Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.59 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

VŨ NGỌC HUY

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH
CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

VŨ NGỌC HUY

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH
CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số



: 60.38.01.03

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI -2017

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Huy


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS


: Bộ Luật Tố tụng dân sự

BLHS

: Bộ Luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ Luật Tố tụng hình sự

HN & GĐ

: Hôn nhân và gia đình

ICSI

: Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương ứng

IUI

: Cấy tinh trùng vào tử cung

IVF

: Thụ tinh trong ống nghiệm

TAND

: Tòa án nhân dân


TTTON

: Thụ tinh trong ống nghiệm

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1...................................................................................................... 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG
TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN ... 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con ................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ................... 7
1.1.3. Khái niệm xác định cha, mẹ, con ................................................ 9
1.1.4. Sơ lƣợc về sự phát triển của phƣơng pháp hỗ trợ sinh sản ... 12
1.2. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiêu biểu ....................................... 15
1.2.1. Thụ tinh nhân tạo (IUI) ............................................................. 15
1.2.2. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ............................................. 16
1.2.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ......................................... 16
1.3. Điều kiện áp dụng phƣơng pháp hỗ trợ sinh sản .......................... 17
1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh ..................................................... 17
1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân ............................................................ 18
1.3.3. Ngƣời gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng ...................... 19
1.3.4. Ngƣời nhận tinh trùng ............................................................... 22
1.3.5. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ........................ 23
1.4. Ý nghĩa việc xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản................................................................................................. 25
1.4.1. Ý nghĩa về mặt xã hội................................................................. 25
1.4.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý .............................................................. 28
1.5. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản ................................................................................. 30
1.5.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh ........ 30


1.5.2. Căn cứ vào sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh hoặc ngƣời
phụ nữ độc thân, của ngƣời cho và nhận noãn, cho và nhận tinh
trùng, cho và nhận phôi ........................................................................ 31
1.5.3. Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ ........................................................ 33
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 36
NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XÁC ĐỊNH
CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN ...................................................................... 36
2.1. Xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp ngƣời vợ trong cặp vợ
chồng vô sinh và ngƣời phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản. ...................................................................................................... 36
2.1.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh ....................................................... 36
2.1.2. Đối với người phụ nữ độc thân ..................................................... 40
2.2. Xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo ..................................................................................................... 43
2.3. Xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp vợ chồng vô sinh sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh
trùng ........................................................................................................... 44
2.3.1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng ........................................... 44
2.3.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản với tinh trùng của người hiến .................................................... 45

2.4. Thủ tục xác định cha, mẹ cho con trong trƣờng hợp áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản ................................................................................. 45
2.4.1. Thủ tục hành chính ........................................................................ 45
2.4.2. Thủ tục tư pháp ............................................................................. 50


2.5. Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc xác định cha, mẹ cho con
trong trƣờng hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .............................. 52
CHƢƠNG 3.................................................................................................... 54
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ VIỆC
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH BẰNG KỸ
THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN ...................................................................... 54
3.1. Thực trạng việc xác định cha, mẹ cho con trong trƣờng hợp sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ........................................................... 54
3.1.1. Thực trạng xã hội .......................................................................... 54
3.1.2. Những điểm tích cực và hạn chế còn tồn tại của quy định về xác
định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản

...................................................................................................... 55

3.1.2.1. Những điểm tích cực của quy định về xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ....................... 55
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xác
định cha, mẹ cho con trong trƣờng hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản ............................................................................................................ 59
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con trong trường
hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ...................................................... 59
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc xác định cha, mẹ cho con trong
trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản .......................................... 62

KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Luật Hôn nhân và gia đình là một văn bản luật quan trọng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, quy định về chế độ hôn nhân và gia đình, đó là
toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia
đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình còn quy định về chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và
gia đình Việt Nam.
Nếu quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ pháp lý hôn nhân thì quan hệ
giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc
như một lẽ tự nhiên nhưng đầy ý thức trách nhiệm. Tuy nhiên, có một thực tế
đó là tỷ lệ vô sinh ở các cặp vợ chồng đang có xu hướng tăng cao làm ảnh
hưởng đến quyền được làm cha làm mẹ một cách bình thường của các cặp vợ
chồng. Do đó, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang ngày càng phổ biến
và mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có thể thấy, sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản là vấn đề khá phức tạp, nhất là việc xác định cha, mẹ, con bởi nó
làm thay đổi những quan niệm truyền thống về mặt huyết thống giữa cha mẹ
và con. Quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa
nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân
thân giữa cha, mẹ và con, nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa cha, mẹ và con,
về thừa kế tài sản…Bên cạnh đó quan hệ cha, mẹ, con là điều kiện phát sinh

nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và của con đối với cha, mẹ.


