Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn tại các doanh nghiệp hiện nay và liên hệ thực tiễn tại công ty cổ phần FPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.5 KB, 35 trang )

Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

MỤC LỤC
I. Khái quát về các nguồn tài trợ dài hạn........................................................................1
1.1. Phát hành cổ phiếu thường...................................................................................1
1.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi....................................................................................4
1.3. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp.......................................................................5
1.4. Thuê tài chính......................................................................................................9
1.5. Vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian.........................12
II. Thực trạng việc quản trị các nguồn tài trợ dài hạn tại các doanh nghiệp hiện nay........13
2.1 Sự cần thiết của việc huy động nguồn tài trợ trong doanh nghiệp VN hiện nay..13
2.2. Cách thức huy động nguồn tài trợ dài hạn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay............................................................................................................................14
2.3. Hiệu quả sử dụng các nguồn tài trợ dài hạn tại các doanh nghiệp Việt Nam......26
III. Giải pháp đối với quản trị nguồn tài trợ dài hạn tại các doanh nghiệp hiện nay.....28
3.1. Giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp........................................................28
3.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài trợ...........................................................33
BIÊN BẢN HỌP NHÓM.............................................................................................35

1
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn


I. Khái quát về các nguồn tài trợ dài hạn
1.1. Phát hành cổ phiếu thường
1.1.1. Khái niệm và các hình thức phát hành cổ phiếu thường
Khái niệm
Đối với công ty cổ phần, Cổ phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ
phần. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu
cổ phần gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận quyền sở
hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần.
Hay nói cách khác, cổ phiếu thường là phương tiện để hình thành vốn chủ sở
hữu ban đầu của công ty và cũng là một phương tiện để huy động thêm vốn chủ sở hữu
trong quá trình kinh doanh. Cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn.
Các hình thức phát hành cổ phiếu thường
Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên cho các cổ đông hiện hữu
(quyền mua cổ phiếu mới hay chứng quyền): Đây là hình thức phổ biến dược các công
ty cổ phần sử dụng khi quyết định tăng thêm vốn chủ sở hữu. Cách phát hành này
nhằm bảo vệ cho các cổ đông hiện hành. Được thể hiện ở chỗ:
- Bảo vệ quyền kiểm soát của các cổ đông hiện hành. Việc dành quyền ưu tiên
mua giúp họ duy trì và giữ vững tỉ lệ sở hữu hiện hành tại công ty
- Bảo vệ cho cổ đông tránh sự thiệt hại về sự sụt giá của cổ phiếu trên thị trường
khi phát hành cổ phiếu mới.
Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cổ phiếu cho những người có quan
hệ mật thiết với công ty (người quản lý, người lao động, các đối tác, …)
Cách phát hành này một mặt giúp công ty tăng được vốn kinh doanh, mặt khác
tăng cường được mối quan hệ về lợi ích và tạo ra sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa công ty
và những người thường xuyên có mối quan hệ với công ty. Tuy nhiên cần thấy rằng, để
thực hiện được hình thức này phải được sự tán thành của Đại hội cổ đông.
Phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng:
2
Lớp HP:1114FMGM0211


GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Để tăng thêm vốn đầu tư công ty cổ phần cũng có thể lựa chọn con đường phát
hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng bằng việc chào bán công khai. Phương thức
này thường được sử dùng khi khối lượng vốn cần huy động lớn và việc huy động thường
được thực hiện dưới hình thức bảo lãnh phát hành thông qua các tổ chức tài chính.
1.1.2. Đặc trưng của cổ phiếu thường
- Không có kỳ hạn và không hoàn vốn: Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn của các
cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ có chiều góp vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn;
không có kỳ hạn. (Khi công ty phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu).
- Cổ tức không ổn định và phụ thuộc vào kết quả SXKD của doanh nghiệp: Cổ
tức cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và vì kết quả
kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không thể cố định. Khi doanh nghiệp làm
ăn phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với các loại chứng khoán
khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn hoặc thua lỗ, cổ tức có thể rất
thấp hoặc không có cổ tức
- Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại của tài
sản thanh lý.
- Giá cổ phiếu biến động rất mạnh: Giá biến động nhiều nhất là trên thị trường
thứ cấp, do giá chịu sự tác động của nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả
kinh doanh của công ty.
- Tính thanh khoản cao: Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ
dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm

yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu
của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường.
Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu
của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ
phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá
3
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc
rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang
bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi
thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có
thể bán dễ dàng. Tuy nhiên cũng cần chú ý đến sự đầu cơ trong thị trưòng, một số nhà
đầu tư sở hữu một phần lớn lượng cổ phiếu trong thị trường, đẩy giá lên xuống theo ý
mình để trục lợi.
- Có tính lưu thông: Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản
thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành
tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều
hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình
- Tính Tư bản giả: Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền.
Tuy nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền.
Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu

- Tính Rủi ro cao: Tính Rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển,
chính trị. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
1.1.3. Những lợi thế và bất lợi khi huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường
Những lợi thế
- Doanh nghiệp tăng được vốn đầu tư dài hạn nhưng không bị bắt buộc có tính
pháp lý phải trả khoản chi cho việc sử dụng vốn. Khi doanh nghiệp bị thua lỗ, công ty
không phải chịu lợi tức cổ phần cho cổ đông
- Doanh nghiệp không có nghĩa vụ hoàn trả vốn cho cổ đông theo kì hạn cố
định, điều đố giúp công ty chủ động sử dụng vốn mà không phỉ lo gánh nợ nần
- Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu thường làm giảm hệ số nợ và tăng mức
độ vững chắc về tài chính của công ty.
Những bất lợi
- Do cổ đông có quyền tham gia bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị nên
việc phát hành cổ phiếu thường ra công chúng làm tăng thêm cổ đông mới từ đó phải
4
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

phân chia quyền bỏ phiếu và quyền kiểm soát công ty cho số cổ đông mới, gây bất lợi
cho cổ đông hiện hữu. Mặt khác nếu công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả, phát
hành cổ phiếu thường để huy động vốn sẽ không có lợi cho công ty bằng cách phát
hành trái phiếu
- Chi phí phát hành cổ phiếu thường cao hơn phát hành cổ phiếu ưu đãi và trái
phiếu: Theo chế độ quản lý tài chính của nhiều nước, lợi tức cổ phiếu không được tính

vào chi phi kinh doành hợp lệ để giảm trừ thu nhập chịu thuế.
1.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi
1.2.1. Khái niệm và phân loại cổ phiếu ưu đãi
Khái niệm
Cổ phiếu ưu đãi chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ phần, đồng
thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu đãi
hơn so với cổ đông thường.
Phân loại cổ phiếu ưu đãi
Ở Việt Nam, công ty cổ phần có thể phát hành các loại cổ phiếu như sau:
- Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: loại cổ phiếu này chỉ phát hành cho tổ chức được
chính phủ uỷ quyền và cỏ đông sáng lập. Thời gian hiệu lực của cổ phiếu là 3 năm kể
từ khi được cấp chứng chỉ kinh doanh sau đó chuyển thành cổ phiếu thường.
- Cổ phiếu ưu đãi về cổ tức
- Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại
- Cổ phiếu ưu đãi khác.
1.2.2. Đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi
- Quyền ưu tiên về cổ tức và thanh toán khi thanh lý công ty: cỏ phiếu ưu đãi
đưa cho người nắm giữ nó được hưởng một khoản lợi tức cố định và đã được xác định
không phụ thuộc vào vào kết quả hoạt động của công ty. Mặt khác, cổ đông ưu đãi
cũng được nhận cổ tức trước cổ đông thường. khi giải thể hay thanh lý công ty, cổ đông
ưu đãi cũng được thanh toán giá trị cổ phiếu trước các cổ đông thường.

