Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.52 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TĂNG NGỌC KIM MỸ

KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TĂNG NGỌC KIM MỸ

KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số


: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đỗ Thị Phượng – Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Những thông tin, số liệu và trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chính xác.

Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

PGS. TS. Đỗ Thị Phượng
Mỹ

Tác giả luận văn

Tăng Ngọc Kim


4

LỜI CÁM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác
thực tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của quý thầy cô, sự quan
tâm giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè,

đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội,
các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại
trường.
Cám ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực
hiện quản lý đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo
cũng như chương trình đào tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp
hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Cám ơn Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương đã giúp đỡ rất nhiều để tôi hoàn thành luận văn
này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS. Ts Đỗ
Thị Phượng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và thực hiện luận văn.
Cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn


5


6

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


7

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………… ………………..1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TẠM
GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ……
….7
1.1. Khái niệm kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
7
1.2. Cơ sở của việc kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra 18
1.3. Ý nghĩa của kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra

25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TẠM GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH…
…30
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 về kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự.
30
2.2. Thực tiễn thi hành hoạt động kiểm sát việc tạm giam trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
48
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC TẠM
GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ……
.63
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
63
3.2. Các giải pháp khác
70
KẾT LUẬN………………………………

……….82


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập trong tố tụng
hình sự, có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện
pháp cần thiết do luật định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, xác
định rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội đồng thời kiến nghị các cơ quan
và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa
tội phạm.
VKS có vị trí rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa và là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong giai
đoạn điều tra, VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật các hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. VKS có trách nhiệm
áp dụng các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định nhằm đảm bảo các
hoạt động điều tra được tiến hành chính xác, nhanh chóng không để lọt tội
phạm và làm oan người vô tội.
Công tác kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra là công tác thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS nhằm kiểm sát việc tuân
thủ pháp luật trong hoạt động tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Đây là nhiệm vụ quan trọng của VKS, bởi vì biện pháp tạm giam là biện pháp
ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn được quy định
trong BLTTHS, có ảnh hưởng đến quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, việc
áp dụng biện pháp tạm giam vừa phải có tác dụng phục vụ giải quyết các vụ
án hình sự nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo cho người bị tạm giam có các
quyền và lợi ích hợp pháp không bị pháp luật tước bỏ được bảo vệ và tôn
trọng.


9

Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

của kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra của VKS có ý nghĩa quan
trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót hiện nay và nâng cao vai
trò của VKS trong kiểm sát tạm giam ở giai đoạn điều tra, bảo đảm quyền con
người và tính nghiêm minh của pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Trong
phạm vi bài viết, để phân tích các vấn đề kỹ lưỡng và sâu sắc hơn, chúng tôi
sẽ chỉ đề cập đến việc kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra của
VKSND.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát việc tạm giam trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự” để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Ngành kiểm sát nhân dân. Trong đó, công
tác kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một trong
những nội dung rất quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp nói chung,
đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng nên thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và chỉ đạo thực tiễn trong
và ngoài Ngành kiểm sát trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên
cứu ở các cấp độ khác nhau đề cập đến vấn đề này, nổi bật là:
- Sách chuyên khảo:
Hệ thống hóa các văn bản cần thiết cho công tác kiểm sát, tập II - Kiểm
sát giam, giữ, cải tạo của VKSND Tối cao, năm 1991; Tài liệu tập huấn công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù của VKSND Tối cao, năm 2008; Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005):
“Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn


10

điều tra”; Phạm Mạnh Hùng (2007): “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS

về quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự Việt Nam”…
- Các đề tài khoa học, chuyên đề của VKSND Tối cao:
Đề tài khoa học cấp Bộ: Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay của VKSND Tối cao, Th.s Ngô Quang Liễn làm
chủ nhiệm đề tài và các thành viên thực hiện, năm 2007; đề tài khoa học cấp
bộ: “Vai trò của VKS trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của bộ chính trị”, Viện
khoa học kiểm sát - VKSND Tối cao;…
- Luận văn thạc sỹ luật học:
Phạm Duy Trường: “Vai trò của VKS trong việc áp dụng biện pháp
tạm giam” (bảo vệ năm 2006); Nguyễn Vũ Quang: “Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của BLTTHS” (bảo vệ năm 2011); Bùi Ngọc Tú: “Nhiệm vụ
quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra” (bảo vệ năm 2013); Nguyễn Thị
Thu Phượng: “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ,
tạm giam” (bảo vệ năm 2013); Giáp Thị Nhung: “Nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” (bảo vệ năm 2015);…
- Các bài viết khác trên tạp chí chuyên ngành:
“Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chật lượng công tác kiểm
sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam” (Tạp chí Kiểm sát số 14/2012) của
tác giả Dương Ngọc An; “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về biện
pháp tạm giam” (Tạp chí Kiểm sát số 21/2012) của tác giả Trần Văn Độ;
“Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một
số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc
áp dụng biện pháp tạm giam” (Tạp chí Kiểm sát số 19/2012) của Tiến sỹ


