ) cũng như
các công bố của lãnh đạo NHTW, NHTW đã không thể kéo tỷ giá thị trường tự do về
sát với tỷ giá NHTM như mong muốn. Thêm vào đó, do phải giữ ổn định tỷ giá trong
thời gian dài, NHTW đã phải bán ra hơn một lượng lớn USD làm giảm dự trữ ngoại
hối. Vào cuối năm 2009, kỳ vọng mất giá của đồng tiền VN hiện vẫn còn khá lớn.
3.

Năm 2010


a.

Bối cảnh chung

Tỷ giá USD/VNĐ năm 2010 là vấn đề thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà hoạch
định chính sách, các nhà nghiên cứu cũng như giới đầu tư khi nó liên tục có những
diễn biến bất thường, gây nên những bất ổn về kinh tế vĩ mô. Ngoài sự tăng lên của
giá vàng thì những bất ổn nội tại về kinh tế vĩ mô như thâm hụt thương mại ngày càng
tăng trong khi dự trữ ngoại hối khá mỏng, lạm phát tăng lên mức hai con số (chỉ số giá
tiêu dùng trong 11 tháng năm 2010 tăng 9,58% so với tháng 12/2009 và tăng 11,09%
so với cùng kỳ năm 2009 – nguồn GSO, vượt xa mức dự báo là 7-8%) là nguyên nhân
chính đẩy tỷ giá USD tăng cao. Những bất ổn diễn ra liên tục và ngày càng tăng cao
đã làm suy giảm niềm tin của người dân vào giá trị của VNĐ cũng như làm suy giảm
niềm tin của thị trường vào khả năng giải quyết các bất ổn đó của các cơ quan hữu
quan. Chính vì niềm tin bị giảm sút nên khi giá vàng tăng đẩy giá USD tăng thì tâm lý
đổ xô mua các tài sản này khiến cho VNĐ ngày càng trở nên mất giá. Diễn biến tỷ giá
USD trên thị trường năm 2010 có thể được chia thành ba giai đoạn tùy thuộc vào mối

quan hệ giữa tỷ giá trên thị trường tự do và trên thị trường chính thức.
b.
-

-

Chính sách tác động của Nhà nước

Giai đoạn 1: Quý I,quý II, tình hình cung cầu ngoại tệ có 2 điểm đáng lưu ý: thứ
nhất, trong hai tháng 1, tháng 2 và quý II, cung ngoại tệ tăng mạnh trong khi cầu ngoại
tệ ít biến động; Thứ hai, trong tháng 3 cầu USD tăng mạnh làm cho tỷ giá mua USD
của các NHTM đã tăng. Diễn biến này được cho là bắt nguồn từ việc các doanh
nghiệp có nguồn thu xuất khẩu có xu hướng găm giữ USD để sử dụng khi cần thiết
bởi nếu gửi vào ngân hàng thì lãi suất rất thấp (thời điểm đó là 1% cho các tổ chức
kinh tế), trong khi lo lắng có thể khó tiếp cận USD hoặc rủi ro tỷ giá khi có nhu cầu
trong tương lai.
Trước tình hình trên, ngày 11/02/2010 NHTW đã phải tăng tỷ giá chính thức từ
17941VNĐ/USD lên 18544 VNĐ/USD, tương đương với việc phá giá 3,3%. Cùng với
việc nâng tỷ giá này, NHTW đã thực hiện hàng loạt các biện pháp hành chính nhằm
giảm áp lực lên thị trường ngoại hối như: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ, chấm dứt việc giao dịch vàng trên các
tài khoản ở nước ngoài của các NHTM và các tổ chức tín dụng, đóng cửa các sàn vàng
và tăng lãi suất cơ bản lên 8% / năm. Kết quả là: trong 6 tháng đầu năm 2010 tín dụng
ngoại tệ đã tăng 27% trong khi tín dụng VNĐ chỉ tăng 4,6%.Đồng thời, kiều hối và
các khoản giải ngân FDI, ODA và FII đều tăng lên trong 2 quý đầu năm 2010 so với
cùng kỳ năm 2009. Tất cả các yếu tố trên góp phần làm giảm khoảng cách giữa tỷ giá
trên thị trường tự do và tỷ giá chính thức trong quý II và nửa đầu quý III.
Giai đoạn 2: Quý III và quý IV: Từ đầu tháng 7/2010 tỷ giá thị trường tự do lại bắt
đầu tăng lên dù lúc đầu chỉ tăng chậm. Những xu hướng này phản ánh kỳ vọng của thị
trường ngoại hối về sự phá giá của VNĐ. Nguyên nhân của kỳ vọng này là: (i) cung

