Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hoạt động quản lý thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.46 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRỌNG QUÝ

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRỌNG QUÝ

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số : 60380102

Người hướng dẫn khoa học : TS. TRẦN THỊ HIỀN

HÀ NỘI – NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN




Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TS. Trần Thị Hiền

Nguyễn Trọng Quý


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan thi hành án
dân sự
Bảng 2: Kết quả thi hành án dân sự về việc
Bảng 3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

7


1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý thi hành án dân sự

7

1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự

7

1.1.2. Khái niệm hoạt động quản lý thi hành án dân sự

8

1.1.3. Chủ thể và nội dung hoạt động quản lý thi hành án dân sự

16

1.1.4. Vai trò của hoạt động quản lý thi hành án dân sự

26

1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý thi hành án dân sự

29

1.2.1. Nguyên tắc pháp chế trong quản lý thi hành án dân sự

29

1.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ trong
quản lý thi hành án dân sự


30

1.2.3. Nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân trong quản lý thi hành án dân sự

32

1.2.4. Nguyên tắc đảm bảo yêu cầu cải cách hành chính, cải cách
tư pháp trong quản lý thi hành án dân sự

33

1.3. Các yếu tố bảo đảm hoạt động quản lý thi hành án dân sự

34

1.3.1. Hệ thống quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự

34

1.3.2. Tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý thi hành án dân sự

35

1.3.3. Đội ngũ công chức thi hành án dân sự

36

1.3.4. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức,

cá nhân liên quan

37

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

39

2.1. Khái quát pháp luật về quản lý thi hành án dân sự

39

2.1.1. Pháp luật giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950

39

2.1.2. Pháp luật giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980

40

2.1.3. Pháp luật giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993

42

2.1.4. Pháp luật giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2008

43



2.1.5. Pháp luật giai đoạn từ năm năm 2008 đến nay

44

2.2. Thực tiễn hoạt động quản lý thi hành án dân sự

45

2.2.1. Những kết quả đạt được

45

2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong quản lý thi hành án dân sự và
nguyên nhân

57

Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

68

3.1. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam

68

3.2. Giải pháp đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý thi hành án dân sự ở Việt Nam

71


3.2.1. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức thi hành án dân sự

71

3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về thi hành án dân sự

72

3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và phối hợp giữa
các cơ quan, tổ chức liên quan trong hoạt động quản lý thi hành án
dân sự

73

3.2.4. Đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động quản lý thi hành án dân sự

74

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thi hành; đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước,
tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Vì vậy, yêu cầu thi hành
nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã trở thành
nguyên tắc có tính hiến định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Điều 106, Hiến pháp
năm 2013).
Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thi hành án, công tác thi hành án nói
chung, công tác thi hành án dân sự nói riêng đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm, đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước. Cùng với
những đường lối, chủ trương của Đảng về công tác thi hành án dân sự, pháp
luật về thi hành án dân sự (THADS) đã không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ
sở pháp lý cho quản lý nhà nước về THADS. Theo Luật THADS năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, hiện nay
công tác THADS ở nước ta đã được quản lý tập trung, thống nhất từ trung
ương tới địa phương; hiệu lực, hiệu quả công tác THADS có nhiều chuyển
biến nhất định góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế
của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác THADS nói
chung, hoạt động quản lý THADS nói riêng cũng còn những tồn tại, hạn
chế và khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể như: số lượng án tồn đọng


