Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật cạnh tranh ở việt nam hiện nay (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.09 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẠT

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG BẰNG PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn của mình, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới thầy – TS. Nguyễn Văn Cương là người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tình trong
thời gian qua. Thầy đã gợi mở cho tôi nhiều ý tưởng và cho tôi những kiến thức
chuyên sâu mà chắc chắn với thời gian nghiên cứu hạn chế tôi không thể tự mình
khám phá.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu,
toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp
luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình – những người đã luôn ở bên cổ vũ,
tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho tôi; cảm ơn cơ quan đã tạo điều kiện thuận lợi
trong công việc để tôi có thể dành thời gian cũng như tâm huyết cho công trình
nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận
văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này./.


Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Hạt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình hoàn hoàn là sự tự nghiên cứu của bản thân tôi
với sự hỗ trợ, hướng dẫn của thầy – TS. Nguyễn Văn Cương. Mọi nhận xét, đánh
giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình. Trường Đại học Luật Hà Nội không liên quan đến
những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).
Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2016
Xác nhận của người hướng dẫn

Tác giả

Nguyễn Thị Hạt


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

4

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

4

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

5

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

5

8. Bố cục của luận văn

5

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG BẰNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

6


1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

6

1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng

6

1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

8

1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật cạnh tranh

11

1.2.1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh

11

1.2.2. Vai trò của pháp luật cạnh tranh trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng

13

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG BẰNG
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

17


2.1. Các quy định của pháp luật cạnh tranh liên quan đến bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng

17

2.1.1. Các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh

18

2.2.2. Các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

36

2.2.3. Các quy định xử lý hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh

43

2.2. Thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh liên quan đến bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng

47

2.2.1. Thực trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng

47

2.2.2. Những bất cập trong thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh liên quan đến
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

57


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG BẰNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
TRONG THỜI GIAN TỚI

63


3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam trong thời gian tới

63

3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cạnh tranh liên quan đến bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng

65

3.2.1. Hoàn thiện các quy định kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh

65

3.2.2. Hoàn thiện các quy định kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh 68
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh

71

3.3. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh liên quan đến
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


76

KẾT LUẬN

82


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc thừa nhận nền kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới bên ngoài đã làm
thay đổi căn bản nhu cầu và cách thức Nhà nước bảo vệ người tiêu dùng ở Việt
Nam. Từ vai trò của người buộc phải chấp nhận sản phẩm trong cơ chế kinh tế cũ,
người tiêu dùng Việt Nam đã trở thành một chủ thể trong nền kinh tế. Người tiêu
dùng là “Thượng Đế” do họ có khả năng, điều kiện và một phạm vi lựa chọn rộng
lớn – quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền. Tuy vậy, trong điều kiện các thiết chế thị
trường chưa hoàn thiện, tính minh bạch chưa được đảm bảo thì “Thượng Đế” luôn
có nguy cơ trở thành “nạn nhân” trước sự lạm dụng ưu thế của nhà kinh doanh thông
qua những hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh.
Ở Việt Nam, người tiêu dùng với vị thế yếu so với doanh nghiệp được pháp
luật quan tâm bảo vệ bằng các công cụ khác nhau trong đó có pháp luật cạnh tranh.
Mặc dù mục tiêu chính của pháp luật cạnh tranh là nhằm đảm bảo cấu trúc thị
trường lành mạnh, duy trì cạnh tranh tự do và công bằng. Tuy nhiên, chính thông
qua việc duy trì cấu trúc thị trường lành mạnh, pháp luật cạnh tranh góp phần đảm
bảo tốt hơn quyền lợi cho người tiêu dùng. Hơn thế, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
không chỉ có các quy định điều chỉnh cấu trúc thị trường mà còn có các quy định
điều chỉnh trực tiếp các hành vi của các doanh nghiệp xâm hại đến quyền lợi người
tiêu dùng như: hành vi thỏa thuận ấn định giá, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, hành vi kinh doanh đa cấp bất chính,… Do đó, pháp luật cạnh
tranh có vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Việt Nam là một trong những quốc gia trong khu vực ban hành Luật Cạnh

tranh sớm nhất. Sau hơn 10 năm đi vào cuộc sống, Luật đã phần nào phát huy vai
trò của mình trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh
không lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, thực trạng vi phạm pháp luật cạnh tranh
xâm hại quyền lợi các doanh nghiệp đối thủ nói chung và người tiêu dùng nói riêng
vẫn diễn ra phổ biến, thậm chí có xu hướng tăng lên. Một loạt các vấn đề như: giá
thuốc không ngừng tăng và cao hơn rất nhiều so với giá của nhà sản xuất; các công
ty đưa ra những thông tin quảng cáo sai sự thật về sản phẩm; kinh doanh đa cấp bất
chính len lỏi về mọi vùng quê; các doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận ấn định phí
bảo hiểm vật chất ô tô;… đã cho thấy không ít doanh nghiệp bất chấp quyền lợi của
người tiêu dùng để tìm kiếm lợi nhuận. Hơn thế, trong quá trình giải quyết các vụ
việc vi phạm pháp luật cạnh tranh này, quyền lợi của người tiêu dùng chưa được các


cơ quan quản lý cạnh tranh quan tâm thỏa đáng. Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả
quyết định lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” hi vọng có thể góp một phần phân tích về thực
trạng và kiến nghị nâng cao vai trò của pháp luật cạnh tranh trong công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hay pháp luật cạnh tranh là những vấn đề
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào nội dung bảo vệ người tiêu dùng bằng các quy định của pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc phân tích pháp luật cạnh tranh dưới khía
cạnh vai trò đảm bảo cấu trúc thị trường lành mạnh. Một loạt các công trình có thể
kể tên như:
- Dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng có các công trình: “Một số vấn đề lý
luận về quyền được thông tin của người tiêu dùng” – Tác giả Nguyễn Văn Cương;
“Tính cắt khúc trong việc xây dựng và thực thi luật ở Việt Nam: Từ thực tiễn soạn
thảo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010” - Tác giả Nguyễn Văn
Cương; Tài liệu hội thảo “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – Thực