ngoại tệ tăng lên chủ yếu do các doanh nghiệp tận dụng chênh lệch lãi suất giữa tiền


gửi ngoại tệ và tiền gửi VNĐ; (ii) nhiều biện pháp hành chính của NHTW chỉ mang
tính tạm thời và có thể sẽ bị đảo ngược; (iii) lo lắng về việc cầu ngoại tệ sẽ tăng cao
khi nhiều khoản vay ngoại tệ của các doanh nghiệp nhằm tận dụng chênh lệch lãi suất
sẽ đến hạn; và (iv) hành vi đầu cơ của người dân do giảm sút niềm tin vào tiền đồng.
NHNN bất ngờ điểu chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 1USD =
18.932 VND, tương đương với việc VND giảm giá 2% vào ngày 18/8/2010. Sau một
thời gian ổn định trong quý II, giá USD có xu hướng tăng mạnh bắt đầu từ cuối tháng
6, kéo dài hết tháng 7 và tiếp tục tăng trong tháng 8 khi đạt mức 19.300-19.330. Như
vậy trong chưa đầy 1 năm, NHNN đã 3 lần điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng và
VNĐ bị mất khoảng 10,5% giá trị.
Ngoài biện pháp điều chỉnh nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, NHNN đã
ra một số chính sách, biện pháp khác nhằm hạn chế những căng thẳng trên thị trường
ngoại hối như:
+ NHNN yêu cầu kiểm soát chặt tín dụng ngoại tệ, hạn chế cấp ngoại tệ dùng để
nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được.
+ Tuyên bố sẵn sàng bơm ngoại tệ cho nền kinh tế và cung ứng đủ ngoại tệ để nhập
khẩu những mặt hàng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được.
+ Ban hành thông tư 22/2010 về quản lý huy động và cho vay bằng vàng đối với
các tổ chức tín dụng, đánh thuế suất 10% đối với hoạt động xuất khẩu vàng kể từ
ngày 1/1/2011.

4.

Năm 2011

a.


Bối cảnh chung

Năm 2011 là năm thị trường ngoại hối trong nước có dấu hiệu căng thẳng, nguyên
nhân chính là do lạm phát có dấu hiệu tăng nhanh, nhập siêu ở mức cao, tâm lý găm
dữ ngoại tệ của người dân và DN khá trầm trọng dẫn đến các nguồn ngoại tệ không
tập trung vào hệ thống ngân hàng, tình trạng đô la hóa trở nên phổ biến.
b.
-

Chính sách tác động

Trong những ngày đầu năm 2011( tháng 1), do chênh lệch giá vàng trong nước và
thế giới tiếp tục tăng cao đã đẩy giá USD trên thị trường tự do tăng lên mức 21.000.
Trước sức ép liên tục về phá giá VND, nhưng NHNN vẫn tiếp tục kiềm giữ duy trì tỷ
giá bình quân liên ngân hàng ở mức 18.932, trong khi các NHTM niêm yết tỷ giá tại
mức trần 19.500. Diễn biến này khiến cho chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức
và tự do được đẩy lên tới 1.500-1.600VND (tương đương khoảng 8% so với tỷ giá
chính thức). Trên thị trường xuất hiện sự kỳ vọng của giới đầu cơ về khả năng NHTW
sẽ tiến hành phá giá VNĐ.


-

-

Từ dịp gần tết Nguyên Đán đến đầu tháng 3/2011, đúng như dự đoán và kỳ vọng
của thị trường, NHTW không thể tiếp tục duy trì tỷ giá mà đã tuyên bố mức phá giá
cao nhất trong lịch sử (9,3%) vào ngày 10/02/2011, nâng tỷ giá chính thức lên 20.693
VNĐ/USD và giảm biên độ xuống còn +/-1%.Đầu tháng 03/2011, NHTW đã siết chặt
các hoạt động trên thị trường tự do, áp đặt trần lãi suất thấp cho tiền gửi bằng ngoại tệ