còn nhiều cả về việc và giá trị thi hành; tỷ lệ thi hành xong còn thấp so với số

việc phải thi hành; trình độ, năng lực của một bộ phận Chấp hành viên,
công chức THADS còn chưa đáp ứng yêu cầu; pháp luật về THADS cũng
còn những quy định thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; công tác phối hợp trong
THADS cũng còn những khó khăn, vướng mắc; công tác kiểm tra, thanh tra
trong THADS tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng việc triển khai còn
chậm, chưa thực sự phát huy được vai trò là công cụ đắc lực phục vụ công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hoạt động quản lý THADS...Vì vậy, nghiên
cứu hoạt động quản lý THADS sẽ phân tích, làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn của hoạt động quản lý THADS, chỉ ra những nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế để trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp đảm bảo hiệu quả
quản lý THADS ở Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết hiện nay. Từ đó,
tác giả chọn đề tài luận văn “Hoạt động quản lý thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” với mong muốn góp phần đưa ra những kiến nghị để nâng
cao hiệu quả quản lý THADS trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến THADS nói chung, quản lý THADS nói riêng đã có
nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Cụ thể là một số công
trình nghiên cứu sau đây:
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động THADS ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Quang Thái, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2003;
- “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
ở Việt Nam trong giai đoạn mới”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư
pháp chủ trì (2005);


- “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các tiêu chuẩn chức
danh tư pháp”, Đề tài khoa học cấp bộ năm 2005 do Tiến sĩ Dương Thanh
Mai làm chủ nhiệm;
- “Các biện pháp cưỡng chế THADS” của tác giả Nguyễn Công Long,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong THADS ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005;
- “Vấn đề đổi mới thủ tục THADS ở nước ta hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề
về THADS, năm 2006);
- “Thực trạng về án tồn đọng và những giải pháp của Thi hành án dân
sự thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Lực và Đào Anh Dũng
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề về Thi hành án dân sự
năm 2008).
- "Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Thùy Trang đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số tháng 12(296)/2012.
- "Bàn về tính dân chủ trong pháp luật về thi hành án dân sự” của tác
giả Bùi Thái Bình đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 03/2012.
- "Những trăn trở từ thực tế thi hành án dân sự” của tác giả Hương Lan
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 04/2012.
- "Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả việc thi hành án dân sự tồn
đọng” của tác giả Lê Thị Tuyết Minh đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số chuyên đề tháng 06/2012.


- "Bàn về quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu yêu cầu thi hành án
của người phải thi hành án dân sự” của tác giả Lê Anh Thọ đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 14, tháng 07/2012.
- "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan
hữu quan trong thi hành án dân sự” của tác giả Lê Thị Lệ Duyên đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng 10/2012.
- "Những bất cập sau 3 năm thực hiện luật thi hành án dân sự” của tác

giả Trần Thế Hùng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề
tháng 02/2013).
- "Một số bất cập sau ba năm thực hiện Luật Thi hành án dân sự” của
tác giả Phan Đức Vũ đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 01/tháng 01/2013.
- "Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số Tân xuân,
tháng 01/2013...
Ngoài ra cũng còn nhiều đề tài, bài báo đề cập đến các lĩnh vực của
công tác THADS được công bố, đăng tải trên các báo, tạp chí…đề cập đến
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về THADS.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập một số vấn đề
về hoạt động THADS như khái niệm THADS; mô hình tổ chức các cơ quan
THADS; công tác kiểm sát THADS; trình tự, thủ tục THADS; tính minh
bạch, công khai trong quá trình tổ chức thi hành án...Tuy nhiên, ít có công
trình nghiên cứu đề cập đến hiệu quả công tác THADS từ góc độ quản lý nhà
nước của các cơ quan quản lý THADS. Vì vậy, luận văn tiếp tục nghiên cứu,
làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động THADS từ góc độ thể chế
và thực tiễn quản lý nhà nước về công tác THADS nhằm góp phần vào việc


hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác THADS ở Việt Nam trong
thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực trạng quản lý THADS và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý THADS ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một một số vấn đề lý luận về hoạt động quản lý THADS

như: xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, vai trò của hoạt động quản lý
THADS; các yếu tố bảo đảm hoạt động quản lý THADS; yêu cầu đảm bảo
động quản lý THADS.
- Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý THADS ở Việt Nam.
- Xác định yêu cầu và kiến nghị một số giải pháp đảm bảo hoạt động
quản lý THADS ở Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động quản lý THADS có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc
độ khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu
thực trạng quản lý THADS ở Việt Nam trên cơ sở pháp luật hiện hành là Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát


triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể; kết hợp các phương pháp như: logic, phân tích,
so sánh, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về
THADS nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung quản lý THADS.
Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá khoa học, thấy rõ những mặt được,
những vướng mắc bất cập của hoạt động quản lý THADS ở nước ta để từ đó
có giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý THADS. Luận văn có thể là
tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS, các cơ
quan liên, tổ chức quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo, quản lý, phối hợp
trong hoạt động THADS.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động quản lý THADS
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý THADS và thực tiễn thi
hành ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo hoạt động quản lý THADS ở
Việt Nam hiện nay.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Trong đời sống xã hội, pháp luật là cơ sở cho quản lý nhà nước và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, khi các chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật hoặc có tranh chấp xảy ra thì việc xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp được giải quyết bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Tòa án nhân
dân, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) theo quy định
của pháp luật. Kết quả của việc xét xử, giải quyết tranh chấp được thể hiện là
các bản án, quyết định, trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ của đương sự
và chủ thể liên quan. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
và các chủ thể liên quan, yêu cầu đặt ra là các bản án, quyết định có hiệu lực
phải được thi hành nghiêm chỉnh.
Ở nước ta, vấn đề bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật là yêu cầu khách quan trong hoạt động Nhà nước được quy định tại
Điều 106, Hiến pháp năm 2013. Theo quy định pháp luật hiện hành, việc tổ
chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của của Tòa án và
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thực hiện theo các trình tự, thủ tục
THADS; thi hành án hình sự và thi hành án hành chính.

Đối với hoạt động THADS, các nghĩa vụ phải thi hành liên quan đến
tiền và tài sản - phần “dân sự” trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật. Đó là:
- Bản án, quyết định dân sự;


- Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định
hình sự;
- Phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án;
- Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành, và
- Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại.
Để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về "dân sự” nhằm đảm bảo
khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, pháp
luật quy định cơ quan THADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành và
Chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi hành án. Trong quá trình
thi hành án, Chấp hành viên và cơ quan THADS phải thực hiện đúng các trình
tự, thủ tục pháp luật quy định và đảm bảo quyền tự định đoạt và thỏa thuận
của các đương sự.
Với cách tiếp cận như trên, có thể khái niệm: THADS là hoạt động của
cơ quan THADS và Chấp hành viên theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định
nhằm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi
hành.
1.1.2. Khái niệm hoạt động quản lý thi hành án dân sự
Sự tồn tại và phát triển của xã hội bao gồm nhiều quá trình đòi hỏi có
sự quản lý để đảm bảo thực hiện những mục tiêu chung. Quản lý là hoạt
động mang tính tất yếu của con người khi có hoạt động chung, là sự tác
động có mục đích của chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý nhằm

điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp hoạt động
riêng lẻ của từng cá nhân thành một hoạt động chung thống nhất nhằm đạt


được mục tiêu đã định trước. Quản lý có thể được quan niệm, tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau, nhưng với nghĩa chung nhất có thể hiểu “Quản lý là
sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên các khách thể nhằm
đạt được mục tiêu định trước”11.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý, xuất hiện cùng với Nhà nước,
tuy nhiên, nội dung, phương thức và công cụ áp dụng để tiến hành các hoạt
động quản lý nhà nước lại tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể của thể chế
chính trị, thể chế nhà nước cũng như điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia ở từng giai đoạn22. Xét về mục đích, quản lý nhà nước là sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt
động của con người do tất cả các cơ quan nhà nước tiến hành để thực hiện
các chức năng của nhà nước đối với xã hội. Để thực hiện vai trò, chức năng
quản lý đối với xã hội, Nhà nước tổ chức ra hệ thống các cơ quan nhà nước
và sử dụng các công cụ, biện pháp quản lý khác nhau như: kế hoạch, quy
hoạch, chính sách, pháp luật… và mỗi công cụ, biện pháp đều có vị trí, vai
trò nhất định và được sử dụng phù hợp với từng bối cảnh, thời điểm, giai
đoạn của quá trình quản lý, trong đó pháp luật được coi là công cụ quan
trọng, hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực nhà nước, quản lý nhà nước và
xã hội. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là phương thức riêng có của Nhà
nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội, bởi vì
pháp luật là công cụ có tính đặc thù có thể triển khai rộng nhất, nhanh nhất
và hiệu quả nhất các chủ trương, chính sách một cách có hệ thống, thể hiện
được quyền lực nhà nước trong quá trình quản lý và là cơ sở cho việc kiểm
tra, kiểm soát các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân, tổ chức.. Tầm
1 Học viện Hành chính (2010), Giáo trình quản lý học đại cương, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, tr.13-14.