2
Đồng thời khi có tranh chấp xảy ra giữa các thành viên trong gia đình thì mối
quan hệ này sẽ là cơ sở để giải quyết nhanh chóng và kịp thời.
Đối với xã hội, việc xác định cha, mẹ, con sẽ tạo lập được đơn vị là gia
đình, gia đình là cơ sở, là tế bào của xã hội, gia đình có vai trò sản xuất ra con
người duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức lao động bằng việc nuôi dưỡng,
chăm sóc sức khỏe cho các thành viên, đồng thời giáo dục xã hội hóa con
người. Cá nhân là thành viên của gia đình đồng thời là công dân của xã hội, vì
vậy mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp và phát
triển mọi mặt.
Hiện nay, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được áp dụng ở rất
nhiều nước trên thế giới và ở cả Việt Nam. Thực tế cho thấy sinh con theo
phương pháp này có rất nhiều ưu điểm vượt bậc, nhưng bên cạnh đó cũng có
không ít những khó khăn khi thực hiện. Vì vậy, cần có những văn bản pháp lý
quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về vấn đề này. Đặc biệt, khi tranh chấp
phát sinh trong xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của
đứa trẻ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều
thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên
quan.
Từ những bất cập của pháp luật và thực tiễn của cuộc sống cần phải
nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc về vấn đề này để từ đó xây
dựng hành lang pháp lý vững chắc làm cơ sở giải quyết tranh chấp tranh chấp
phát sinh. Đó chính là lý do để tôi lựa chọn đề tài “ Xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt
Nam”.



3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản không phải là một vấn đề mới. Với sự ra đời của ba em bé thụ tinh
trong ống nghiệm ở Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ năm 1998, pháp luật Việt Nam
lần đầu tiên đề cập đến vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại
khoản 2 Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 với thuật ngữ sinh con theo phương
pháp khoa học. Kể từ năm 2000 đến nay, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau: Nghị định số
12/2003/NĐ-CP,

Nghị

định

số

10/2015/NĐ-CP,

Thông



số

07/2003/TTBYT, Thông tư số 12/2012/TT-BYT, Thông tư số 57/2015/TTBYT, Luật Hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006,
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Tuy nhiên số lượng bài viết, công trình
nghiên cứu dưới góc độ pháp luật có liên quan đến xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là không nhiều. Bài

viết “Sinh con theo phương pháp khoa học và một số vấn đề pháp lí có liên
quan”, của TS. Nguyễn Thị Lan, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2/2003, là
một trong những bài đầu tiên đề cập tới vấn đề này. Bài viết đã đề cập tới
nhiều khía cạnh pháp lý như phân tích điều kiện cho và nhận tinh trùng,
quyền làm cha, làm mẹ đối với đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp khoa
học, cũng như các xác định quan hệ cha, mẹ, con và những bất cập trong quy
định này…Có thể thấy đây là bài viết điển hình đầu tiên đề cập đến những
vấn đề có liên quan đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản một cách khái
quát nhất, toàn diện nhất dưới góc độ pháp lý. Cho đến thời gian gần đây khi
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định chi tiết cụ thể hơn về vấn
đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản so với quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực bãi
bỏ Nghị định số 12/2003/NĐ-CP đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên


4
cứu về những thay đổi, bổ sung trong quy định của pháp luật về sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các bài viết này chủ yếu tập trung vào vấn đề mang
thai hộ, ít đề cập đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
3. Mục đích nghiên cứu
 Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu phân tích và làm rõ nội dung quy định về vấn đề
xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
đã cụ thể và sát thực tiễn hay chưa?. Qua đó đánh giá khả năng áp dụng quy
định đã nêu vào thực tiễn.
 Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu nghiên cứu tổng quát như vậy, mục tiêu cụ thể nghiên cứu
được xác định những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận khái quát chung về vấn đề xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật về vấn đề xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Thực trạng ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề có thể phát sinh trong
thực tiễn.
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo
pháp luật Việt Nam, thực trạng của vấn đề, những bất cập và thách thức đặt
ra.
- Phạm vi nghiên cứu:


5
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 và một số văn bản khác hướng dẫn có liên quan về xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, liệt kê, tổng
hợp dựa trên nền tảng là phương pháp luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
phép biện chứng duy vật để làm rõ đối tượng nghiên cứu đã đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xác định cha, mẹ cho con trong trường
hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Chương 2: Nội dung quy định pháp luật hiện hành về xác định cha mẹ cho
con trong trường hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Chương 3: Thực trạng và kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả việc xác định cha,
mẹ cho con trong trường hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.