trạng và hướng hoàn thiện” của Trường Đại học Luật Hà Nội với các bài viết của
các tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Bùi Nguyên Khánh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn
Văn Cương, Hoàng Minh Chiến, Nguyễn Hữu Huyên, Phạm Quế Anh; Đề tài khoa
học “Nghiên cứu vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nguyễn Thị Vân Anh
chủ biên; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại
theo pháp luật Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của Võ Thị Hạnh năm 2015;
“Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ quan nhà
nước tại Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Hoàng Mỹ Linh năm
2014; “Chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi vi phạm pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của
Đặng Đình Ngọc năm 2013; “Vai trò của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng Vĩnh Phúc trong việc bảo vệ người tiêu dùng” - Luận văn thạc sĩ luật học
của Nguyễn Thị Tâm năm 2013;…
- Các công trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh có các bài viết của
PGS.TS. Nguyễn Như Phát (“Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
vào cuộc sống”, “Một số quy định về tố tụng cạnh tranh theo luật cạnh tranh Việt


Nam”; “Luật so sánh và thực tiễn xây dựng luật cạnh tranh của Việt Nam”,…);
“Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh
Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Thanh Thúy năm 2014; “Chế tài xử lý
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học của Lương Thị Diệu Linh năm 2014; “Kiểm soát hành vi
quảng cáo gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam” - Luận văn thạc
sĩ luật học của Nguyễn Thị Thiêm năm 2013; “Cạnh tranh và thực thi pháp luật
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ luật học của
Hoàng Văn Thành năm 2011;…
Cùng với đó là các cuốn sách như: “Vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng
trong việc bảo vệ người tiêu dùng” của Nguyễn Thị Vân Anh chủ biên - Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2012; “Hỏi – đáp pháp luật cạnh tranh” của

Nguyễn Văn Hiển – Nhà xuất bản Lao động – Xã hội xuất bản năm 2005; “Những
nội dung cơ bản của luật cạnh tranh” của Vụ công tác lập pháp - Nhà xuất bản Tư
pháp xuất bản năm 2005; “Pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền để hạn chế cạnh tranh về giá” của Phạm Hoài Huấn, Nhữ Ngọc Tiến - Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2013; “Pháp luật điều chỉnh các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Nhung – Nhà xuất
bản Chính trị - Hành Chính xuất bản năm 2012; “Pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam” của Lê Anh Tuấn – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về luật cạnh tranh” của Trần Minh Sơn – Nhà xuất
bản Tư pháp xuất bản năm 2005;…
Có thể thấy, hệ thống các công trình nghiên cứu về nội dung bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng và nội dung pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay là vô
cùng đồ sộ. Tuy nhiên, nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các quy
định của pháp luật cạnh tranh thì hiện vẫn còn một khoảng trống nhất định. Bởi vậy
tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các quy định
của pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là các quy định và thực thi các quy định pháp luật
cạnh tranh liên quan tới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay.


- Phạm vi nghiên cứu: Với dung lượng hạn chế của một luận văn tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các quy định
của Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Từ việc tìm hiểu những vấn đề lí luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
bằng pháp luật cạnh tranh, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng bằng pháp luật cạnh tranh, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật cạnh tranh và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định

pháp luật cạnh tranh có liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Pháp luật cạnh tranh Việt Nam có vai trò như thế nào trong bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng?
- Hiện nay, đang còn tồn tại những bất cập gì trong các quy định và thực
trạng thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh liên quan đến bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng?
- Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng bằng pháp luật
cạnh tranh?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích để phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật; phương pháp tổng hợp để tổng hợp các kết quả của thực
tiễn thi hành pháp luật; phương pháp diễn giải – quy nạp để trình bày các nội dung
cụ thể; phương pháp so sánh để so sánh quy định pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam với các quốc gia khác trên thế giới.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa khoa học: Đề tài đã phân tích và chỉ ra được (i) vai trò bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của pháp luật cạnh tranh và (ii) những điểm bất cập của
pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng như thực tiễn thi hành pháp luật cạnh tranh
trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
* Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở những bất cập được phát hiện, tác giả đề xuất
các giải pháp cụ thể để khắc phục các bất cập đó. Các giải pháp này bao gồm giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy
định của pháp luật cạnh tranh liên quan tới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
8. Bố cục của luận văn


Bên cạnh, phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, để
đảm bảo tính hợp lý, logic của nội dung luận văn, luận văn được kết cấu thành 03

(ba) chương:
Chương 1. Những vấn đề lí luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng
pháp luật cạnh tranh
Chương 2. Thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng bằng pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG BẰNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Người tiêu dùng là đối tượng được pháp luật bảo vệ đặc biệt hơn trong quan
hệ với doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm về người tiêu dùng ở
các quốc gia trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Pháp luật Trung Quốc, Hoa
Kỳ và Châu Âu, quy định người tiêu dùng chỉ là thể nhân (cá nhân). Pháp nhân do
có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với doanh nghiệp
trên thị trường nên pháp luật không cần phải can thiệp sâu vào quan hệ tiêu dùng
của họ. Pháp luật Hàn Quốc quy định người tiêu dùng bao bồm cả thể nhân và pháp
nhân. Pháp luật Thái Lan còn có một cách tiếp cận nữa tương đối mới mẻ là quy
định những người mới chỉ được chào hàng hoặc được đề nghị mua hàng hóa, sử
dụng dịch vụ đã có thể được coi là người tiêu dùng.1 Cụ thể, Điều 3 Luật Bảo vệ
người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 quy định: “Người tiêu dùng là người mua hàng
hoá hoặc dịch vụ hoặc được chào mua hàng hoá hoặc dịch vụ từ một người kinh
doanh, bao gồm người thực sự sử dụng hàng hoá, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ
người kinh doanh mặc dù người này không trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng
hoá, tiêu thụ dịch vụ đó”.2
Về mục đích sử dụng hàng hóa dịch vụ: Hầu hết các quốc gia trên thế giới