2 Học viện Hành chính, tldd chú thích 1, tr 12


quan trọng của pháp luật trong quản lý nhà nước đã được quy định tại Điều
8, Hiến pháp 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ”33.
Đối với THADS, hoạt động quản lý THADS là một trong những hoạt
động quản lý nhà nước nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án,
quyết định về dân sự theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Hoạt
động quản lý THADS có thể được nhận diện là quá trình mà ở đó Nhà
nước với tư cách là chủ thể quản lý thực hiện các nhiệm vụ như: xây dựng,
ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về THADS; theo dõi, kiểm
tra, kiểm sát và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về THADS. Với
yêu cầu như vậy, nhiệm vụ của Nhà nước là định hướng cho hoạt động
THADS được thực hiện theo trình tự nhất định. Hoạt động THADS với tư
cách là đối tượng quản lý phải được tổ chức và vận động trên cơ sở các quy
định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Pháp luật là cơ sở, là công cụ để Nhà nước quản lý THADS phải
được xây dựng trên cơ sở khoa học, thống nhất, phù hợp với thực tiễn sẽ là
những chuẩn mực để đối tượng quản lý thực hiện và chủ thể quản lý thực hiện
sự kiểm tra, giám sát. Hay nói cách khác, hoạt động quản lý THADS là tạo
môi trường pháp lý minh bạch, ổn định để hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động
THADS được thực hiện theo trật tự pháp luật quy định nhằm nhằm giải
quyết hài hòa các mối quan hệ phát sinh trong quá trình THADS bao gồm:
Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho các quan hệ trong THADS được hình
thành theo đúng mục tiêu, định hướng chung của nhà nước; nhà nước xây
dựng môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, thông thoáng, ổn định; nhà
3 Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.



nước giải quyết công bằng, đúng pháp luật các quan hệ về lợi ích giữa các
bên liên quan trong THADS và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
trong THADS.
Theo quy định pháp luật, hoạt động THADS chỉ do Chấp hành viên và
cơ quan THADS thực hiện; Chấp hành viên là người được Nhà nước giao
nhiệm vụ THADS. Vì vậy, hoạt động quản lý THADS có thể được tiếp cận
với các góc độ khác nhau.
- Theo nghĩa hẹp, hoạt động quản lý THADS là hoạt động quản lý quá
trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, vì vậy trong
hệ thống tổ chức THADS được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất từ
trung ương tới địa phương (trừ hệ thống tổ chức thi hành án trong quân đội)
bao gồm: Tổng cục THADS; Cục THADS và Chi cục THADS thì hoạt động
quản lý THADS là hoạt động của cơ quan quản lý THADS bao gồm Tổng cục
THADS và Cục THADS.
- Theo nghĩa rộng, hoạt động quản lý THADS không chỉ giới hạn ở việc
quản lý quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định mà còn là quá trình
định hướng cho hoạt động THADS phù hợp với các mục tiêu quản lý của bộ
máy nhà nước, vì vậy hoạt động quản lý THADS còn bao gồm xây dựng pháp
luật về THADS; tổ chức thực hiện pháp luật về THADS; thanh tra, kiểm tra,
kiểm sát hoạt động THADS; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
THADS... Do đó, hoạt động quản lý THADS là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định, bao gồm Chính phủ (với
vai trò là cơ quan quản lý hành chính cao nhất có trách nhiệm thống nhất
quản lý về THADS trong phạm vi cả nước); Bộ Tư pháp (cơ quan giúp
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về THADS trong phạm
vi cả nước); các Bộ, ngành liên quan (trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình chịu trách nhiệm thực hiện, phối hợp trong quản lý về THADS);