6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG
TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN
1.1.

Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con
Khái niệm cha, mẹ, con được nghiên cứu dưới hai góc độ: góc độ sinh
học-xã hội và góc độ pháp lý:
Dưới góc độ sinh học – xã hội, cha, mẹ, con là những khái niệm luôn
tồn tại cùng nhau, có mối liên quan không thể tách rời. Mối quan hệ giữa cha
mẹ đẻ và con đẻ luôn gắn liền với quá trình sinh đẻ, từ việc thụ thai, mang
thai và sinh con. Về nguyên tắc, cha đẻ, mẹ đẻ phải đảm bảo hai yếu tố: thứ
nhất, có quan hệ huyết thống trực hệ với người con; thứ hai, phải mang huyết
thống, mã gen của cha mẹ; thứ ba, mẹ trực tiếp sinh ra. Tuy nhiên, trong
trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học thì yếu tố thứ nhất (mang
huyết thống) có thể sẽ không được đảm bảo nếu việc sinh con theo phương
pháp khoa học có sự tham gia của người thứ ba (người cho tinh trùng, cho
trứng, cho phôi). Vì vậy, dưới góc độ sinh học – xã hội, cha, mẹ đẻ, trong
quan hệ với con, là ngƣời trực tiếp sinh ra con, có thể có hoặc không có
quan hệ huyết thống với ngƣời con; Con đẻ, trong quan hệ với cha mẹ, là
ngƣời đƣợc cha mẹ trực tiếp sinh ra, có thể có hoặc không có quan hệ
huyết thống với cha, mẹ.
Dưới góc độ pháp lý, tư cách là cha, mẹ, là con chỉ được chính thức
thừa nhận thông qua những thủ tục pháp lý nhất định. Vậy, cha, mẹ đẻ trong
mối quan hệ với con, là ngƣời trực tiếp sinh ra ngƣời con, có quyền và

nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ, trong mối quan hệ với cha


7
mẹ, là ngƣời đƣợc cha, mẹ sinh ra, có quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “con” còn được nghiên cứu với tư
cách là con trong giá thú, con ngoài giá thú, con chung, con riêng. Từ đó, là
cơ sở cho việc xác định cha, mẹ, con1.
1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, trước hết cần xem xét một số khái niệm
được quy định tại Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo:
-Noãn là giao tử của nữ.
-Tinh trùng là giao tử của nam.
-Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
-Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống
nghiệm để tạo thành phôi.
Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể được xem xét
dưới hai góc độ:
-Dưới góc độ y học:
Theo định nghĩa từ Đạo luật về Chứng chỉ và Mức thành công của các
phòng Y tế Hỗ trợ sinh sản (Hoa Kỳ), từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh:
Assisted Reproductive Technology A.R.T) bao gồm tất cả các phương pháp
chữa trị chứng vô sinh trong đó có cả trứng lẫn tinh trùng đều được sử dụng2.
Bên cạnh đó, còn có một số định nghĩa khác về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
như:

1


Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.20.

2

/>

8
+ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là những kỹ thuật kết hợp giữa y học và sinh
học, can thiệp vào các bước trong sinh lý sinh sản tự nhiên nhằm giúp làm
tăng khả năng sinh sản3.
+ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là các phương pháp giúp đỡ và điều trị cho các
cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh bằng các thủ thuật y học với sự can thiệp
của cơ sở y tế có thẩm quyền.
Trong đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP
“Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục
trung bình 2-3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn
không có thai”.
Tuy nhiên, hiện nay, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn được sử dụng để
giúp những người phụ nữ sống độc thân, mong muốn có con mà không thuộc
trường hợp hiếm muộn hay vô sinh. Vì thế, các định nghĩa trên vẫn còn tồn tại
thiếu sót.
Nói tóm lại, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con
thông qua biện pháp áp dụng những kỹ thuật y sinh học bởi các cơ quan y tế
có thẩm quyền để giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn – vô sinh hoặc những
người phụ nữ sống độc thân thực hiện được mong muốn có con của mình.
-Dưới góc độ pháp lý:
Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại
Khoản 21 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014:
“Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ

tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Có thể thấy, thông qua việc sử dụng phương pháp liệt kê, quy định này
chưa làm rõ được thế nào là “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” cũng