và do đó mở rộng chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ và lãi suất VNĐ lúc
đó đã lên kịch trần 14%. Đồng thời, NHTW cũng tuyên bố là đã mua được thêm 3 tỷ
cho dự trữ ngoại hối. Các chính sách trên của NHTW được kỳ vọng sẽ giúp cho VND
xích lại gần hơn với giá trị thực và có thể giúp loại trừ được phần nào tình trạng “tồn
tại 2 tỷ giá với mức chênh lệch quá lớn” trong thời gian khá dài, từ đó giúp khơi thông
nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM. Hành động này của NHTW còn giúp làm giảm
sức ép tới nguồn dự trữ ngoại hối đang khá mỏng trong ngắn hạn. Không những thế,
sự điều chỉnh tỷ giá khá mạnh tay của NHNN lần này sẽ có thể đưa đến những tác
động tích cực đến xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính Phủ đã ban hành và thực thi nghị
quyết 11, tổng cầu của nền kinh tế suy giảm, nhu cầu nhập khẩu giảm và cung cầu
ngoại tệ cải thiện hơn.
Từ trung tuần tháng 3 đến đầu tháng 08/2011,trước những bất ổn của thị trường
ngoại hối tự do do tác động của tâm lý và hiện tượng đầu cơ làm giá của các đại lý thu
đổi ngoại tệ, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu đổi ngoại tệ với sự phối hợp
của công an và quản lý thị trường. Đây là biện pháp đầu tiên nằm trong gói các biện
pháp mà NHNN đưa ra nhằm thực hiện tốt nghị quyết 11 của Chính phủ nhằm bình ổn
thị trường ngoại hối, tăng niềm tin vào giá trị VND và hạn chế tình trạng đô la hóa nền
kinh tế. Thông tin này đã khiến cho thị trường ngoại hối tự do ngừng giao dịch ngay
trong ngày 7/3/2011 (phiên đầu tuần thứ 2 của tháng 3) làm nhiều người có nhu cầu
giao dịch ngoại tệ ngỡ ngàng. Thông tin về các biện pháp kiểm soát chặt thị trường
vàng của NHNN được kỳ vọng sẽ tránh được tình trạng đầu cơ vàng, vốn được coi
nguyên nhân chính gây nên những bất ổn của thị trường vàng cũng như liên thông tới
thị trường ngoại tệ tự do như trong thời gian trước đây. Thêm vào đó, nó có thể giúp
loại bỏ tình trạng găm giữ, tích trữ vàng trong dân, phục hồi niềm tin vào VNĐ. Trong
quý II, NHNN tiếp tục ban hành các văn bản pháp lý nhằm bình ổn thị trường ngoại
hối, hạn chế tình trạng USD hóa nền kinh tế và hướng tới mục tiêu chỉ sử dụng VND
trên lãnh thổ Việt Nam khi áp trần lãi suất huy động USD là 3% (thông tư 09 ngày
9/4) và sau đó là 2% (thông tư 14 ngày 2/6); quyết định 750 về tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 4% lên 6% (ngày 9/4) và sau đó tăng lên 7% (ngày
1/6). Với các biện pháp nhằm hạn chế huy động và cho vay bằng ngoại tệ này của

NHNN đã giúp khơi thông nguồn ngoại tệ do người dân nhận thấy nắm giữ USD
không có lợi bằng VND nên có xu hướng bán USD để gửi tiết kiệm bằng VND, giúp
tăng nguồn cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Do đó trong quý II, các NHTM
liên tiếp giảm tỷ giá mua và bán xuống dưới mốc trần tỷ giá (+1%) theo quy định của
NHNN, thậm chí có thời điểm gần sát với giá sàn, dao động quanh 20.500-20.700.


-

Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 5/2010, tỷ giá của các NHTM rời khỏi mốc trần của
NHNN. Cùng với diễn biến trên thị trường chính thức, tỷ giá trên thị trường tự do
cũng tiếp tục suy giảm, biến động tương đối cùng chiều với tỷ giá bình quân liên ngân
hàng và tỷ giá niêm yết tại các NHTM. Sự ổn định trên các thị trường ngoại tệ được
kéo dài cho đến đầu tháng 8/2011 khi mà sự tăng giá kỷ lục của giá vàng thế giới đẩy
giá vàng trong nước tăng cao, đã khiến cho giá USD tại các ngân hàng cũng như trên
thị trường tự do tăng lên sát trần quy định của NHNN.
Từ tháng 08/2011 đến cuối năm 2011, đầu quý 4, thị trường tiếp tục diễn biến căng
thẳng, NHTW đã điều hành tỷ giá tương đối linh hoạt và thực hiện các biện pháp bình
ổn thị trường. Theo đó tỷ giá USD/VND sẽ được điều chỉnh không quá 1% kể từ ngày
7/9/2011 cho đến hết năm. Thị trường ngoại tệ ổn định và có những chuyển biến tích
cực vào cuối năm.Ngoài ra, diễn biến thuận lợi của cán cân thương mại, cán cân tổng
thể trong năm 2011, đặc biệt trong những tháng cuối năm đã hỗ trợ khá đắc lực cho
những cam kết của NHNN. Không những thế, những quy định và biện pháp kiểm soát
chặt chẽ thị trường vàng đã khiến cho biến động của thị trường này không còn gây
nhiều tác động tiêu cực đến thị trường ngoại tệ tự do như trước đây.
5.