quy định một người sử dụng hàng hóa dịch vụ được coi là người tiêu dùng khi họ sử
dụng hàng hóa dịch vụ đó vào mục đích phi thương mại. Cụ thể phần mục đích
trong khái niệm người tiêu dùng được quy định theo hướng “không nhằm mục
đích kinh doanh”. Tuy nhiên có một số quốc gia lại hoặc thu hẹp hoặc mở rộng
phạm vi mục đích sử dụng hàng hóa dịch vụ của người tiêu dùng hơn so với phạm
vi chung trên. Tiêu biểu trong khu vực Châu Á có Malaysia thu hẹp mục đích sử
dụng hàng hóa dịch vụ của người tiêu dùng bằng cách phân biệt và loại trừ những
chủ thể sử dụng hàng hóa dịch vụ cho quá trình sản xuất. Trong khi trên thực tế có
rất nhiều hoạt động tiêu dùng cho quá trình sản xuất như bảo hộ lao động, lương
thực thực phẩm cho cán bộ công nhân viên,... mà ở đó người thực hiện vẫn rất cần
Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương, So sánh Luật bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới
– Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự thảo Luật bảo vệ người tiêu
dùng của Việt Nam, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, tr.20-21.
2
Trích trong tài liệu “Võ Thị Hạnh (2015), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Trường Đại học luật Hà Nội, tr.5-6”.
1


được bảo vệ dưới góc độ người tiêu dùng. Đối lập với pháp luật Malaysia, Luật bảo
vệ người tiêu dùng Hàn Quốc lại quy định người tiêu dùng bao gồm cả những người
sử dụng hàng hóa dịch vụ vào mục đích thương mại hoặc sản xuất kinh doanh. Khái
niệm này của Hàn Quốc là khá rộng nhưng sẽ có một hạn chế là làm cho hiệu lực
bảo vệ người tiêu dùng của pháp luật bị giảm do phải trải rộng một cách quá mức
cần thiết.
Ở Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng chính thức được ghi nhận lần đầu
trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999. Năm 2010, Luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban hành, tiếp tục kế thừa Điều 1 của Pháp lệnh
ghi nhận tại Khoản 1 Điều 3 “người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Quy định

này về cơ bản mới chỉ chỉ rõ được một vấn đề cơ bản của khái niệm người tiêu dùng
là vấn đề về mục đích mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Về mục đích mua hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng thì nội hàm khái
niệm người tiêu dùng tại Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 đã chỉ rõ mục đích của hoạt động mua là để phục vụ “tiêu dùng, sinh
hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Giới hạn mục đích trên theo đánh giá của cá
nhân tác giả là phù hợp, không quá rộng đến mức khó thực hiện đồng thời cũng
không quá hẹp đến mức làm hạn chế quyền của mỗi người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Luật vẫn chỉ sử dụng một khái niệm rất chung chung là “người”
để giải thích cho khái niệm người tiêu dùng. “Người” (mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ) là thể nhân (cá nhân), pháp nhân, tổ chức hay bao gồm cả thể nhân, pháp nhân
và tổ chức? Đây là câu hỏi đã được tranh luận rất sôi nổi ngay từ những năm cuối
thế kỷ XX – trước thời điểm Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban
hành nhưng sau hơn 10 năm thi hành Pháp lệnh, khi ban hành Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, các nhà làm luật vẫn tiếp tục sử dụng cách giải thích gây nhiều tranh
cãi này.
Như vậy, người tiêu dùng chính là cá nhân/ tổ chức mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức;
những cá nhân/ tổ chức đó có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp giao kết hợp
đồng với tổ chức, cá nhân sản xuất/ kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Khi nền kinh tế còn ở trình độ sơ khai, quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các cá nhân với nhau trong xã hội và


hàng hóa, dịch vụ cũng ở dạng đơn giản, dễ nhận biết và việc đàm phán hợp đồng
diễn ra không quá phức tạp. Tuy nhiên, thế kỷ XX đánh dấu sự phát triển vượt bậc
của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin; hàm
lượng chất xám trong hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng; nhiều sản phẩm rất khó có
thể kiểm tra chất lượng bởi một người bình thường. Các giao dịch dân sự giờ đây đã

chuyển từ thế bình đẳng sang tình trạng lợi thế nghiêng về phía nhà cung cấp (nhà
chuyên môn), bởi vì nhà cung cấp là bên nắm mọi ưu thế về chất lượng của hàng
hóa, dịch vụ bao gồm tính năng, công dụng, thành phần cấu tạo, khuyết tật ẩn giấu,
những nguy hiểm tiềm tàng. Mặt khác, nhà cung cấp cũng là người nắm ưu thế
trong kỹ năng đàm phán, giao kết hợp đồng...3 Vì vậy mà người tiêu dùng khi tham
gia quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ với thương nhân gặp nhiều điểm bất lợi
trong đó có thể khái quát thành 4 yếu thế cơ bản sau: yếu thế về thông tin; yếu thế
về khả năng đàm phán; yếu thế về khả năng chi phối giá cả và các điều kiện giao
dịch; yếu thế về khả năng chịu các rủi ro phát sinh từ quá trình tiêu dùng hàng hóa4.
Chính vì những yếu thế như vậy, người tiêu dùng đã trở thành đối tượng
được pháp luật quan tâm bảo vệ và xuất hiện khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Theo đó, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được hiểu là việc đảm bảo
quyền lợi cho những cá nhân/ tổ chức mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Những quyền lợi mà cá nhân/ tổ chức mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức được pháp luật quan
tâm bảo vệ bao gồm các quyền sau:
Một là quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
Hai là quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc,
xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch
và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.