11


Đỗ Văn Đương; “Tình trạng tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo khi đã hết
thời hạn tạm giam, tạm giữ, trách nhiệm thuộc về ai ?” (Tạp chí Tòa án
nhân dân số 7/2005) của tác giả Nguyễn Thị Mai,…
Những công trình nghiên cứu, bài viết, sách chuyên khảo, tài liệu
trên đã nghiên cứu về chức năng và hoạt động của VKSND nói chung,
một số công trình, bài viết nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong giai giai đoạn điều tra hoặc nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong kiểm sát các biện pháp ngăn chặn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
toàn diện hệ thống về hoạt động kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra
của VKSND. Luận văn này là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác kiểm sát
tạm giam trong giai đoạn điều tra hiện nay. Do vậy, không có bất kỳ một công
trình khoa học nào trùng lặp với đề tài luận văn mà tác giả chọn nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận của công tác kiểm sát tạm
giam trong giai đoạn điều tra; đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động quản
lý giam, giữ tại các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và thực trạng công tác kiểm
sát tạm giam trong giai đoạn điều tra của VKSND; chỉ ra những vướng mắc,
bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật; đề xuất, giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát tạm giam
trong giai đoạn điều tra của VKSND.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, các phương thức và các điều
kiện bảo đảm kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra.


12


- Khảo sát đánh giá thực trạng công tác tạm giam của Nhà tạm giữ, Trại
tạm giam trên cả nước và công tác kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra
của Ngành kiểm sát nhân dân trong thời gian 5 năm.
- Phân tích các quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND, các văn
bản pháp luật khác và thực tiễn công tác kiểm sát tạm giam trong giai đoạn
điều tra; nêu ra những điểm thuận lợi và khó khăn khi áp dụng các điều luật
cũng như vai trò của VKS trong lĩnh vực này.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả kiểm sát tạm giam trong giai đoạn điều tra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật hiện hành và
của các văn bản pháp luật sắp có hiệu lực thi hành; thực tiễn tạm giam và
kiểm sát chế độ tạm giam tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu của luận văn để làm rõ thực tiễn và
họat động kiểm sát việc tạm giam tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam của
VKSND trong khoảng thời gian 05 năm: Từ năm 2011 đến hết năm 2015 ở
phạm vi toàn quốc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa MácLê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan
quản lý giam giữ tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và công tác kiểm sát tạm
giam của VKSND.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ


13


thể như: phân tích, thống kê, lấy ý kiến chuyên gia, so sánh, tổng hợp, tổng
kết thực tiễn, dự báo,… phù hợp với yêu cầu của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, chức năng, nhiệm vụ của VKSND
tiến trình cải cách tư pháp và những đòi hỏi phải đảm bảo dân chủ, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đề tài tổng hợp một cách khoa học
đưa ra những nguyên nhân, tồn tại, vướng mắc trong công tác kiểm sát tạm
giam của VKSND. Đưa ra những giải pháp để xây dựng, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong công tác kiểm sát tạm giam theo
yêu cầu đổi mới hiện nay. Những kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động kiểm sát và ứng dụng trực tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Đề tài làm rõ lý luận về vị trí, vai trò của VKSND trong công
tác kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra, đề xuất những giải pháp,
kiến nghị trên cơ sở đúc kết thực tiễn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho quá trình sửa đổi, bổ sung một số quy định về tạm giam, Quy chế trại
giam, Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự,…
Về thực tiễn: Luận văn được sử dụng là một tài liệu tham khảo về kiến
thức chuyên sâu cho cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát việc
tạm giam và tất cả những ai quan tâm lĩnh vực này, cũng có thể nói rằng đây là
đề tài có giá trị như tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy đối với các
chức danh tư pháp nói chung và chức danh Kiểm sát viên nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
03 chương, 07 tiết.