Năm 2012

a.Bối cảnh chung

Trong khi tình hình kinh tế thế giới vẫn diễn biến phức tạp và chứa đựng nhiều
rủi ro, tình hình kinh tế - xã hội trong nước tiếp tục có những chuyển biến khá tích
cực, đúng hướng; mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đạt được những
kết quả bước đầu; bảo đảm được an sinh xã hội và giữ được tăng trưởng ở mức hợp lý,
tỷ giá cơ bản ổn định, thanh khoản ngoại tệ toàn hệ thống được cải thiện, nguồn cung
ngoại tệ dồi dào do xuất khẩu tăng cao, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá lớn,
dự trữ ngoại hối được cải thiện . Tuy nhiên, việc thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là cần thiết nhưng hệ quả góp phần làm cầu nội
địa tương đối yếu, hàng tồn kho lớn, lãi suất tín dụng còn cao; doanh nghiệp khó tiếp
cận vốn, sản xuất khó khăn. Tình hình kinh tế vĩ mô vẫn chưa thực sự vững chắc, tăng
trưởng kinh tế thấp hơn kỳ vọng; tình trạng nợ xấu chậm được giải quyết; sản xuất
kinh doanh phục hồi chậm…

b.Chính sách tác động của Nhà nước
Trước những diễn biến trên các thị trường, NHNN đã chủ động triển khai xuyên
suốt, đồng bộ nhiều giải pháp, góp phần duy trì sự ổn định trên các thị trường ngoại tệ
và đổi mới công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng.


Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý ngoại hối và quản lý hoạt
động kinh doanh vàng
Tiếp tục triển khai các giải pháp trong Nghị quyết 11 của Chính phủ năm
2011 cũng như các giải pháp trong Nghị quyết 01 năm 2012, NHNN đã ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, góp phần
chuyển hóa quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại
tệ, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Cụ thể, NHNN đã
sửa đổi quy định về cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng
là người cư trú nhằm thu hẹp hơn nữa đối tượng được vay ngoại tệ trong nước. TCTD
chỉ được phép cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thanh toán ra nước ngoài
tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản

xuất - kinh doanh để trả nợ vay. Tuy nhiên, nhu cầu vay ngoại tệ để nhập khẩu xăng
dầu, thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu tạm thời vẫn được
đáp ứng. NHNN cũng đã ban hành thông tư quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo hướng chặt chẽ hơn với giới hạn
trạng thái ngoại tệ giảm từ 30% xuống còn 20% và phương pháp xác định trạng thái
dựa trên cơ sở số dư các tài khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Thứ hai, điều hành linh hoạt thị trường ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá và tăng
dự trữ ngoại hối Nhà nước
Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của NHNN trong năm
2012 là “Ðiều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường và tình hình cung - cầu ngoại tệ, góp phần khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập
siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước” (Nghị
quyết 01/NQ-CP ngày 03/1/2012), NHNN đã thường xuyên theo dõi, đánh giá diễn
biến trên thị trường và tình hình cung cầu ngoại tệ cũng như các cân đối vĩ mô trong
nước (như lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán quốc tế) để chủ động thực hiện một
cách linh hoạt các biện pháp điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối nhằm tạo điều


kiện ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
bền vững. Nhờ vậy, một thành công nổi bật của NHNN năm 2012 là giữ ổn định được
tỷ giá và thị trường ngoại hối. Một dấu ấn khác biệt khi so sánh với những biến động
phức tạp của tỷ giá và thị trường ngoại hối những năm gần đây.
Thành công giữ ổn định tỷ giá trong năm 2012 là sự tiếp nối của những kết
quả đạt được của NHNN giai đoạn cuối năm 2011. Một yếu tố quan trọng quyết định
sự ổn định của tỷ giá thời gian qua là cam kết mạnh mẽ của Thống đốc NHNN ngay
từ đầu năm là tỷ giá USD/VND sẽ được điều hành theo hướng ổn định hỗ trợ xuất
khẩu, kiềm chế nhập siêu, thu hút đầu tư để phát triển kinh tế với mức điều chỉnh tỷ
giá tối đa không quá 2 - 3% trong cả năm 2012. Ðây là lần thứ hai Thống đốc NHNN
đưa ra cam kết nhằm ổn định tâm lý thị trường và định hướng kỳ vọng về tỷ giá của
công chúng.