Ủy ban nhân dân các cấp (có trách nhiệm thực hiện quản lý, phối hợp trong
THADS theo nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định); Tổng cục
THADS và Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Từ những phân tích như trên có thể khái niệm: Hoạt động quản lý
THADS là hoạt động hành chính – tư pháp theo đó các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền sử dụng pháp luật để điều chỉnh và định hướng cho hoạt
động THADS vận động, phát triển theo các mục tiêu đề ra.
Với khái niệm nêu trên và từ thực tiễn công tác THADS ở nước ta, có
thể nhận diện một số đặc điểm của hoạt động quản lý THADS như sau:
- Hoạt động quản lý THADS vừa mang tính chất hành chính, vừa
mang tính chất tố tụng.
Tính chất hành chính trong quản lý THADS được thể hiện qua các quy
định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về
THADS và cơ quan THADS; mối quan hệ phối hợp của các cơ quan, tổ chức
có liên quan với cơ quan THADS trong quá trình THADS; nhiệm vụ, quyền
hạn của Chấp hành viên – người được trao thẩm quyền tổ chức thi hành án (ví
dụ như: việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác THADS; quản lý và bổ nhiệm Chấp
hành viên….). Tính chất tố tụng trong quản lý THADS thể hiện trong việc
đảm bảo cho quá trình thi hành án được thực hiện theo các trình tự, thủ tục
pháp luật như: quy định về yêu cầu thi hành án; hoãn thi hành án; cưỡng chế
thi hành án; kiểm sát, kháng nghị về thi hành án…
Xuất phát từ đặc điểm này, hoạt động quản lý THADS nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân không chỉ là hoạt
động chuyên môn thuần tuý của các cơ quan quản lý THADS, cơ quan
THADS, Chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước các cấp và toàn xã hội. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát


huy trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong quản lý THADS, cơ
quan THADS, Chấp hành viên và sự chỉ đạo, phối hợp kịp thời của UBND

các cấp và các cơ quan, tổ chức liên quan là cơ sở tạo ra sức mạnh tổng hợp,
nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong THADS nói chung, hoạt
động quản lý THADS nói riêng.
- Hoạt động quản lý THADS đảm bảo tính độc lập và đề cao tính chủ
động của cơ quan THADS và Chấp hành viên trong THADS.
Mục đích của THADS là thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định
về dân sự có hiệu lực pháp luật, do đó hoạt động quản lý THADS đòi hỏi phải
đảm bảo tính độc lập của cơ quan THADS và Chấp hành viên trong quá trình
thi hành án. Điều này có nghĩa là quản lý THADS cần đảm bảo cho cơ quan
THADS và Chấp hành viên độc lập trong việc lựa chọn, áp dụng các quy định
pháp luật cũng như chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với những hành vi,
quyết định của mình, Luật THADS quy định trách nhiệm phối hợp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS và Chấp hành viên: “Trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc thi hành án. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan
THADS, Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Mọi hành vi cản trở,
can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan THADS, Chấp hành
viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”.
Cùng với sự độc lập, pháp luật còn đảm bảo cho cơ quan THADS và
Chấp hành viên được chủ động trong quá trình thi hành án. Tùy tình hình thực
tế của từng vụ việc cụ thể, cơ quan THADS và Chấp hành viên được lựa chọn
và áp dụng các quy định pháp luật phù hợp để đảm bảo hiệu quả thi hành án. Đó
là Chấp hành viên được chủ động áp dụng biện pháp bảo đảm (phong tỏa tài
khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi


hiện trạng tài sản) và biện pháp cưỡng chế thi hành án (khấu trừ tiền trong tài
khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành

án; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển
giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không
được thực hiện công việc nhất định).
Như vậy, trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS và
Chấp hành viên được pháp luật quy định, vấn đề quan trọng trong quản lý
THADS là đảm bảo cho các nhiệm vụ, quyền hạn đó được thực hiện đúng trình
tự, đảm bảo sự công khai, minh bạch để đạt được hiệu quả của công tác
THADS.
- Hoạt động quản lý THADS đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của
các đương sự
Hoạt động THADS nhằm thi hành các bản án, quyết định về dân sự có
hiệu lực thi hành liên quan trực tiếp đến các quyền dân sự (quyền tài sản, quyền
nhân thân phi tài sản) của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Do đó, để đảm bảo các quyền dân sự của cá nhân, tổ chức, nguyên tắc xuyên
suốt trong quá trình THADS là tôn trọng quyền sự định đoạt và thỏa thuận của
các đương sự. Điều này đòi hỏi hoạt động quản lý THADS với nghĩa là hoạt
động quản lý quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án phải bám sát
các quyền của các chủ thể cần được bảo đảm trong từng thủ tục, giai đoạn thi
hành án; đồng thời cơ quan THADS và Chấp hành viên cần thực sự định hướng
cho đương sự thực hiện đúng các quyền tự định đoạt của mình theo quy định
pháp luật. Ví dụ: quyền chủ động yêu cầu thi hành án của đương sự; quyền thỏa
thuận của đương sự về thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện các nghĩa vụ
thi hành án miễn là các thỏa thuận đó phù hợp với pháp luật và không trái đạo
đức xã hội; quyền thỏa thuận về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án…


- Hoạt động quản lý THADS liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế,
chính trị và xã hội.
Hoạt động quản lý THADS nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh; góp phần đảm bảo trật tự, an

toàn xã hội và nâng cao ý thức pháp luật về THADS trong xã hội. Tính chất
của hoạt động THADS liên quan đến điều kiện kinh tế, khả năng thi hành
nghĩa vụ của đương sự (đặc biệt là người phải thi hành án); tình hình chính trị,
đặc điểm văn hóa- xã hội của từng địa phương, do đó hoạt động quản lý
THADS đòi hỏi phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền và lợi ích hợp
pháp của người được thi hành án với quyền, lợi ích hợp pháp của người phải
thi hành án và những yêu cầu khác của quản lý nhà nước. Ví dụ như: không
được cưỡng chế đối với tài sản là số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch
mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và
gia đình; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc
người ốm; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; không
được tổ chức cưỡng chế trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm
sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật…Do đó, trong hoạt
động quản lý THADS đòi hỏi cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và
Chấp hành viên cần quán triệt đầy đủ nguyên tắc này để đảm bảo hiệu quả
quản lý THADS không chỉ là kết quả thi hành án mang tính định lượng mà
còn ở những kết quả định tính, hiệu quả tích cực về mặt xã hội của công tác
THADS.
- Hoạt động quản lý THADS là công việc khó khăn và phức tạp.
Quản lý THADS bao gồm nhiều hoạt động như xây dựng pháp luật, tổ
chức thực thi pháp luật; kiểm tra, giám sát quá trình thi hành pháp luật. Đặc
biệt là, hoạt động quản lý THADS gắn liền với quá trình tổ chức thi hành các


bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật rất đa dạng, phong phú, liên quan đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và các quyền con người, quyền công dân
(ví dụ như: quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất; hoạt động của doanh
nghiệp; quản lý đất đai; hoạt động xây dựng, hàng hải ....), do đó, để đảm bảo
hiệu quả thi hành án và hiệu quả hoạt động quản lý THADS, cơ quan quản lý