14

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TẠM
GIAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn
và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Hoạt động tố tụng hình sự là một khái niệm chung của khoa học pháp lý,
dùng để chỉ những hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan và người tiến
hành tố tụng, các cơ quan được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động
tố tụng, các tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng, theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án1.
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia
thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết
những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ
thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm
vụ do pháp luật quy định.
BLTTHS năm 2003 chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành năm
giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án
hình sự; giai đoạn truy tố vụ án hình sự; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai

1 Lê Hữu Thể (chủ biên),Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006.


15


đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm
và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét
lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
BLTTHS năm 2015 chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn
giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án
hình sự; giai đoạn truy tố vụ án hình sự; giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Riêng
giai đoạn thi hành án hình sự đã được tách ra và điều chỉnh theo Luật thi hành
án hình sự năm 2010.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự được BLTTHS năm 2003 quy định trong 6 chương, từ Chương VIII
đến Chương XIII. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan
(người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về
việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự
tương ứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp
luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng
trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp
vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn
điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả
các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng,
đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng
không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể
từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu


16


trên thì Viện trưởng VKSND Tối cao có quyền gia hạn thêm khi thấy cần
thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức
tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSND Tối cao ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền có quyền áp dụng mọi biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để
chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên
quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với
các Cấp, các Ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên
được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn
của tố tụng hình sự trong đó CQĐT và các cơ quan khác được giao một số
hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy
định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những
vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án.
Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và
kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố hoặc ra quyết
định đình chỉ điều tra (trong những vụ án áp dụng thủ tục rút gọn, không làm
bản kết luận điều tra mà ra quyết định truy tố và gửi hồ sơ cho VKS).
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai
đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc
lập tiếp nối giữa giai đoạn khởi tố và giai đoạn truy tố, được bắt đầu bằng việc
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đây cũng là mốc
đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình tố tụng nhằm làm rõ một hay nhiều
tội phạm để xử lý theo pháp luật và kết thúc khi CQĐT hoặc một số cơ quan
có nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra ra Bản kết luận điều tra và Quyết



17

định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình
chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là phát hiện kịp
thời tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp điều tra theo quy
định của BLTTHS nhằm điều tra làm rõ, thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội; đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường
thiệt hại vật chất do người phạm tội gây ra.
Thứ ba, chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn này chủ yếu là CQĐT
và VKS. Ngoài ra còn một số cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, một số cơ quan khác trong Lực lượng
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân…được khởi tố bị can và điều tra những
tội phạm ít nghiêm trọng xảy ra trong lĩnh vực của mình quản lý hoặc ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự rồi chuyển đến VKS cùng cấp để quyết định
việc điều tra theo quy định.
Thứ tư, các biện pháp cưỡng chế tố tụng mà các cơ quan có thẩm quyền
được sử dụng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, ngoài việc áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn như một số giai đoạn khác còn có một
số biện pháp nhằm thu thập chứng cứ như khám xét, dẫn giải,…
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vấn đề áp dụng các biện pháp
ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam nói riêng là một trong những hoạt
động có ý nghĩa rất lớn. Nó chứa đựng cả mục đích ngăn chặn tội phạm,
không để người thực hiện hành vi phạm tội gây khó khăn cản trở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành bản án hình sự, đồng thời nó còn có tác
động ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của công dân2.

2 Dương Ngọc An (2012), “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chật lượng công
tác kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam”, Tạp chí Kiểm sát, (14)



18

BLTTHS năm 2003 mặc dù không đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn
chặn, nhưng theo quy định tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 đã quy định:
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị
cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội,
cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi
thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo qui định của Bộ
luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt
(bao gồm bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang,
bắt người bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam), tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm”.
Theo quy định của điều luật này, biện pháp ngăn chặn là một loại biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với
người bị nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo, người bị án khi các cơ quan
này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
giải quyết vụ án hình sự. Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất, gây tác động, ảnh hưởng nhất định đến các quyền và
lợi ích của đương sự, thậm chí hạn chế một số quyền, hạn chế tự do... đối với
người bị áp dụng.
Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo
có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải
quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp tạm
giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng
của cơ quan áp dụng. Việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra
tạo điều kiện thuận lợi cho CQĐT có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng
cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải
triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can
được chặt chẽ3.