Ðể thực hiện cam kết của Thống đốc, tỷ giá bình quân liên ngân hàng và
tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN đã được giữ ổn định trong suốt một năm. Những mức
tỷ giá này đã đóng vai trò quyết định trong việc định hướng tỷ giá giao dịch thực tế
trên thị trường ngoại tệ. Việc điều hành tỷ giá ổn định được kết hợp với hoạt động
mua ngoại tệ được NHNN thực hiện một cách linh hoạt đã hỗ trợ thanh khoản trên thị
trường, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và góp phần khuyến khích xuất khẩu.
Ðể giữ ổn định tỷ giá trong năm 2012, những giải pháp điều hành tỷ giá, thị
trường ngoại hối đã cho thấy có sự gắn kết đồng bộ các giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ. NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, linh hoạt phù
hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô đã góp phần ổn định giá trị VND, kiểm soát kỳ vọng
lạm phát góp phần quan trọng hỗ trợ bình ổn tỷ giá và thị trường ngoại hối. Ðặc biệt,
chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến lạm phát đã tạo chênh lệch
lợi tức hợp lý thiên về nắm giữ tiền đồng thay vì ngoại tệ. Xu hướng dịch chuyển tiền
gửi ngoại tệ sang tiền gửi tiền đồng liên tục được duy trì góp phần giảm cầu găm giữ
ngoại tệ. Các công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt nên mặc dù dự trữ


ngoại hối tăng rất mạnh, một lượng lớn nội tệ cung ứng ra thị trường nhưng không gây
áp lực lên lạm phát.
Nhờ những giải pháp điều hành của NHNN trong năm 2012, hoạt động của
thị trường ngoại tệ đã đạt được những kết quả khả quan. Tỷ giá giao dịch của các ngân
hàng thương mại không còn biểu hiện căng thẳng mà diễn biến linh hoạt theo cung
cầu ngoại tệ và ở mức hợp lý hỗ trợ xuất khẩu. Doanh số giao dịch trên thị trường
ngoại tệ tăng mạnh, thanh khoản ngoại tệ trên thị trường cải thiện rõ rệt so với những
năm trước. Nhu cầu mua, bán ngoại tệ hợp lý và hợp pháp của các doanh nghiệp cũng
như người dân được hệ thống TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Thị trường ngoại hối và
tỷ giá ổn định đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản
xuất kinh doanh. Tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã giảm đáng kể. Ðến cuối
năm 2012, tiền gửi ngoại tệ của dân cư giảm hơn 14% so với cuối năm 2011 trong
khi tiền gửi bằng tiền đồng của dân cư tăng hơn 38%. Tình trạng đô la hóa được

đẩy lùi một bước, tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/M2 giảm còn dưới 13%. Thị trường
ngoại tệ tự do gần như không còn hoạt động công khai.
Thứ ba, đổi mới căn bản quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã thành
công bước đầu
Năm 2012 được đánh giá là năm ghi nhận sự thành công bước đầu trong
công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc tổ chức, sắp xếp lại một
cách căn bản thị trường vàng theo chủ trương, định hướng của Chính phủ.
Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm tổ chức, sắp xếp chặt chẽ thị
trường vàng. Sau khi Nghị định 24 được ban hành, NHNN đã khẩn trương ban hành
các văn bản triển khai Nghị định, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và quản lý sản
xuất vàng miếng của NHNN.Mặc dù giá vàng trong nước và thế giới biến động mạnh,
nhưng không như thời gian trước đây, khoảng cách lớn giữa giá vàng trong nước và
giá vàng thế giới không đi kèm với hiện tượng “sốt vàng”.Từ đầu năm đến nay tuy
NHNN không cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, không