3

Drtuong.wordpress.com/2009/11/21/art/


9
như không thể hiện được đặc trưng của phương pháp này, đồng thời có thể
dẫn đến những thiếu sót trong tương lai.
Thực chất, khi nói đến sinh con theo phương pháp khoa học thì cũng
được hiểu là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vì thế, khái niệm trên về
cơ bản đã làm rõ được thế nào là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Tóm lại, dưới góc độ pháp lý, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có
thể được định nghĩa như sau:
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con có sự can thiệp
của các kỹ thuật y sinh học công nghệ cao trong trường hợp quá trình mang
thai tự nhiên của con người bị hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau,
được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
1.1.3. Khái niệm xác định cha, mẹ, con
Khái niệm xác định cha, mẹ cho con theo từ điển Luật học được hiểu
là: “Định rõ một người là cha hoặc một người là mẹ cho con trên cơ sở các
quy định của pháp luật”, ngoài ra còn có khái niệm xác định con cho cha, mẹ
là “Định rõ một người là con của cha hoặc của mẹ trên cơ sở các quy định
của pháp luật. Tuy vậy, mối quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ hai
chiều và không thể tách rời, xác định cha, mẹ cho con cũng chính là xác định
con cho cha, mẹ sau khi xác định được ai là cha, mẹ hoặc ai là con cũng sẽ

phát sinh những quyền và nghĩa vụ theo pháp luật như nhau. Suy cho cùng
xác định cha, mẹ, con là việc xác nhận mối quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ,
con. Quan hệ huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con mà còn
là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị văn hóa tinh
thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ.


10
Chính vì vậy, việc tách riêng thành hai khái niệm là không cần thiết mà
chỉ cần nêu khái niệm chung về việc xác định cha, mẹ, con mà thôi. Sau đây
là những khái niệm khái quát về vấn đề này:
- Trong từ điển Tiếng Việt:
“Xác định” theo từ điển Tiếng Việt là “qua nghiên cứu, tìm tòi, biết được rõ
ràng, chính xác”, vậy xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu, tìm tòi để
tìm ra nguồn gốc của một con người một cách rõ ràng và chính xác.
-

Dưới góc độ sinh học – xã hội: Xác định cha, mẹ, con là việc nghiên

cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp
nhau thông qua sự kiện sinh đẻ4.
-

Dưới góc độ pháp lý:

+ Với tư cách là một sự kiện pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là sự kiện pháp
lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con về mặt huyết
thống5. Sự kiện sinh đẻ là hành vi sinh con của người phụ nữ và hành vi này
phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế phát triển tự nhiên của bào thai, nhiều khi nằm
ngoài sự kiểm soát của người mẹ, vì vậy, sự kiện sinh đẻ là sự biến pháp lý

tương đối. Tuy nhiên, sự kiện sinh đẻ chỉ là một trong những sự kiện để xác
định tư cách cha, mẹ, con. Sự kiện sinh đẻ phải đi liền với một loạt các hành
vi pháp lý khác mới đủ cơ sở để xác định quan hệ pháp luật giữa cha mẹ con
hành vi đăng ký khai sinh, một quyết định hay một bản án có hiệu lực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc xác định tư cách cha, mẹ, con.
+ Với tư cách là một quan hệ pháp luật: Xác định cha, mẹ, con là các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tƣ cách cha, mẹ,
con về mặt huyết thống của các chủ thể đƣợc các quy phạm pháp luật
điều chỉnh6. Căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật, việc xác định cha,
4

Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.20.
Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.23.
6
Nguyễn Thị Lan (2008), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.26.
5