Nguyễn Hữu Huyên, “Kinh nghiệm pháp luật của Pháp và EU về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Hội
thảo khoa học Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện, Trường Đại
học luật Hà Nội, tr.98-99.
4
Nguyễn Thị Vân Anh (tháng 9/2010), “Tổng quan hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng”, Hội thảo khoa học Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – thực trạng và hướng
hoàn thiện, Trường Đại học luật Hà Nội, tr.8.
3


Ba là quyền được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia
hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch
với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Bốn là quyền được góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức
giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Năm là quyền được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Sáu là quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả
hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố,
niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
Bảy là quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi
kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tám là quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ.5
Có thể thấy, những quyền lợi mà người tiêu dùng Việt Nam được pháp luật
ghi nhận phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là các quyền: quyền được thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản; quyền được an toàn; quyền được thông tin; quyền được lựa
chọn; quyền được lắng nghe; quyền được khiếu nại và bồi thường và quyền được
giáo dục, đào tạo về tiêu dùng đã được Liên hợp quốc công nhận và công bố.
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng được rất nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau quan tâm điều chỉnh. Có thể
là bảo vệ một cách trực diện bằng các quy phạm về bảo hành, quy phạm về yêu cầu
bồi thường thiệt hại,… hoặc được bảo vệ gián tiếp thông qua việc Nhà nước ban
hành các quy phạm nhằm tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do
và công bằng. Khi môi trường cạnh tranh là lành mạnh, tự do và công bằng thì
người tiêu dùng sẽ được bảo đảm chủ quyền của mình và do vậy quyền lợi sẽ được
bảo đảm tốt nhất. Pháp luật cạnh tranh chính là công cụ để giúp Nhà nước quản lý
và tạo lập một môi trường cạnh tranh như vậy.
5

Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.


Hơn thế, không giống với đại đa số pháp luật cạnh tranh của các quốc gia
trên thế giới, cơ cấu pháp luật cạnh tranh Việt Nam còn có các quy định kiểm soát
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh với các quy định nghiêm cấm việc thực
hiện các hành vi như quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, chỉ dẫn gây
nhầm lẫn,… góp phần trực tiếp bảo đảm quyền được thông tin của người tiêu dùng.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng cho phép người tiêu dùng được quyền khiếu
nại khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm
quy định của Luật Cạnh tranh6 nên pháp luật cạnh tranh cũng sẽ góp phần đảm bảo
quyền được khiếu nại và bồi thường của người tiêu dùng.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh đã góp phần đảm bảo một số quyền cơ
bản của người tiêu dùng bao gồm: quyền được lựa chọn, quyền được thông tin
và quyền được khiếu nại và bồi thường.
1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh
Cạnh tranh là hoạt động nhằm tranh giành thị trường, lôi kéo khách hàng về
phía mình của các chủ thể kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với quyền tự do cạnh tranh bởi vậy các

chủ thể kinh doanh có thể sử dụng nhiều phương thức, biện pháp để cạnh tranh với
nhau trong đó có phương thức cạnh tranh lành mạnh và cả phương thức cạnh tranh
không lành mạnh. Trong phương thức cạnh tranh không lành mạnh, để thắng được
trong cạnh tranh các chủ thể kinh doanh có thể thực hiện nhiều hành vi cạnh tranh
khác nhau, có thể là hành vi gây hạn chế cạnh tranh có hậu quả đẩy lùi cạnh tranh,
dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và cũng có thể là hành vi nhằm mục đích cạnh tranh
nhưng đi ngược lại với các quy tắc xử sự chung được thừa nhận trong kinh doanh.
Vì vậy, pháp luật cạnh tranh được ban hành nhằm kiểm soát các hành vi như vậy.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh có thể hiểu là một lĩnh vực pháp luật điều
chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh nhằm bảo đảm cạnh tranh tự
do, công bằng và lành mạnh trên thị trường.
Pháp luật cạnh tranh không phải là loại pháp luật có mục tiêu trực tiếp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh
tế của mỗi quốc gia mà mục tiêu chính là ngăn ngừa và xử lí các hành vi cạnh tranh
trái pháp luật, trái đạo đức và tập quán kinh doanh. Hay nói cách khác, pháp luật
cạnh tranh có mục tiêu là thực hiện việc duy trì năng lực cạnh tranh thực tế của các
6

Điều 58 Luật Cạnh tranh năm 2004.


doanh nghiệp. Với mục tiêu đó, sự khác biệt của pháp luật cạnh tranh so với các loại
pháp luật khác được thể hiện ở 3 đặc trưng cơ bản sau: (1) pháp luật cạnh tranh có
tính tiếp cận từ mặt trái (pháp luật cạnh tranh chỉ quy định các hành vi bị ngăn cấm
trong hoạt động cạnh tranh chứ không hướng dẫn các chủ thể kinh doanh cần làm
những gì hoặc phải làm gì trong quá trình cạnh tranh trên thị trường); (2) pháp luật
cạnh tranh thường đặt ra các điều khoản mở và những quy định miễn trừ cho phép
cơ quan thi hành luật cạnh tranh có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt; và (3)
ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hành vi cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh
còn có các quy định để đảm bảo thực thi luật cạnh tranh là các quy định điều chỉnh