thực hiện bình ổn giá vàng nhưng hầu như không diễn ra việc thu gom ngoại tệ trên
thị trường tự do để nhập lậu vàng qua biên giới, nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ
ổn định, không bị tác động tiêu cực bởi sự biến động của giá vàng.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại hối và thị
trường vàng tiếp tục được tăng cường triển khai
Trong năm 2012, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm hoạt động
ngoại hối vẫn được NHNN duy trì thường xuyên, liên tục, đặc biệt là NHNN Chi
nhánh Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Sau khi Nghị định số 95/2011/NÐ-CP ngày
20/10/2011 được ban hành (nâng mức xử phạt đối với các hành vi sử dụng ngoại tệ
trái phép lên 500 triệu đồng), trên thực tế đã có một số doanh nghiệp sử dụng ngoại tệ
trái phép bị các cơ quan chức năng xử lý vi phạm với mức xử phạt cao nhất, tạo sự răn
đe, chấn chỉnh các đối tượng khác trong xã hội và phần nào đã hạn chế được tình trạng
sử dụng ngoại tệ trái phép tràn lan.
Công tác kiểm tra giám sát hoạt động ngoại hối đạt kết quả khả quan trong thời

gian qua là do NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tăng cường
quản lý, kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ, vàng và xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực quản lý ngoại hối. Do vậy, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã giảm đáng
kể, tình trạng "đô la hóa" được đẩy lùi một bước, thị trường ngoại tệ tự do gần như
không còn hoạt động.
Dưới tác động của những chính sách nhằm ổn định thị trường tài chính của
Chính Phủ, tỷ giá USD/VNĐ trong năm 2012 tương đối ổn định, được thể hiện cụ thể
qua biểu đồ 2:


Trong 6 tháng đầu năm diễn biến tỷ giá VND/USD diễn ra ổn định với chiều
hướng tăng nhẹ khoảng 0,55%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) tiếp tục
được duy trì ở mức 20.828 VND/1 USD. Tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại
(NHTM) sau một thời gian duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng
điều chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 - 20.920 VND/USD vào thời điểm cuối tháng
6/2012. Diễn biến tỷ giá trên thị trường “chợ đen” bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch
của NHTM, chênh lệch giữa hai thị trường này chỉ còn ở mức từ 20 - 70 VND/1USD
– một sự chênh lệch không đáng kể nếu so với năm 2011 trung bình mức chênh lệch là
1.000 - 2.000 VND/1 USD.

Từ tháng 7 - 12/2012, tỷ giá giảm dần. Xu hướng biến động tỷ giá
VND/USD duy trì ở mức độ ổn định và giảm dần. Tháng 8/2012, tỷ giá giao
dịch trên thị trường tự do có tăng nhẹ và kéo dài khoảng cách chênh lệch với tỷ giá
giao dịch của các NHTM ở mức gần 70 VND/1USD, nhưng sang tháng 9 bắt đầu xu
hướng giảm dần đều cho tới cuối năm 2012 khi xoay quanh mức 20.850 –
20.870/VND/1USD. Tỷ giá BQLNH vẫn được duy trì một đường kẻ thẳng kể từ ngày
24/11/2011 cho đến nay.
Tóm lại, năm 2012 là một năm khá bận rộn đối với NHNN trong việc triển khai
các giải pháp đồng bộ nhằm tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng,



quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối, khắc phục tình trạng đô la hóa và ổn định giá trị
của đồng Việt Nam. Nhờ thực hiện các giải pháp trên, thị trường ngoại tệ và vàng đã
diễn biến tương đối ổn định, thị trường ngoại tệ tự do tiếp tục được kiểm soát chặt
chẽ. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của doanh nghiệp và người dân được đáp
ứng đầy đủ. NHNN đã mua được một lượng ngoại tệ đáng kể để bổ sung cho dự trữ
ngoại hối Nhà nước. Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được khắc phục một
bước.

c. Những thành công đạt được trong điều hành chính sách tỷ giá
VND/USD là:
Thứ nhất, NHNN tiếp tục thể hiện vai trò chủ động và tự tin trong điều hành
chính sách tỷ giá và thị trường ngoại hối, ổn định tâm lý thị trường và định hình kỳ
vọng về tỷ giá của công chúng. Tỷ giá trong năm 2012 được cam kết không điều
chỉnh vượt quá 2 - 3% và đã thực hiện thành công.
Thứ hai, chủ động thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất là biện pháp nổi bật nhất.
NHNN đã đạt mục tiêu hạ lãi suất và mặt bằng đã giảm từ 3 - 8%/năm so với cuối
năm 2011, góp phần tháo gỡ khó khăn, giảm áp lực chi phí vay vốn của các doanh
nghiệp và hộ dân, qua đó hỗ trợ tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Mặc dù lãi suất tiết kiệm bằng VND đã giảm nhưng vẫn còn cao và có sức hấp
dẫn so với tiết kiệm bằng ngoại tệ, trong khi tỷ giá ổn định, quan trọng hơn là lạm
phát đã được kiềm chế. Điều này góp phần làm giảm cầu ngoại tệ với mục đích găm
giữ, đầu cơ, đồng thời một lượng lớn các dòng ngoại tệ từ nước ngoài đổ về (vốn đầu
tư gián tiếp, kiều hối, tiền gửi và vay mượn từ nước ngoài...) được chuyển ra VND để
gửi vào ngân hàng hưởng chênh lệch lãi suất, góp phần làm tăng cung ngoại tệ, từ đó
tỷ giá ổn định và giảm xuống.
Thứ ba, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do duy trì
khoảng cách hẹp là dưới 70 VND/1USD, thậm chí có lúc tỷ giá của các NHTM cao
hơn thị trường tự do (tháng 2 và tháng 4/2012).