11
mẹ, con bao gồm quan hệ vật chất và quan hệ hình thức; căn cứ vào ý chí của
các chủ thể, việc xác định cha, mẹ, con bao gồm quan hệ tự nguyện nhận cha,
mẹ, con được tiến hành tại cơ quan hành chính nhà nước (UBND) và quan hệ
tranh chấp xác định cha, mẹ, con được tiến hành tại cơ quan tư pháp (TAND);
căn cứ vào hôn nhân của cha, mẹ việc xác định cha, mẹ, con bao gồm quan hệ
xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp và quan hệ xác định
cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp. Ở mỗi cách phân loại,
mối quan hệ về xác định cha, mẹ, con đều có những điểm tương đồng và khác
biệt nhất định. Mỗi chủ thể, tùy theo tư cách của mình trong mối quan hệ, có
quyền và nghĩa vụ nhất định để nhận diện đúng tư cách cha, mẹ, con.
+ Với tư cách là một chế định pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là tổng hợp

các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành, quy định về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, căn cứ và thủ tục pháp lý nhằm nhận diện một
ngƣời cha, một ngƣời mẹ, một ngƣời con có mối quan hệ huyết thống
trực hệ7. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con luôn
qui định quyền và nghĩa vụ tương ứng giữa các chủ thể, đảm bảo quyền xác
định cha, mẹ, con cho mỗi chủ thể, cũng như qui định nghĩa vụ của các chủ
thể phải tôn trọng quyền xác định cha, mẹ, con của người khác; các qui phạm
điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con thường gắn bó mật thiết với qui phạm
đạo đức, phong tục tập quán. Các qui phạm này thường không có chế tài kèm
theo mà luôn hướng tới sự tự giác, tự nguyện nhận cha, mẹ, con của các chủ
thể. Các chủ thể trong việc xác định cha, mẹ, con không được phép tự thỏa
thuận để làm hay thay đổi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã qui
định. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong việc xác định cha, mẹ,

7

Nguyễn Thị Lan (2008), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.39.


12
con các chủ thể luôn phải hướng tới vì lợi ích chung của gia đình, đảm bảo
việc xác định cha, mẹ, con theo đúng nghĩa của nó.
1.1.4. Sơ lƣợc về sự phát triển của phƣơng pháp hỗ trợ sinh sản
 Trên thế giới
Lần đầu tiên vào năm 1959, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo giữa trứng và
tinh trùng thỏ được thực hiện trong môi trường ống nghiệm, từ đó tới nay, các
nhà khoa học không ngừng nghiên cứu tìm kiếm những phương pháp mới cho
việc điều trị vô sinh ở người. IVF và ICSI là những kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ
thụ tinh trong điều kiện hiếm muộn đã được báo cáo thành công trên thế giới
từ những năm 1978 và 1992, cho tới nay đã có hơn một triệu em bé ra đời từ

những kỹ thuật trên.
Năm 1978, em bé đầu tiên từ thụ tinh trong ống nghiệm, Louis Brown
ra đời đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm.
Sau đó, hai trường hợp khác từ TTTON cũng đã được báo cáo tại Anh. Sau
đó, chương trình này tại Anh bị gián đoạn trong 2 năm.
Năm 1980, em bé TTTON thứ tư trên thế giwosi được sinh ra tại Úc.
Trung tâm Monash ở Úc được ghi nhận là nơi thứ hai trên thế giới thực hiện
thành công TTTON. Trung tâm này sau đó liên tục báo cáo các trường hợp
sinh sau TTTON. Do trung tâm TTTON đầu tiền ở Anh tạm ngừng hoạt động
sau 3 trường hợp sinh đầu tiên, người ta ghi nhận rằng 12 trong số 15 em bé
TTTON đầu tiên trên thế giới được ra đời từ trung tâm Monash ở Úc.
Năm 1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời. Đây cũng là trường
hợp TTTON đầu tiên sử dụng phương pháp kích thích buồng trứng.
Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật TTTON đã phát triển rất mạnh
và lần lượt được báo cáo thành công tại nhiều nước trên thế giới, kể cả Châu
Á. Trong đó, Singapore được ghi nhận là nơi thực hiện thành công TTTON