19

Tạm giam theo từ điển Luật học năm 2006 là: Tạm giam là biện pháp
cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn
hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử
được thuận lợi, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền tự do thân thể của công dân.
Quy chế tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số
89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 và Nghị định 09/2011/ND-CP ngày
25/01/2011) (gọi tắt là Quy chế tạm giữ, tạm giam) đã đưa ra khái niệm tạm
giam như sau:
“Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do
CQĐT, VKS hoặc Tòa án áp dụng nhằm buộc những người có lệnh tạm giam
đang có hiệu lực pháp luật, phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất
định tại nhà tạm giữ hoặc trại tạm giam, để ngăn chặn hành vi phạm tội,
hành vi gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc đảm bảo thi
hành án phạt tù hoặc thi hành án tử hình”.
Như vậy tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất tạm thời tước bỏ tự do
của bị can, bị cáo trong một thời gian nhất định theo quy định của pháp luật.
Tạm giam không phải là hình phạt tù vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn
tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng theo quy
định. Còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước

3 Trần Thanh Thủy (2011), “Bàn về yêu cầu điều tra của VKS trong hoạt động kiểm sát
điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, (2).



20

do Tòa án áp dụng để trừng phạt người phạm tội cách ly họ ra khỏi đời sống
xã hội.
Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn
trong việc đấu tranh và phòng chống các loại tội phạm cũng như bảo đảm các
quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể:
Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố
tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng biện pháp tạm
giam sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững,
chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp
của công dân được tôn trọng.
Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng
các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, đảm
bảo không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện
pháp tạm giam không đúng pháp luật quy định, công dân có quyền khiếu nại
đến các chủ thể có thẩm quyền.
Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố
tụng, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các
đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài
liệu liên quan đến vụ án.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta. Đó là biện
pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích
hợp pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ
phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống,



21

học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt
hiệu quả cao nhất.
Ở nước ta, hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự được thực hiện
bởi các Kiểm sát viên - là người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự, trên
cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKS được ghi nhận trong Luật
tổ chức VKSND và BLTTHS. Vì vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự là
hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất là Quốc hội giao cho VKS nhằm bảo đảm Pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động tư pháp hình sự, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của
con người, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bản chất của kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp trong
hành vi của các chủ thể bị kiểm sát, do đó, chúng tôi đồng ý với quan điểm
cho rằng: “đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt
động tư pháp ở giai đoạn điều tra là hành vi xử sự của các CQĐT và các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra”4 [9]. Ngoài ra,
mối quan hệ giữa VKS cấp trên với các VKS cấp dưới không phải là quan hệ
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Đây chỉ là quan hệ quản lý trong chỉ đạo,
điều hành giữa cấp trên và cấp dưới. Do đó, VKS cấp trên không thể áp dụng
các quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với VKS cấp dưới như đối với
các chủ thể khác.
Về nguyên tắc, phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự bắt đầu
từ khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường hợp có thể được tiến hành
trước khi khởi tố: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi...) và kết
thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Còn phạm vi của kiểm sát
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi
4 Lê Hữu Thể (chủ biên), tldd chú thích 1.



22

tố và kết thúc khi VKS quyết định việc truy tố hoặc không truy tố người phạm
tội ra tòa, hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Từ những nội dung trình bày trên, theo chúng tôi, kiểm sát hoạt động tư
pháp hình sự là chức năng được Hiến pháp quy định cho cơ quan VKS, có nội
dung là giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được
giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, qua đó bảo đảm Pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con
người, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tương tự, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự là hoạt động của VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra
của CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm cho việc điều tra
được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật, qua đó bảo đảm pháp
chế chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, tôn trọng và bảo vệ các quyền
cơ bản của con người, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Kiểm sát việc tạm giam là một hoạt động của kiểm sát các hoạt động tư
pháp hình sự, một bộ phận trong những khâu công tác thực hiện chức năng
của VKS. Theo Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát (tập 5), xuất bản năm
2010 của Trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là trường Đại
học kiểm sát): Kiểm sát việc tạm giam là một trong các công tác thực hiện
chức năng của VKSND nhằm bảo đảm việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giam; bảo đảm việc tạm
giam theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc thực hiện các chế độ
đối với người bị tạm giam; bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm



23

của người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ
được tôn trọng5.
Theo quy định tại Điều 2 Quy chế số: 35/QĐ-VKSNDTC-V4 của
VKSND Tối cao ngày 29/01/2013 quy định về công tác kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (sau đây gọi là Quy chế kiểm sát) thì:
“Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giam là việc tuân theo pháp luật
của trại tạm giam; người có trách nhiệm trong việc tạm giam theo quy định
của pháp luật”.
Đặc trưng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác
tạm giam trong giai đoạn điều tra bao gồm:
Thứ nhất, kiểm sát trong việc tạm giam trong giai đoạn điều tra là một
hoạt động của những khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Ngành kiểm sát nhân dân. Có thể khẳng định rằng, qua các giai đoạn lịch sử
từ khi thành lập Ngành kiểm sát nhân dân đến nay, kiểm sát việc tạm giam là
công tác mang tính ổn định và không thể thiếu được trong hệ thống tổ chức và
hoạt động của VKSND các cấp.
Thứ hai, mục đích của kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra là
nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của cơ quan và người có
trách nhiệm trong việc tạm giam. Trên cơ sở đó để có những biện pháp nhằm
tiến tới loại trừ, hạn chế và khắc phục hành vi vi phạm pháp luật trong việc
tạm giam một cách kịp thời và có hiệu quả.
Thứ ba, là công tác giữ vai trò và vị trí quan trọng trong bảo đảm việc
tạm giam trong giai đoạn điều tra phải có căn cứ; việc giam giữ phải có lệnh
đúng thẩm quyền và đúng thời hạn; bảo đảm đúng chế độ tạm giam và trật tự
nơi giam giữ; bảo đảm cho việc người bị tạm giam không bị bức cung, nhục
5 Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học kiểm sát) (2011), Tập bài

giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, Hà Nội.


24

hình trong quá trình điều tra; bảo đảm các quyền không bị pháp luật tước bỏ
của người bị tạm giam được tôn trọng, bảo đảm nhân quyền.
Thứ tư, kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra có thể sử dụng
nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau như kiểm sát thường kỳ theo quy định
của pháp luật, kiểm sát bất thường khi phát hiện có vi phạm pháp luật xảy ra
nơi giam giữ (phạm tội mới, chết bất thường,…), yêu cầu cơ quan quản lý
giam giữ và người có trách nhiệm tự kiểm tra và thông báo kết quả.
Thứ năm, thông qua công tác kiểm sát việc tạm giam, VKS có quyền ra
quyết định và trả tự do ngay cho người bị tạm giam không có căn cứ và trái
pháp luật theo quy định tại Khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Thứ sáu, kịp thời phát hiện và xử lý oan, sai khi kiểm sát việc tạm giam
trong giai đoạn điều tra, có trách nhiệm tiếp nhận kịp thời các trường hợp có
dấu hiệu oan, sai đến cơ quan có trách nhiệm xem xét giải quyết theo thẩm
quyền.
Cuối cùng là khi tác nghiệp kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều
tra phát hiện có dấu hiệu tội phạm thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp trong quản lý giam
giữ thì Kiểm sát viên có trách nhiệm ghi lại đầy đủ các tình tiết có liên quan
đến hành vi vi phạm pháp luật, có thể chụp ảnh hiện trường nơi xảy ra sự
việc, xem xét các dấu vết, lấy lời khai hoặc ghi âm lời khai của người bị hại,
những người có liên quan, báo cáo CQĐT của VKSND Tối cao để xem xét,
kiểm tra xác minh và quyết định việc khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: “Kiểm sát tạm giam trong giai đoạn
điều tra là chức năng được pháp luật quy định cho cơ quan VKSND được
giám sát mọi hoạt động của cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm

giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nhằm đảm bảo pháp chế xã hội


25

chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm”.
1.2. Cơ sở của việc kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều tra
1.2.1. Cơ sở lý luận
Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật và hiệu quả, ngoài
việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các cơ quan tư
pháp, Hiến pháp và các đạo luật đã quy định cơ chế giám sát và quy định các
cơ quan tư pháp phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và cơ
quan được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất có quyền lập hiến, thực hiện quyền lập pháp và phân công quyền lực
nhà nước. Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, Quốc hội chỉ trực tiếp
thực hiện quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà Quốc hội thấy
cần thiết nhất, quan trọng nhất (như hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác
của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, VKSND Tối cao trong việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, trong các hoạt động thực tiễn về tổ chức và thực
hiện Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội, về năng lực, trình độ và
trách nhiệm của những người do Quốc hội bầu và phê chuẩn bằng các phương
thức giám sát do luật xác định được tiến hành tại các kỳ họp của Quốc hội).
Thực tế cho thấy, từ khi có Hiến pháp năm 1959 đến nay, Quốc hội
không thể và không cần thiết phải tự mình trực tiếp giám sát toàn bộ hoạt
động của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội đã giao cho
VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà

nước, tổ chức xã hội và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho
(quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế,


×