Thứ tư, năm 2012 đánh dấu một năm lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng
mạnh trở lại. Cả năm, NHNN đã mua vào khoảng hơn 10 tỷ USD, nâng quy mô dự trữ
ngoại hối quốc gia đạt trên 20 tỷ USD, đáp ứng được gần 12 tuần nhập khẩu của nền
kinh tế, tiệm cận được với tiêu chuẩn của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). Đây là một giá
trị có ý nghĩa chiều sâu, bởi việc tính theo tuần nhập khẩu nhằm thể hiện khả năng hỗ
trợ thanh toán quốc tế của dự trữ ngoại hối quốc gia đó, hoặc khả năng phòng vệ trước
rủi ro các dòng vốn đảo chiều, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, làm tăng
sức mạnh của quốc gia.
Với việc điều hành chính sách tỷ giá, linh hoạt tạo sự ổn định, một mặt giúp Nhà
nước huy động được một lượng ngoại tệ lớn trong dân vào đầu tư phát triển và điều
hành chính sách tiền tệ. Mặt khác, nguồn quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia đủ mạnh cũng
là cơ sở quan trọng để NHNN thực hiện điều hành bình ổn tỷ giá, sẵn sàng can thiệp,
đóng vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, chủ
động đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu các mặt hàng chiến lược khi cần thiết
và nếu có nhu cầu.

d. Một số hạn chế và tồn tại
Một là, cách công bố tỷ giá BQLNH được NHNN duy trì niêm yết ở mức
20.828 VND/1 USD trong một thời gian dài, với biên độ quy định là không quá +/-1%
đối với tỷ giá giao dịch của các NHTM đã cho thấy sự thiếu linh hoạt trong cơ chế tỷ
giá ở nước ta.
Hai là, việc giữ tỷ giá cố định suốt giai đoạn vừa qua đã giúp NHNN thuận tiện
trong kiềm chế lạm phát trong nước, nhưng vô hình trung sẽ tích tụ thêm khó khăn
cho tương lai khi khu vực xuất khẩu bị thiệt hại vượt quá điểm cân bằng giữa lợi ích
và chi phí của việc neo giữ tỷ giá đối với nền kinh tế. Bởi khi dòng vốn dần được tự
do hóa cùng với lộ trình tự do hóa giao dịch vốn và mở cửa thị trường tài chính theo
các cam kết quốc tế, thì chế độ tỷ giá gần như cố định trong một thời gian dài sẽ chịu
tác động lớn từ biến động của thị trường quốc tế.



Ba là, tuy tỷ giá VND/USD đã ổn định trong thời gian tương đối dài nhưng chưa
thật sự vững chắc. Một trong những yếu tố khách quan, ngoài các biện pháp điều hành
của NHNN thì tỷ giá ổn định trong năm qua cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ cầu
ngoại tệ giảm mạnh do kinh tế khó khăn.

III.Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá năm 2013
1.

Dự báo tình hình kinh tế năm 2013
Tuy diễn biến tỷ giá VND/USD trong năm 2012 là ổn định nhưng năm 2013
vẫn tiềm ẩn rủi ro biến động và áp lực ngoại hối thể hiện ở các yếu tố sau:

-

Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với điểm thắt lớn
nhất là thị trường bất động sản và nợ xấu tại hệ thống ngân hàng và DN.

-

Trong bối cảnh kiềm chế lạm phát, tỷ giá được giữ cố định là một cái neo kỳ vọng
tích cực, song cũng cần phải có lộ trình điều chỉnh thích hợp đặc biệt là khi tình hình
lạm phát đã được cải thiện, tỷ giá thực hiệu lực (REER) diễn biến chưa thuận lợi để
tránh tạo ra những thay đổi đột biến trong bối cảnh kinh tế nhạy cảm và khó khăn như
hiện nay.