13
đầu tiên ở Châu Á vào năm 1983 bởi nhóm nghiên cứu của SC Ng và cộng
sự.
Năm 1984, kỹ thuật chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT) được báo cáo
thành công tại Mỹ.
Năm 1984, em bé đầu tiên ra đời từ trường hợp một phụ nữ không còn
buồng trứng, thực hiện xin trứng TTTON tại Úc.
Năm 1984, có báo cáo trường hợp có thai từ trứng người sau đông lạnh
và rã đông tại Úc. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công được báo cáo rất thấp.
Năm 1988, trường hợp tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt
(SUZI) được báo cáo thành công lần đầu tiên tại Singapore.
Năm 1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) để hỗ trợ thụ

tinh được giới thiệu ở Mỹ bởi Cohen.
Năm 1992, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được báo cáo
thành công lần đầu tiên tại Bỉ bởi Palemo và cộng sự.
Năm 1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong
ống nghiệm được báo cáo tại Úc.
Năm 1994, các trường hợp hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu và
tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được giới thiệu.
Năm 1995, kỹ thuật phân lập tinh trùng từ tinh hoàn ở những trường
hợp giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được
báo cáo thành công.
Năm 1997, trường hợp có thai ở phụ nữ 63 tuổi với kỹ thuật xin trứng
TTTON được báo cáo.
Năm 1997, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng trữ lạnh và rã đông của
Mỹ được báo cáo 11 năm sau trường hợp đầu tiên trên thế giới được báo cáo.


14
Năm 2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng được báo cáo, cải
thiện đáng kể tỷ lệ thành công. Đồng thời, những trường hợp sinh đầu tiên từ
cả trứng và tinh trùng đông lạnh được báo cáo tại Ý.
 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bắt đầu được triển khai từ năm
1995 và đặc biệt kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được triển khai thành
công từ năm 1998. Đi sau thế giới khoảng 20 năm, nhưng kỹ thuật này đã
nhanh chóng phát triển và có những bước tiến vượt bậc. Tính đến năm 2016
đã có 23 trung tâm hỗ trợ sinh sản được thành lập, tập trung chủ yếu ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở miền Trung, một trung tâm ở Bệnh viện Phụ
sản Thanh Hóa, một ở Bệnh viện Trung ương Huế, một ở Bệnh viện Đại học
Y – Dược Huế và IVF Đà Nẵng. Đặc biệt, Việt Nam được xem là nước thực
hiện số chu kỳ hỗ trợ sinh sản nhiều nhất khu vực Đông Nam Á. Với Phương

pháp này, các cặp vợ chồng hiếm muộn càng có thêm nhiều hy vọng để có
con8.
Sự kiện
Thực hiện thành công trữ lạnh
tinh trùng người
Thực hiện thành công kỹ thuật
IUI với tinh trùng lọc rửa
Thực hiện thành công kỹ thuật
TTTON đầu tiên
Các trường hợp TTTON đầu tiên
ra đời

8

Theo VnExpress Sức khỏe

Năm

Nơi thực
hiện

Thế giới

1995

BV Từ Dũ

1964

1995


BV Từ Dũ

1970

1997

BV Từ Dũ

1971

1998

BV Từ Dũ

1978


15
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
ICSI
Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ
TTTON sử dụng rec.FSH
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
cho trứng – TTTON
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
TTTON-mang thai hộ
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
giảm thai sau TTTON
Thực hiện thành công trữ lạnh

phôi người
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
MESA – ICSI
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật
PESA – ICSI
Em bé đầu tiên ra đời từ phôi
đông lạnh
Em bé TTTON thứ 1000 tại BV
Từ Dũ

1999

BV Từ Dũ

1993

2000

BV Từ Dũ

1995

2000

BV Từ Dũ

1984

2001


BV Từ Dũ

1984

2001

BV Từ Dũ

1999

2002

BV Từ Dũ

1983

2003

BV Từ Dũ

1995

2003

BV Từ Dũ

1995

2003


BV Từ Dũ

1984

2003

BV Từ Dũ

1984

2003

BV Từ Dũ

2001

Thai lâm sàng đầu tiên từ cả
trứng và tinh trùng người đông
lạnh
1.2. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiêu biểu
1.2.1. Thụ tinh nhân tạo (IUI)


16
Thụ tinh nhân tạo là phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung
được tiến hành bằng cách chọn lọc tinh trùng khỏe nhất của người chồng, sau
đó bơm vào buồng tử cung của người vợ ở thời điểm rụng trứng. Phương
pháp này nhằm giúp tăng khả năng đậu thai cho những cặp vợ chồng bị hiếm
muộn do tinh trùng yếu, ít; cổ tử cung yếu; lạc nội mạc tử cung nhẹ… hoặc vô
sinh hiếm muộn không rõ nguyên nhân.