hoạt động tố tụng cạnh tranh và xử lí vi phạm pháp luật cạnh tranh.7
Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh 2 quan hệ chính
sau: Một là quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh trên thị trường và hai là quan hệ giữa cơ quan thi hành luật cạnh tranh với
các chủ thể kinh doanh khi họ thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành
vi cạnh tranh không lành mạnh. Ở nhóm quan hệ thứ nhất, pháp luật cạnh tranh sẽ
can thiệp và định hướng công khai đối với các hành vi cạnh tranh của các chủ thể,
buộc các chủ thể phải lựa chọn cách xử sự hợp lí nhất tuân theo trật tự mà pháp luật
mong muốn. Để điều chỉnh nhóm quan hệ này, pháp luật cạnh tranh ở nhiều quốc
gia trên thế giới thường được chia thành hai lĩnh vực khác biệt: pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (còn gọi là
chống độc quyền hay kiểm soát độc quyền). Sở dĩ có sự phân biệt như vậy là vì tính
chất của hành vi, mức độ của hành và mức độ nguy hại của chúng đối với thị trường
và theo đó là phương thức và tính cương quyết trong sự “trừng trị” của pháp luật đối
với hai nhóm hành vi này là khác nhau.8
Tuy nhiên, bên cạnh hai lĩnh vực pháp luật cơ bản này, thuộc về hay liên
quan đến pháp luật cạnh tranh người ta còn có thể kể đến nhiều lĩnh vực pháp luật
khác nữa như: pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, pháp
luật về quảng cáo, pháp luật về khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế, pháp luật
về điều kiện thương mại chung… Bên cạnh đó, khi xem xét pháp luật cạnh tranh từ
phương diện xã hội học pháp luật, các nhà luật học còn quan tâm đến cơ chế chuyển
hóa pháp luật cạnh tranh vào cuộc sống như những vấn đề về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan quản lí nhà nước về cạnh tranh, về trình tự và thủ tục thẩm định,
7
8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), “Giáo trình Luật cạnh tranh”, NXB Công an nhân dân, tr.36-39.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), tlđd 7, tr.33-36.



khiếu nại và khiếu kiện, thẩm quyền của các cơ quan tài phán cũng như khả năng áp
dụng các chế tài.9
1.2.2. Vai trò của pháp luật cạnh tranh trong công tác bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn các nhà khoa học đã khẳng định pháp luật
cạnh tranh có rất nhiều vai trò như: tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và tự
do; bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp; thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, pháp luật cạnh tranh còn có một vai trò vô cùng
quan trọng là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Theo lý luận về kinh tế thị trường của kinh tế học hiện đại, người tiêu dùng
là một chủ thể quan trọng của nền kinh tế thị trường bên cạnh các chủ thể khác là
doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước... Họ cũng chính là đối tượng phục vụ
cuối cùng và cao nhất của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Người tiêu dùng thực
hiện việc bỏ phiếu bằng tiền để chọn lựa và quyết định việc cho phép doanh nghiệp
nào tiếp tục tồn tại trên thị trường, nên được cổ vũ để phát triển và doanh nghiệp
nào nên bị loại khỏi thị trường.10 Tuy nhiên, kinh tế học hiện đại cũng đã chỉ ra
rằng, chủ quyền của người tiêu dùng chỉ thực sự có được trong điều kiện thị trường
cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng là thứ thị trường cạnh tranh
hoàn hảo (perfect competitive markets).11
“Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị trường mà ở đó, những
người tham gia thị trường đều có quy mô quá nhỏ tới mức không đủ sức tự mình chi
phối, lũng đoạn giá cả, điều kiện giao dịch trên thị trường theo ý có lợi cho mình”.12
Đây cũng là hình thái thị trường thỏa mãn các điều kiện cơ bản như: (1) Có rất
nhiều người mua và rất nhiều người bán tham gia thị trường (mà sự vắng bóng của
một hay một số người mua/ người bán không hề ảnh hưởng đáng kể tới tương tác
cung cầu trên thị trường); (2) Loại hàng hóa/ dịch vụ mà những người cung ứng trên
thị trường cung cấp về cơ bản là giống nhau (không có sự khác biệt cơ bản về tính
năng, công dụng, đặc điểm... đến mức người mua/ người tiêu dùng coi các hàng
hóa/ dịch vụ đó là thay thế được cho nhau một cách hợp lý); và (3) Doanh nghiệp
Nguyễn Như Phát, “Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào cuộc sống”, Tạp chí Luật học,

(6), tr.30.
10
Paul A.Samuelson & William D.Nordhaus (2002), Kinh tế học (bản dịch), Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.95,
trích trong tài liệu: “Nguyễn Văn Cương (2008), “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người
tiêu dùng”, Nhà nước và pháp luật, (8), tr.18”.
11
Laurence S.Seidman (2009), Public Finance (Boston, McGraw-Hill), p.2, trích trong tài liệu: “Nguyễn Văn
Cương (2008), “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người tiêu dùng”, Nhà nước và pháp luật,
(8), tr.18”.
12
Paul A.Samuelson & William D.Nordhaus (2002), tlđd 10, tr.18”.
9