THADS, cơ quan THADS và Chấp hành viên phải tuân thủ quy phạm pháp
luật ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Bộ luật Dân sự; Luật THADS; Luật Đất
đai; Luật Doanh nghiệp; Luật Các tổ chức tín dụng; Luật Đầu tư; Luật Nhà ở;
Luật Chứng khoán; Luật Phá sản, Luật Hàng hải; Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Luật Lao động.... Với việc
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội
như vậy và pháp luật trong nhiều lĩnh vực cũng chưa thực sự đồng bộ, thống
nhất nên hoạt động quản lý THADS gặp nhiều khó khăn, phức tạp, mất nhiều
thời gian, chi phí tuân thủ pháp luật. Từ đó, yêu cầu đặt ra là cơ quan quản lý
THADS cũng như cơ quan THADS và Chấp hành viên phải thận trọng trong
việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng cũng như đề cao tính trách
nhiệm, độc lập trong quá trình thi hành án, đồng thời không ngừng hoàn thiện
các quy định pháp luật làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả quản lý THADS
cũng như hiệu quả THADS.
1.1.3. Chủ thể và nội dung hoạt động quản lý thi hành án dân sự
1.1.3.1. Chủ thể quản lý hoạt động thi hành án dân sự
Theo quy định pháp luật hiện hành, Bộ Tư pháp được giao chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về THADS;
các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với Bộ
Tư pháp trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện pháp luật
về THADS trong công tác THADS. Mặc dù Bộ Tư pháp được giao chịu
trách nhiệm thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về công tác THADS


nhưng việc quản lý, tổ chức hoạt động THADS được giao cho các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền liên quan trực tiếp đến hoạt động THADS. Cụ thể là:
Ở Trung ương: Tổng cục THADS là cơ quan quản lý THADS trực thuộc
Bộ Tư pháp; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính
trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự

và thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật; Hướng dẫn, kiểm tra
và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình, đề án, dự án về THADS, quản lý thi hành án hành
chính sau khi được phê duyệt, ban hành; theo dõi việc thực hiện kháng nghị,
kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân liên quan đến hoạt động THADS; phối
hợp với cơ quan liên quan thanh tra về quản lý THADS; thống kê, xây dựng
cơ sở dữ liệu về THADS; quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở
vật chất - kỹ thuật, phương tiện hoạt động của các cơ quan THADS…
Ở cấp tỉnh: Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ
quan THADS trực thuộc Tổng cục THADS có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo về
THADS trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm: bảo
đảm việc áp dụng thống nhất các quy định pháp luật trong hoạt động THADS;
chỉ đạo hoạt động THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện; hướng dẫn
nghiệp vụ THADS cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan THADS
trên địa bàn; kiểm tra công tác THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện;
tổng kết thực tiễn THADS; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ
chức, hoạt động THADS theo hướng dẫn của Tổng cục THADS; trực tiếp tổ
chức thi hành bản án, quyết định theo thẩm quyền; giải quyết khiếu nại, tố cáo
về THADS thuộc thẩm quyền…
Ở cấp huyện: Chi cục THADS là cơ quan THADS trực thuộc Cục
THADS có nhiệm vụ, quyền hạn: trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết


định theo quy định pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc
thẩm quyền; thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương
tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của Cục THADS; thực hiện
chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy
định của pháp luật và hướng dẫn của Cục THADS; lập hồ sơ đề nghị xét
miễn, giảm nghĩa vụ THADS.
1.1.3.2. Nội dung hoạt động quản lý thi hành án dân sự

THADS là việc thực hiện các trình tự, thủ tục pháp luật quy định để
thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành và là đối tượng quản lý
trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, vì vậy nội dung
pháp luật quy định về hoạt động quản lý THADS được thể hiện ở những
nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng, ban hành pháp luật về THADS
Pháp luật là cơ sở và là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước, vì
vậy để đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý THADS đòi hỏi pháp luật phải
được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn của công tác THADS. Việc xây
dựng và ban hành pháp luật về THADS chính là việc xây dựng chiến lược,
quy hoạch, chính sách, pháp luật về THADS để trên cơ sở đó các chủ thể
quản lý có định hướng, có cơ sở pháp lý để thực hiện các mục tiêu quản lý
đề ra.
Pháp luật là cơ sở và là công cụ thực hiện quản lý nhà nước đối với
hoạt động THADS, đồng thời cũng là các chuẩn mực pháp lý cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý và tổ chức, hoạt động của
các cơ quan này. Trên cơ sở pháp luật, Nhà nước quy định và bảo vệ các
quyền về THADS của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bình đẳng, đồng thời các
chủ thể quản lý có định hướng, có phương pháp thích hợp để thực hiện các


×