5
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7


Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

- Sự tích lũy cổ tức: khi một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh
thì có thể tuyên bố hoãn trả cổ tức cổ phần ưu đãi và số cổ tức đó được tích lũy lại và
chyển đến kỳ kế tiếp và trả trước khi công ty trả cổ tức cho cổ đông thường.
- Không được hưởng quyền bỏ phiếu: cổ đông ưu đãi thường không được hưởng
quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và quyết định các vấn đề về quản lý công ty.
- Không có thời hạn thanh toán vốn gốc
- Lợi tức cổ phần không được tính giảm trừ khi tính thuế TNDN.
1.2.3. Những lợi thế và bất lợi khi huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu ưu đãi:
Những lợi thế
- Măc dù phải trả lợi tức cố định nhưng khác với trái phiếu công ty không nhất bị
bắt buộc phải trả đúng hạn hàng năm mà có thể hoãn trả sang kỳ sau, điều đó giúp công
ty không bị phá sản khi gặp khó khăn trong thanh toán.
- Tránh được phần chia quyền kiểm soát cho cổ đông mới thông qua quyền biểu quyết.
- Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi không có thời hạn hoàn trả nên việc sử dung cổ
phiếu ưu đãi có tính mềm dẻo và linh hoạt hơn.
- Lợi tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn trái phiếu
- Lợi tức cổ phiếu ưu đãi không được tính vào chi phí làm giảm thu nhập và thuế
thu nhập phải nộp
Nhìn chung việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi để tăng vốn tỏ ra thích hợp hơn trong
tình thế mà điều kiện công ty cho thấy việc sử dụng cổ phiếu thường hoặc trái phiếu
đều đưa lại những bất lợi với công ty.
1.3. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm và phân loại trái phiếu
Khái niệm
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản
tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản
cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.

6
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Phân loại trái phiếu doanh nghiệp
Căn cứ vào việc có ghi danh hay không:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ,
và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận
lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận
lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho
phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ
mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có
dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở
hữu trên máy tính.
Theo mức độ bảo đảm thanh khoản của người phát hành trái phiếu
- Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế
chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được
bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối
với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài
sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái

chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng
trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền
chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định,
việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những
thời điểm cụ thể xác định.
Căn cứ vào lợi tức của trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu có lãi suất cố định
và trái phiếu có lãi suất thả nổi
- Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu phổ biến nhất trong các
loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi trên mặt trái phiếu (Coupon rate) và
7
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

không thay đổi suốt kỳ hạn của nó. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng được qui định rõ
và thông thường trả lãi hàng năm 2 lần vào 30/6 và 31/12. Thông thường lãi suất ghi
trên trái phiếu được căn cứ vào lãi suất trái phiếu có kỳ hạn tương đương của kho bạc
Nhà nước và mức độ rủi ro của doanh nghiệp.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý rằng, lãi suất trả cho trái phiếu cố định hàng năm
nhưng giá trị của trái phiếu thì thay đổi tuỳ thuộc vào những biến động của thị trường.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi: trong những giai đoạn có nhiều biến động trong
nền kinh tế thì lãi suất trên thị trường vốn thay đổi liên tục và do vậy các doanh nghiệp
thường phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi.
Tuy gọi là lãi suất thả nổi nhưng thực ra lãi suất của nó phụ thuộc vào một số
nguồn lãi suất quan trọng như lãi suất LIBOR (London Inter Bank Offered Rate) hoặc

lãi suất của trái phiếu này lấy lãi suất của trái phiếu kho bạc làm chuẩn và được định kỳ
điều chỉnh sau những khoảng thời gian nhất định theo quy định.
Như vậy việc phát hành trái phiếu này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư trong điều kiện
nền kinh tế không ổn định, thị trường tài chính biến động không ngừng. Những trái
phiếu này thường tỏ ra phù hợp đối với những nhà đầu tư không ưa mạo hiểm, nhưng
loại trái phiếu này cũng có những nhược điểm như doanh nghiệp không thể phân biệt
chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu trong hoạch định ngân quỹ và việc quản lý
trái phiếu cũng đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải điều chỉnh lãi suất.
Ngoài ra còn có các loại trái phiếu đặc biệt như trái phiếu chiết khấu, trái phiếu
lãi suất theo thu nhập, .....
- Trái phiếu trả lãi theo thu nhập: trái phiếu trả lãi theo thu nhập là trái phiếu
mà tiền lãi chỉ được trả khi người vay (doanh nghiệp) thu được lợi nhuận. Khi lợi
nhuận thấp hơn số tiền phải trả thì trái chủ sẽ chỉ nhận được tiền trả bằng khoản thu
nhập đó và không được quyền tuyên bố người vay bị phá sản. Số tiền trả cho trái chủ
còn thiếu được chuyển sang những năm tiếp theo tuỳ theo quy định trong khế ước của
hai bên. Với doanh nghiệp thì loại trái phiếu này không hạn chế đòn cân nợ như những
trái phiếu khác bởi vì loại trái phiếu này có tính linh hoạt cao, rất thích hợp cho những
doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính
8
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

- Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại

bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những
trái phiếu khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán
lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong
trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so
với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi
trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng
khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
1.3.3. Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, theo luật chứng khoán có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2007, tổ chức kinh té là doanh nghiêp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng để
huy động vón phải đáp ứng điều kiện sau:
- Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp từ thời điểm đăng ký chào bán tối
thiểu là 10 tỷ đồng.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bắn phải có lãi,
không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản lợi phải trả quá
hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ số vốn huy động được
từ đợt chào bán được hội đồng quản trị và hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty
thông qua.
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về
điều kiện phát hành.
- Phải có tổ chức bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bản thân tổ chức phát hành
trái phiếu là tổ chức tín dụng.
- Tổ chức phát hành phải xác định đại diện người sở hữu trái phiếu.
9
Lớp HP:1114FMGM0211


GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

1.3.4. Những lợi thế và bất lợi khi huy động vốn bằng phát hành trái phiếu
Những lợi thế
- Lợi tức trái phiếu được giới hạn ở mức độ nhất định. Nếu doanh nghiệp kinh
doanh có triển vọng thu lợi nhuận cao sẽ làm tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu.
- Chí phí phát hành trái phiếu thường thấp hơn so với cổ phiếu.
- Khi phát hành trái phiếu, những chủ sở hữu doanh nghiệp không bị phân chia
quyền kiểm soát doanh nghiệp cho những trái chủ.
- Ở hầu hết các nước, lợi tức trái phiếu được tính vào chi phí kinh doanh làm
giảm thu nhập và thuế thu nhập phải nộp.
- Khi phát hành trái phiếu mua lại của doanh nghiệp có thể chủ động điều
chỉnh cơ cấu vốn.
Những bất lợi
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ trả gốc và lợi tức cho các trái chủ đúng kỳ hạn. Nếu
thời điểm trả nợ công ty gặp khó khăn về tài chính sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng
thanh toán, tăng nguy cơ phá sản.
- Việc tăng vốn bằng phát hành trái phiếu có thể dẫn đến hệ số nợ cao, nếu công ty
kinh doanh thua lỗ sẽ làm tăng mức thua lỗ trên vốn chủ sở hữu, làm giảm vốn chủ sở hữu.
1.4. Thuê tài chính
1.4.1. Khái niệm và các chủ thể của thuê tài chính
Khái niệm
Thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng
cho thuê giữa hai bên cho thuê và đi thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy máy móc

thiết bị … theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê.
Bên thuê sử dụng tài sản thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi
kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục
thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hơp đồng cho thuê tài chính.
Trong các giao dịch thuê tài chính thường bao gồm các chủ thể sau:
10
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

- Bên đi thuê là doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng tài sản nhưng không có vốn
đầu tư hoặc xét thấy việc đầu tư đem lại hiệu quả không cao.
- Bên cho thuê thường là các công ty cho thuê tài chính, các công ty này dùng
vốn của mình đầu tư mua sẳm máy móc thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê để cho
thuê nhằm thu hồi vốn và tím kiếm lợi nhuận
- Nhà cung cấp máy móc thiết bị là các hãng sản xuất hoặc các đại lý phân phối
của các nhà sản xuất.
1.4.2. Đặc điểm của thuê tài chính
- Thời gian thuê thường dài: nói cách khác, thuê tài chính là một phương thức
tài trợ tín dụng trung hay dài hạn. Theo phương thức này người cho thuê thường mua
tài sản, thiết bị mà người cho thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài
sản đó với nhà cung cấp, hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người đi thuê.
- Các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản… thường do
nguời thuê chịu và tổng số tiền bên thuê phải trả cho nguời bán thường đủ để bù đắp
những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.