1.2.2. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)
Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong
ống nghiệm để tạo thành phôi (Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐCP). Hay nói cách khác, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là phương
pháp mà trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người
phụ nữ. Đây là phương pháp điều trị hiếm muộn trong các trường hợp: Tắc
nghẽn ống dẫn trứng; lạc nội mạc tử cung; tinh trùng ít, yếu, dị dạng; xin
trứng;…Đây cũng là biện pháp được nhiều cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc
thân tìm đến và mang lại hiệu quả tương đối cao. Quá trình thụ tinh của trứng
và tinh trùng được xảy ra hoàn toàn bên ngoài cơ thể con người, chỉ sau khi
đã tạo thành hợp tử (phôi thai) có từ 4 tới 8 tế bào mới được đưa vào buồng tử
cung của nữ giới bằng những kỹ thuật đặc biệt của bác sỹ chuyên khoa và
trang thiết bị y tế. Trong một lần thụ tinh người ta có thể tạo ra nhiều phôi thai
và cấy cùng lúc vào buồng tử cung để tăng khả năng làm tổ của phôi tại bộ
phận này, có thể trong nhiều phôi được cấy chỉ có 1 phôi có thể làm tổ nhưng
có những trường hợp có nhiều phôi có thể làm tổ và gây ra tình trạng đa thai.
Ngày nay, với công nghệ tiên tiến, tỷ lệ mang thai của người được thụ
tinh trong ống nghiệm đã được nâng lên đáng kể so với trước đây.
1.2.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Theo Luật HN&GĐ năm 2014 hiện hành thì mang thai hộ là việc một
người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho


17
cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng
của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của
người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo khác với mang thai hộ vì mục đích thương mại,
pháp luật chỉ thừa nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Theo đó, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con có

quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận
của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh
con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có
con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Luật được thông qua dựa
trên nguyên tắc “người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để
ngăn ngừa tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ”. Theo đó, người
được nhờ mang thai hộ phải có đủ 5 điều kiện: Là người thân thích cùng hàng
của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được
mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có
thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ
có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng và đã được tư
vấn về y tế, pháp lý, tâm lý9.
1.3. Điều kiện áp dụng phƣơng pháp hỗ trợ sinh sản
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Cặp vợ chồng
vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có
quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”.
1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh

9

/>

18
Khái niệm “vô sinh” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị
định số 10/2015/NĐ-CP, là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có
quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh
thai mà người vợ vẫn không có thai”. Các nguyên nhân dẫn đến vô sinh có
thể xuất phát từ người đàn ông và cũng có thể xuất phát từ người phụ nữ. Ở
nam giới thường do tinh trùng chất lượng kém hoặc có số lượng ít. Sự di

chuyển của tinh trùng bị hạn chế, đường dẫn ống tinh trùng từ tinh hoàn ra túi
tinh hoàn bị tắc, niệu đạo không thông ra ngoài ở đầu dương vật nên khó đi
vào lỗ tử cung. Ở nữ giới có thể do, ống dẫn trứng bị tắc, viêm phần phụ, lạc
nội mạc tử cung. Hoặc rối loạn hóc môn khiến trứng khó rụng thường xuyên,
tử cung bị dị tật có u xơ, chất dịch cổ tử cung hoặc độ axit âm đạo bất thường,
cản trở tinh trùng từ âm đạo vào tử cung.
Trong trường hợp cả tinh trùng và noãn của cặp vợ chồng vô sinh đều
đảm bảo để tạo thành phôi nhưng do bệnh tập hoặc khuyết tập về mặt sinh
học mà không thể tự thụ thai được thì cho thủ tinh nhân tạo hoặc thủ tinh
trong ống nghiệm rồi cấy phôi cho người vợ là phù hợp, vì đó là gen của họ
nên con sinh ra là con của họ không có vấn đề gì phức tạp. Theo Bộ Y tế, hiện
nay ở Việt Nam có khoảng 7,7% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản, tương
đương với hơn 1 triệu cặp vợ chồng gặp phải các vấn đề về vô sinh, hiếm
muộn. Trong đó, 40% là do nam giới, 40% do nữ giới còn lại chưa rõ nguyên
nhân10.
1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân
Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, quy định: “Phụ nữ độc
thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp
luật”. Nghĩa là, tại thời điểm đó, người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân
với bất kỳ ai. Người phụ nữ độc thân có thể nhận tinh trùng của người đàn
10

/>

×