cung ứng hàng hóa/ dịch vụ có thể tự do gia nhập hoặc rút khỏi thị trường (nói cách
khác, các rào cản gia nhập hoặc rút khỏi thị trường mà các doanh nghiệp gặp phải là
không đáng kể)13. Trong điều kiện như thế, tương tác giữa doanh nghiệp và người
tiêu dùng về cơ bản là quan hệ bình đẳng, tự nguyện, không bên nào có thể ép buộc
hoặc bóc lột bên nào.
Tuy nhiên, ngay chính các nhà kinh tế cũng phải thừa nhận, điều kiện như
thế thường ít tồn tại trong thực tế. Bức tranh trong đời thực của các tương tác kinh
tế, trong đó có tương tác giữa doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ với người
tiêu dùng thường phức tạp hơn rất nhiều.14 Các doanh nghiệp để đạt được lợi nhuận
cao nhất đôi khi thực hiện cả các hành vi cạnh tranh mang tính không lành mạnh.
Những hành vi này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng. Vì thế đặt ra yêu cầu đối với pháp luật mỗi quốc
gia là phải có những quy định hợp lí nhằm đảm bảo thị trường của quốc gia mình
trở thành một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, khi đó quyền lợi người tiêu dùng
sẽ gián tiếp được đảm bảo một cách tốt nhất.
Hiện nay, người tiêu dùng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng

hầu hết đều được bảo vệ dưới hai góc độ: bảo vệ trực diện bằng các quy định của
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và bảo vệ gián tiếp thông qua việc điều chỉnh
cấu trúc thị trường bằng các quy định của pháp luật cạnh tranh. Với nhiều quốc gia
trên thế giới như: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Singapore,… pháp luật cạnh tranh được xem
là công cụ chính để bảo vệ người tiêu dùng. Các quốc gia này cho rằng, khi một nền
kinh tế có sức cạnh tranh càng lớn thì quyền lợi người tiêu dùng càng được đảm
bảo. Vì vậy, bên cạnh việc việc đặt ra các quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng họ xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật quản lý các hành vi
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Ở Việt Nam, từ năm 1999 (thời điểm Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng được ban hành) các quyền lợi của người tiêu dùng chính thức được bảo vệ một
cách trực diện bằng các quy định của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh và sau đó là Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, quyền lợi
người tiêu dùng còn được bảo vệ thông qua các quy định của Bộ luật Dân sự năm
N.Gregory Mankiw (2012), Principles of Microeconomics, 6th ed. (Mason, OH: South – Western), p.280,
trích trong tài liệu: “Nguyễn Văn Cương (2008), “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người
tiêu dùng”, Nhà nước và pháp luật, (8), tr.19”.
14
Paul A.Samuelson & William D.Nordhaus, tlđd 10, tr.19”.
13


2005 về giao dịch, hợp đồng; các quy định về xử phạt hành chính trong các lĩnh vực
có liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng; các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và trong nhiều văn bản pháp lý khác liên quan
đến sản xuất, kinh doanh dược phẩm, kinh doanh thuốc thú y, quy định về việc bảo
đảm chất lượng hàng hóa, công bố và đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật,
quảng cáo, khuyến mại,...


15

- nhóm văn bản gián tiếp bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng.
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện nay gồm 2 bộ phận kiểm soát 2
nhóm hành vi: (1) các quy định kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh và (2) các
quy định kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhóm quy định kiểm
soát các hành vi hạn chế cạnh tranh góp phần kiểm soát các hành vi làm giảm, sai
lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, gây tác động tiêu cực đến môi trường cạnh
tranh, làm sai lệch cấu trúc thị trường, bóp méo môi trường cạnh tranh qua đó bảo
vệ cơ cấu, tương quan cạnh tranh trên thị trường đồng thời góp phần gián tiếp đảm
bảo quyền lợi người tiêu dùng. Nhóm quy định kiểm soát các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh bằng việc kiểm soát các hành vi đi ngược lại với quy tắc xử sự
chung được thừa nhận trong kinh doanh, trái với thông lệ thiện chí, trung thực trong
kinh doanh gây thiệt hại đến lợi ích không chỉ của đối thủ cạnh tranh mà còn của
người tiêu dùng như hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh, hành vi bán hàng đa cấp,… sẽ góp phần bảo vệ trực tiếp
quyền lợi cho người tiêu dùng.
Như vậy, có thể thấy, Luật cạnh tranh Việt Nam có phạm vi điều chỉnh rộng,
điều chỉnh đồng thời cả hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Đây là điểm đặc thù của Luật cạnh tranh Việt Nam và một số nước mới
ban hành Luật cạnh tranh như: Ba Lan, Cộng hòa Séc, Bungari. Ở một số nước khác
như Mỹ, Nhật Bản, Malaysia, Indonesia, Luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh hành vi hạn
chế cạnh tranh. Việc điều chỉnh cả hai loại hành vi này trong cùng một đạo luật dẫn
đến một điểm bất hợp lí, đó là các hành vi này mặc dù có sự khác nhau ở mức độ
xâm phạm đến quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng nhưng lại có chung
một cách thức xử lí. Tuy nhiên, do khi Việt Nam bắt đầu soạn thảo Luật cạnh tranh
vào năm 2000, hệ thống pháp luật Việt Nam đặc biệt là pháp luật kinh tế chưa đầy
đủ, chưa bao quát hết các hành vi cạnh tranh làm ảnh hưởng đến đối thủ (đó là hành

Nguyễn Thị Thư (2010), “Đặc điểm của quan hệ tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,
Nhà nước và pháp luật, (10), tr.88-89.
15


vi mang tính dân sự) nên Luật cạnh tranh đã buộc phải điều chỉnh cả các hành vi
hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.16 Tuy là vẫn còn tồn tại
sự bất cập song không thể phủ nhận pháp luật cạnh tranh có vai trò vô cùng
quan trọng trong công tác bảo vệ quyền lợi tiêu dùng.

16

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), tlđd 7, tr.60-61.


Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG BẰNG
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định của pháp luật cạnh tranh liên quan đến bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng
Cạnh tranh trong kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng, được coi
là động lực của sự phát triển không chỉ đối với mỗi doanh nghiệp mà còn
với cả nền kinh tế. Có cạnh tranh, hàng hóa sẽ có chất lượng ngày càng tốt
hơn, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng hơn. Người tiêu dùng có
thể dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở
thích của mình. Để tăng sức cạnh tranh với doanh nghiệp khác, các doanh
nghiệp sẽ có những chính sách ưu đãi dành cho khách hàng – chính là
những người tiêu dùng. Vì vậy, người tiêu dùng sẽ nhận được sự chăm sóc
tận tình, chu đáo từ phía các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những hành vi cạnh tranh mang lại lợi ích cho

người tiêu dùng thì có rất nhiều hành vi cạnh tranh đã và đang xâm hại trực
tiếp tới quyền lợi của họ. Vì vậy với mục tiêu là chống lại các tác động tiêu cực
của các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường
làm phương hại tới quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của doanh nghiệp và
người tiêu dùng, các hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đã được kiểm soát bởi các quy định của pháp luật cạnh tranh mà cụ thể là
Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật Cạnh tranh năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm
2004, bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2005. Sau đó một loạt các văn
bản của Chính phủ như: Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về hướng
dẫn Luật Cạnh tranh; Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp (hiện đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Nghị định
42/2014/NĐ-CP ngày 14/05/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp); Nghị
định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh (hiện đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Nghị định 71/2014/NĐ-CP
ngày 21/07/2014 hướng dẫn Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh); Nghị định 07/2015/NĐ-CP ngày 16/01/2015 Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh;... đã được ban
hành để hướng dẫn cụ thể hơn các quy định của luật. Các quy định này đã và đang


góp phần gián tiếp hoặc trực tiếp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông qua việc
kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2.1.1. Các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh
Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định “Hành vi hạn chế cạnh
tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Luật Cạnh tranh sử dụng
đồng thời 2 phương pháp là phương pháp phân tích và phương pháp liệt kê để đưa
ra định nghĩa về hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó, có thể hiểu, 4 hành vi sau: (1)

hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; (2) hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường; (3) hành vi lạm dụng vị trí độc quyền; và (4) hành vi tập trung kinh tế nếu
làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường thì sẽ bị coi là hành vi hạn chế
cạnh tranh. Những hành vi này hướng đến việc hình thành sức mạnh thị trường hoặc
lợi dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị
biến dạng. Chính thông qua việc làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị
biến dạng các hành vi này đã gián tiếp xâm hại tới quyền lợi của người tiêu
dùng.
2.1.1.1. Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh
a. Khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh17
Luật Cạnh tranh không trực tiếp đưa ra định nghĩa về hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh nhưng từ nội dung của quy định pháp luật có thể hiểu thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa hai hay nhiều chủ thể kinh doanh trên thị trường
hướng tới hoặc có tác động làm giảm, làm sai lệch hay cản trở hoạt động cạnh
tranh bình thường trên thị trường.
Như vậy, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có 5 đặc trưng pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có thể là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau
nhưng cũng có thể chính là các doanh nghiệp có mối liên hệ trong cùng một chuỗi
sản xuất hay cung ứng sản phẩm, dịch vụ.
Thứ hai, các doanh nghiệp thiết lập với nhau các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Các thỏa thuận này có thể là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng
trực tiếp giữa các bên tham gia, cũng có thể là thỏa thuận mà các bên gián tiếp đạt
Phùng Văn Thành (2014), “Khái niệm, bản chất và đặc trung pháp lý của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam”, trang web của Cục quản lý cạnh tranh, địa chỉ:
ngày truy cập 7/6/2016.
17


được thông qua việc cùng tham gia một Hiệp hội và đồng ý với nội dung của các

nghị quyết, quyết định của Hiệp hội đó. Ngoài ra, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn
có thể biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hay đáp ứng những yêu cầu do một
hoặc một số bên đặt ra.
Thứ ba, mục đích của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là nhằm hạn chế cạnh
tranh. Các doanh nghiệp liên kết với nhau, qua đó giảm sức ép cạnh tranh trên thị
trường. Khi các doanh nghiệp này có sự liên kết đủ lớn, họ sẽ có khả năng khống
chế và buộc khách hàng phải tuân theo những luật chơi do chính họ đặt ra mà không
dựa trên bất kỳ quy luật nào của thị trường. Các doanh nghiệp không tham gia thoả
thuận thì bị khách hàng hoặc nhà cung cấp áp đặt những điều kiện bất lợi hơn so với
các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, do vậy có nguy cơ mất cơ hội kinh doanh
hoặc bị loại khỏi thị trường.
Thứ tư, hình thức của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất đa dạng. Các thỏa
thuận này có thể được thể hiện thông qua hình thức văn bản như hợp đồng, biên bản
cuộc họp, quyết định, nghị quyết, các trao đổi điện thoại, fax, email... và cũng có
thể chỉ là các thỏa thuận ngầm.
Thứ năm, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch
hay cản trở hoặc thậm chí triệt tiêu các hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị
trường. Tuy nhiên, khi xác định một hành vi có phải hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh hay không, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không xét đến hậu quả thực tế
mà chỉ cần xác định hậu quả về mặt hình thức. Hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong
việc xác định mức độ trách nhiệm pháp lý hay mức phạt của các doanh nghiệp đã
thực hiện hành vi.
b. Phân loại các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh gồm 2 nhóm: nhóm thứ nhất là
các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoàn toàn bị pháp luật nghiêm cấm thực
hiện và nhóm thứ hai bao gồm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị pháp
luật nghiêm cấm nhưng có điều kiện là khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần
kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.
- Nhóm thứ nhất gồm các hành vi sau:
(1) Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia

thị trường hoặc phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình
thức sau: (i) Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng không mua, bán hàng hóa, không