- Trong thời gian thuê, các bên không được hủy ngang hợp đồng nếu không có
sự nhất trí chung.
- Khi hết hạn thuê, tài sản đó có thể thuộc quyền sở hữu cảu bên đi thuê, hoặc
bên đi thuê tiếp tục thuê tài sản đó, hoặc bên đi thuê được mua lại tài sản đó với với giá
rẻ hơn giá trị còn lại của nó, hoặc bên đi thuê nhận làm đại lý bán tài sản đó…
1.4.3. Các tiêu chuẩn nhận dạng giao dịch thuê tài chính
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên thuê tại thời điểm chấm
dứt hợp đồng.
- Hợp đồng thuê quy định bên thuê dc quyền chọn mua tài sản với giá tượng
trưng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản
- Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tương đương hoặc lớn hơn giá thị
trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
11
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

1.4.4. Những lợi thế và bất lợi khi thuê tài chính
Những lợi thế
Thuê tài chính cũng giúp doanh nghiệp bắt kịp với công nghệ. Điều này đặc biệt
quan trọng nếu ngành kinh doanh phải dựa nhiều vào các công nghệ tân tiến như thế hệ
máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công nghệ mới hoặc các thiết
bị khác. Nhiều hợp đồng thuê ngắn hạn có thể sẽ tiết kiệm hơn là việc sau một hai năm
lại mua thiết bị mới.

Nếu doanh nghiệp cần có máy móc, thiết bị ngay lập tức, việc đi thuê sẽ được
chấp thuận nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín dụng, và không cần nhiều thủ tục
giấy tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng cũng dễ chịu hơn. Nhất là với các doanh
nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu, việc thuê tài chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc
đi vay ngân hàng.
Cho thuê tài chính đặc biệt có lợi với những công ty có ý định giữ lại thiết bị sau
khi hết thời hạn thuê. Trong một hợp đồng thuê tài chính, tài sản sẽ hiện dần lên trong
bảng cân đối và khoản nợ thì sẽ được hoàn trả dần trong thời gian thuê.
Khi doanh nghiệp lựa chọn thuê thiết bị thay vì mua sẽ tránh được một khoản
tiền trả ngay lớn. Bằng cách dãn khoản thanh toán ra theo vòng đời của tài sản, công ty
có thể bù đắp được chi phí thiết bị với các khoản sinh lời từ việc đầu tư đó. Thêm vào
đó, việc trả các khoản thanh toán cố định hàng tháng giúp cân đối được các khoản phải
trả dự tính, tạo thuận lợi cho việc thu xếp nguồn vốn và báo cáo số liệu.
Những bất lợi
Yêu cầu khách hàng phải nộp tiền ký cược.
Quyền sở hữu tài sản thuộc về công ty cho thuê tài chính

1.5. Vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian
1.5.1. Vay theo dự án đầu tư
Vay theo dự án đầu tư:
12
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn


- Tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Khi có nhu cầu vay vốn, danh nghiệp vay phải hoàn tất hồ sơ vay vốn theo yêu
cầu của tổ chức tín dụng. Sau khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu đủ điều kiện cho vay,
tổ chức tín dụng thông báo cho doanh nghiệp và 2 bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng tín
dụng trung và dài hạn.
- Tổ chức tín dụng sẽ phát tiền vay theo tiến độ thi công công trình hoàn thành
hoặc tiến độ thực hiện dự án.
1.5.2. Vay trả góp
Vay trả góp: phương án này, khi cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoản thuận tổng số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc dc chia ra để trả nợ
theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay đã thoả thuận.
Áp dụng công thức tính giá trị hiện tại của chuỗi tiền đều ở cuối kỳ:
n