-

2.


Tính ổn định của cán cân vãng lai chưa thật sự bền vững.
Việc mua vào hơn 10 tỷ USD để thực hiện tăng dự trữ ngoại hối quốc gia đã kéo
theo tăng nguồn cung ròng VND của NHNN trong năm 2012. Tuy nhiên, trong điều
kiện chịu tác động từ diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và những khó khăn nội
tại của nền kinh tế Việt Nam năm 2012 đã cho thấy, lượng tiền gửi ngân hàng gia tăng
lại không chảy vào nền kinh tế, thay vào đó là đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc
quay trở lại NHNN qua phát hành tín phiếu. Bên cạnh đó, nếu không nâng cao hiệu
quả đầu tư công ở Việt Nam, thì sẽ tác động tiêu cực đến nỗ lực hạ mặt bằng lãi suất
của chính NHNN, làm tăng nguy cơ lạm phát sớm quay lại, sẽ là rủi ro tỷ giá tiềm ẩn
cho năm 2013 và những năm tiếp theo.

Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá
Trước những áp lực trên, xin đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hơn nữa hiệu quả công tác điều hành chính sách tỷ giá của NHNN trong năm 2013.
Thứ nhất, về cơ chế tỷ giá
Năm 2013 NHNN nên cân nhắc chuyển đổi sang chế độ tỷ giá linh hoạt và chính
sách mục tiêu lạm phát để phù hợp với sự tự do hóa thị trường vốn trong những năm
tới. Kinh nghiệm từ năm 2012 cho thấy, sự thành công trong sử dụng công cụ lãi suất
đã góp phần kiềm chế và kiểm soát được tình trạng lạm phát tại Việt Nam. Tuy nhiên,
các nghiên cứu về cơ chế tỷ giá và chính sách mục tiêu lạm phát đã chỉ ra rằng, một
quốc gia sử dụng công cụ lãi suất nhằm điều tiết thị trường thì phải chấp nhận một cơ
chế tỷ giá linh hoạt hơn trong điều kiện tài khoản vốn không bị kiểm soát hoàn toàn.
Chế độ tỷ giá linh hoạt vẫn luôn tỏ rõ ưu thế trong việc hạn chế những tác động tiêu
cực từ các cú sốc trên thị trường.
Thứ hai, về điều hành lãi suất
NHNN cần tiếp tục theo định hướng củng cố giữ vững giá trị đồng nội tệ, phù hợp
với diễn biến kinh tế vĩ mô, mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
ở mức hợp lý, đảm bảo thanh khoản và hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng và
của nền kinh tế. Một số biện pháp cụ thể liên quan như: NHNN cân nhắc, xem xét lại

trần lãi suất huy động USD, lãi suất cho vay USD để giảm chênh lệch hiện quá lớn


giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Đồng thời, tiếp tục kết hợp tăng cường với các biện pháp
kiểm soát cung ứng ngoại tệ để giảm thiểu, đi đến loại trừ tình trạng vay USD, đổi ra
VND rồi gửi lại ngân hàng hưởng chênh lệch lãi suất, khi đáo hạn mua USD trên thị
trường tự do trả nợ ngân hàng.
Thứ ba, về các biện pháp điều hành tỷ giá
Tiếp tục nâng cao tính minh bạch, nhất quán trong các chính sách can thiệp của
NHNN và Chính phủ nhằm điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ
giá nói riêng. Sự ổn định tỷ giá và bình ổn thị trường ngoại hối năm 2011 và năm
2012 đã minh chứng cho hiệu quả của một số biện pháp hành chính kết hợp trong
công tác điều hành chính sách tỷ giá của NHNN.
Ngoài ra, NHNN cần xây dựng quy chế thông tin, thống kê, hệ thống hoá kịp thời
số liệu luồng ngoại tệ ra - vào trong nước, từ đó dự báo về quan hệ cung - cầu trên thị
trường để làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối.
Thứ tư, về các biện pháp quản lý thị trường ngoại hối và thị trường vàng
NHNN tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tăng cường công tác thanh,
kiểm tra, giám sát thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm nhằm hạn chế tình trạng “đô la hóa”, “vàng hóa” nền kinh tế, xóa bỏ hoạt động
của thị trường ngoại tệ tự do.



×