sử dụng dịch vụ/ các nhà phân phối, bán lẻ phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa,
sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận; (ii) Mua, bán
hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận
không thể tham gia thị trường liên quan/ mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
Trong đó thị trường liên quan được hiểu là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả18. Đặc tính của
hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: (a) tính chất vật
lý, (b) tính chất hóa học, (c) tính năng kỹ thuật, (d) tác dụng phụ đối với người sử
dụng, (đ) khả năng hấp thụ. Các tiêu chí cụ thể nêu trên mặc dù phù hợp đối với
hàng hóa nhưng không có một sự liên quan nào tới dịch vụ. Do đó, trong trường
hợp cần phải xác định thị trường liên quan của một loại dịch vụ, cơ quan cạnh tranh
không thể áp dụng các tiêu chí này để xác định đặc tính của dịch vụ, từ đó, không
đảm bảo đầy đủ các yếu tố xác định thị trường liên quan theo quy định của pháp
luật. Về cách thức xác định khả năng thay thế cho nhau về giá, Điểm c Khoản 5
Điều 4 Nghị định 116 quy định “Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế cho
nhau về giá cả nếu trên 50% của một lượng ngẫu nhiên 1000 người tiêu dùng sinh
sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa,
dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang
sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng
lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp”. Có thể thấy đây là một hình
thức được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới công nhận rộng rãi trong việc xác
định thị trường liên quan. Tuy nhiên để triển khai trên thực tế là rất khó khăn về mặt
thu thập dữ liệu thị trường và tốn kém trong việc tổ chức lấy ý kiến người tiêu dùng.
Đồng thời con số 50% là không khả thi và thường dẫn đến kết quả thị trường liên
quan được xác định là của chính sản phẩm/ dịch vụ được khảo sát hay có thể hiểu là

doanh nghiệp bị điều tra là doanh nghiệp độc quyền trên thị trường liên quan được
xác định theo quy định của Luật Cạnh tranh. Điều này không phản ánh đúng với
thực tế cạnh tranh trên thị trường19.20
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
Kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo sát theo quy định của Luật Cạnh tranh trong một vụ việc cho thấy: có
trên 50% số lượng người được phỏng vấn cho biết sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm được hỏi trong trường
hợp giá của sản phẩm đó tăng lên 10% trong khoảng thời gian 6 tháng. Tuy nhiên, họ lại quyết định lựa chọn
các sản phẩm thay thế khác nhau chứ không phải là một sản phẩm duy nhất khác. Do đó, kết quả khảo sát
cho thấy, lượng người tiêu dùng chuyển sang sử dụng một sản phẩm thay thế khác không đáp ứng ngưỡng
50% như quy định của luật. Như vậy, có thể hiểu, theo cách xác định thị trường liên quan được quy định tại
Nghị định 116, thị trường sản phẩm liên quan của vụ việc là thị trường của chính sản phẩm đó, không bao
gồm các sản phẩm cạnh tranh nào khác. Điều này không phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường sản
phẩm được điều tra.
18
19


(2) Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là
các bên của thoả thuận là việc các bên của thỏa thuận thống nhất với nhau không
giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới
hình thức (i) Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng không mua, bán hàng hóa, không
sử dụng dịch vụ/ các nhà phân phối, bán lẻ phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa,
sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận; (ii) Mua, bán
hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận
không thể tham gia thị trường liên quan/ mở rộng thêm quy mô kinh doanh hoặc
(iii) Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia
thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.
Đối tượng chịu tác động trực tiếp của các thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm,
không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hay loại bỏ khỏi thị trường những
doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận chính là các doanh nghiệp

không tham gia thỏa thuận. Có những thỏa thuận thậm chí còn mang lại lợi ích
trước mắt cho người tiêu dùng. Ví dụ như thỏa thuận hạ giá bán sản phẩm để doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan hoặc
buộc phải rút lui khỏi thị trường liên quan. Tuy nhiên, đây sẽ chỉ là lợi ích trước mắt
mà người tiêu dùng nhận được. Còn về lâu dài thì nguy cơ bị xâm phạm đến quyền
lợi của người tiêu dùng là rất cao. Một dẫn chứng rất tiêu biểu chính là câu chuyện
trên thị trường nước giải khát Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX. Cụ thể, vào
năm 1998, để loại bỏ khỏi thị trường Công ty Tribeco – một doanh nghiệp sản xuất
nước ngọt thành công nhất trên thị tường nội địa Việt Nam những năm đầu thập kỷ
90, Coca Cola đã giảm giá 30%, giá giao cho đại lý là 800 đồng/chai; loại lớn giảm
từ 31.200 đồng còn 20.600 đồng/két. Pepsi cũng giảm giá từ 31.200 đồng xuống
còn 20.000 đồng/két. Lúc này người chịu thiệt hại sẽ chỉ là các doanh nghiệp, không
chỉ có Tribeco mà thậm chí cả Coca Cola và Pepsi cũng đang phải dành rất nhiều
lợi nhuận của mình cho “cuộc đấu sức này”. Tuy nhiên sau 2 năm chạy đua, Tribeco
đã không còn đủ sức để đương đầu với các “ông lớn”, vì vậy doanh nghiệp này đã
buộc phải từ bỏ lĩnh vực nước uống có gas để “nhảy sang vùng đất mới”.21 Ngay sau
đó Coca Cola và Pepsi với vị trí thống lĩnh thị trường đã nhanh chóng tăng giá sản
phẩm nước uống có gas trở lại và giá sản phẩm của cả hai hãng cao hơn rất nhiều so
Cục quản lý cạnh tranh và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (2012), “Báo cáo rà soát các quy định của
Luật Cạnh tranh Việt Nam”, tr.67-68.
21
Theo Nhịp cầu đầu tư (10/06/2013), “Bùng nổ chiến tranh nước giải khát tại Việt Nam”, tại địa chỉ:
truy cập ngày
8/7/2016.
20


×