1
PV  A�
t
t 1 (1  i )
PV
A n
1

t
t 1 (1  i )
Trong đó:
A: là số nợ gốc và lãi vay phải trả trong mỗi kỳ hạn
PV: tổng số tiền vay
i: là lãi xuất tính cho một kỳ hạn trả nợ
t: là thứ tự các kỳ hạn trả nợ

n: là số kỳ hạn trả nợ
1.5.3. Vay hợp vốn
Vay hợp vốn: Cho vay hợp vốn là phương pháp cho vay trong đó 1 nhóm tổ
chức tín dụng cùng cho vay đối với 1 dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng.
Trong cho vay hợp vốn, một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ
13
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

chức tín dụng khác. Hình thức này thường thực hiện với những dự án lớn, đòi hỏi
lượng vốn đầu tư nhiều.
II. Thực trạng việc quản trị các nguồn tài trợ dài hạn tại các doanh nghiệp hiện nay
2.1 Sự cần thiết của việc huy động nguồn tài trợ trong doanh nghiệp VN hiện nay
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do hạn chế về khả
năng mở rộng sản xuất, hạn chế về đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường, hạn
chế về khả năng tiếp cận nguồn lực đất đai và các nguồn vốn, hạn chế khả năng tiếp
cận thông tin. Những hạn chế này không thể thay đổi được nếu doanh nghiệp thiếu
vốn. Bởi vậy, doanh nghiệp nào cũng cần chủ động tạo ra nguồn vốn ngắn hạn đảm bảo
hoạt động trơn tru, tạo ra nguồn vốn dài hạn để mở rộng sản xuất kinh doanh, tái cấu
trúc hoạt động của mình. Cùng với ý tưởng kinh doanh thì vốn luôn là yếu tố quan
trọng trong quá trình khởi sự doanh nghiệp. Việc huy động vốn được ví như một hành
trình giải bài toán phức tạp, vừa mang tính pháp lý lại vừa có tính nghệ thuật.
Nguyên tắc cơ bản của việc góp vốn thành lập công ty là nhất trí, không được
rút vốn trực tiếp và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm góp vốn của mình. Công ty có

phát triển bền vững hay không, trước hết cần cân bằng trong quá trình góp vốn, chuyển
nhượng vốn, chịu trách nhiệm khi có rủi ro và hưởng lợi.
Huy động vốn bao gồm nhiều khâu công việc từ việc xác định số lượng vốn cần
huy động là bao nhiêu và cơ cấu các loại vốn huy động từ các cách thức khác nhau thế
nào, đặc biệt là đối với huy động vốn dài hạn thì phương án huy động vốn đòi hỏi chất
lượng rất cao, tính minh bạch, cụ thể và chi tiết là điều bắt buộc phải đáp ứng.
Xét cho cùng, trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp thì ngoài vốn chủ sở hữu, các
nguồn vốn huy động được chính là những khoản vốn vay từ các nguồn khác nhau và
được gọi dưới các hình thức khác nhau. Với đặc trưng được phép khấu trừ các chi phí
vay khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, lợi ích cơ bản khi doanh nghiệp tài trợ vốn
bằng nợ vay chính là tạo ra lá chắn thuế cho doanh nghiệp. Huy động vốn dài hạn là để
đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư hay tài trợ cho những kế hoạch kinh
doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên bị thiếu hụt.
14
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển với xuất phát điểm thấp nên
có những đặc thù về phía doanh nghiệp cũng như về phía các định chế tài chính, ngân
hàng chi phối phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp, kể cả huy động vốn vay
từ ngân hàng hay huy động vốn từ thị trường vốn, và các kênh huy động vốn khác.
Hiện cả nước số lượng doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn dự kiến sẽ gia tăng với tốc độ nhanh. Với những mục tiêu
tăng trưởng đã đề ra thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là của khu vực

doanh nghiệp là rất lớn. Vì vậy, ngoài các nguồn vốn hiện có như nguồn vốn chủ sở
hữu, nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng,... cần phải tạo ra các kênh mới cho việc
huy động vốn của các doanh nghiệp.
2.2. Cách thức huy động nguồn tài trợ dài hạn của các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay
2.2.1. Cách thức huy động nguồn tài trợ các doanh nghiệp hiện nay sử dụng
Nguồn tài trợ dài hạn có vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp Việt Nam.
Huy động vốn dài hạn là để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư hay tài trợ
cho những kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên
bị thiếu hụt. Lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, dù trong nền kinh tế nào, việc huy động
vốn dù là huy động từ việc phát hành cổ phiếu hay từ vay nợ bằng rất nhiều hình thức
khác cũng cần phải cân nhắc kỹ ưu điểm, nhược điểm thuộc về bản chất của từng
phương thức mà sử dụng. Tuy nhiên, với mỗi một điều kiện kinh tế khác nhau, những
yếu tố vĩ mô cũng là những nhân tố quan trọng chi phối phương thức huy động vốn của
doanh nghiệp ở từng thời kỳ.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển với xuất phát điểm thấp nên
có những đặc thù về phía doanh nghiệp cũng như về phía các định chế tài chính, ngân
hàng chi phối phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp, kể cả huy động vốn vay
từ ngân hàng hay huy động vốn từ thị trường vốn, và các kênh huy động vốn khác.
Về nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng

15
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn


Theo điều tra, 32% doanh nghiệp được hỏi cho biết vay vốn ngân hàng vẫn là
nguồn huy động vốn chính trong thời gian qua.
Mặc dù tín dụng ngân hàng vẫn là kênh truyền thông được ưa chuộng, nhưng
các DN cho rằng vấn đề thủ tục, lạm phát và lãi suất cao, cộng với tỷ giá không ổn định
và thắt chặt cho vay và hạn mức tín dụng quá khắt khe của các ngân hàng đang là
những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới khả năng huy động vốn của DN, vì nếu có vay
được thì dùng vốn đó sản xuất kinh doanh cũng khó có lãi.
Ngân hàng đáp ứng được phần vốn còn rất nhỏ so với nhu cầu vay của doanh
nghiệp. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì các số liệu điều tra cho
thấy nhu cầu vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp loại này mới chỉ được đáp ứng
khoảng 1/3. Theo tính toán từ các cuộc điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa năm 2005-2006 thì tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân được
các ngân hàng cho vay vốn chỉ chiếm 62,5% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa khối tư
nhân được điều tra còn 100% các doanh nghiệp nhà nước điều tra có quy mô vốn lớn đều
được vay vốn từ các NHTM. Thêm vào đó, quy mô các khoản vay, mức vay bình quân
cho một doanh nghiệp nhà nước trong diện điều tra lớn hơn gần 10 lần mức vay bình
quân của doanh nghiệp tư nhân. Thực tế này xuất phát từ những đặc thù từ phía ngân
hàng cũng như từ thực trạng công tác quản trị, tài chính của các doanh nghiệp.
Một đặc thù của hệ thống ngân hàng nước ta là cho tới nay, hệ thống ngân hàng
quốc doanh vẫn chiếm tới khoảng 70-80% tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng và
hiện nay các ngân hàng này vẫn đang trong quá trình đổi mới chính sách cho vay trong
bối cảnh nợ khó đòi còn ở mức cao và chịu áp lực của việc xóa bỏ các chính sách cho
vay ưu đãi. Bới vậy, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng gốc gác là ngân hàng
quốc doanh đang đứng trước áp lực phải tiếp cận được các số liệu quản lý tài chính có
giá trị của các DN, nếu không thì việc cho DN vay vốn không thể giải quyết được, cũng
có nghĩa là các DN sẽ bị hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng từ nguồn ngân hàng.
Tuy nhiên, các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa lại không đáp ứng được yêu
cầu của ngân hàng về giá trị tài sản thế chấp cho khoản vay (còn thấp), tính minh bạch
của các số liệu tài chính – kế toán hoặc nếu đáp ứng được thì không đủ tiêu chuẩn xét

16
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

cho vay do tính hiệu quả của dự án xin vay thấp hoặc thực tế thì có hiệu quả nhưng do
DN thường hạ lợi nhuận để trốn thuế thu nhập DN nên hồ sơ tài chính xin vay không
đủ tiêu chuẩn. Còn không ít DN lập phương án sản xuất kinh doanh làm hồ sơ vay vốn
còn mang tính đối phó, kế hoạch trả nợ chưa rõ ràng, nên không đủ tiêu chuẩn cho vay
theo yêu cầu của ngân hàng.
Một vấn đề khác là nhiều khi năng lực phân tích hiệu quả dự án cho vay của cán
bộ ngân hàng trong nhiều trường hợp còn chưa theo kịp thực tế DN nên sự đánh giá
chưa xác thực khiến DN khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các cuộc điều tra cũng
chỉ ra rằng 50% DN nhỏ và vừa ít hoặc không tin tưởng vào cán bộ tín dụng, nhiều DN
cho rằng cán bộ tín dụng chưa quan tâm đúng mức đến DN. Do đó, để cải thiện tình
hình, chỉ tiêu “quan hệ nghiệp vụ” giữa cán bộ tín dụng và DN cần được cải thiện vượt
bậc. Về phía DN cần chủ động hơn trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng về tính
minh bạch trong quản trị tài chính, tính hiệu quả trong phương án sản xuất kinh doanh
và sự rõ ràng trong kế hoạch trả nợ. Về phía ngân hàng cũng nên làm rõ việc cho vay
không chỉ dựa trên tài sản thế chấp mà cần mở rộng hạn mức cho vay tín chấp khi DN
có kết quả kinh doanh tốt, có uy tín trong thanh toán vốn vay, có phương án sản xuất
kinh doanh và phương án trả nợ đáp ứng tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng.
Về nguồn vốn từ hình thức tín dụng thuê tài chính
Theo kết quả điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của DN vừa và nhỏ năm 2006
thì nguyên nhân không sử dụng hình thức thuê tài chính chủ yếu do thiếu hiểu biết về

hình thức này còn DN có hiểu biết về hình thức này thì e ngại thủ tục và mức phí cao.
Mặt khác, thế mạnh của các tổ chức cho thuê tài chính là ngoài nguồn vốn sẵn sàng
cung ứng thì phải có am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ (lĩnh vực kinh doanh của các DN
nhắm tới) và chủ động về nguồn cung ứng máy móc thiết bị về lĩnh vực đó. Tuy nhiên,
các tổ chức thuê mua tài chính ở Việt Nam theo nhiều chuyên gia còn thiếu tính chuyên
nghiệp. Bới vậy, hình thức tín dụng này trong nhiều năm qua không phát triển như kỳ
vọng. Điều nay chỉ có thể thay đổi khi các tổ chức cho thuê tài chính tự nâng cao năng
lực và phát triển phương thức kinh doanh hiệu quả hơn, tăng cường tiếp cận DN, gắn
với nhu cầu thực tế của DN. Nhà nước có thể có những hỗ trợ về chính sách đối với
17
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

loại hình hoạt động kinh doanh này cũng như cân nhắc hỗ trợ khuyến khích cho các
DN sử dụng hình thức tín dụng thuê mua tài chính thông qua chính sách khấu hao máy
móc thiết bị thuê mua tài chính....
Về nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước
Nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành cho các ngành nghề, lĩnh vực cần
khuyến khích thì khả năng tiếp cận của các DN lớn tốt hơn hẳn so với các DN nhỏ và vừa.
Việc sử dụng bảo lãnh tín dụng của các ngân hàng cũng trong tình trạng tương tự.
Về nguồn vốn huy động từ thị trường tài chính qua kênh phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu
Hiện nay, trong bối cảnh huy động vốn từ các ngân hàng thương mại gặp
khó khăn do lãi suất cao, nhiều doanh nghiệp đã tìm đến kênh huy động qua phát

hành trái phiếu. Từ sau thành công của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị
trường quốc tế cuối năm 2005 và việc ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2006, thị trường trái phiếu trong nước cũng đã có
những chuyển biến tích cực. Và đến nay, khối lượng và quy mô phát hành trái phiếu
của doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể.
Hầu hết DN khi huy động vốn đều muốn lựa chọn phát hành trái phiếu DN là
ưu tiên số 1, bởi DN phát hành trái phiếu thường có lợi thế như không phải tuân thủ
các điều kiện vay vốn khắt khe của ngân hàng, không chịu sức ép chi phối từ cổ đông
mới như phát hành cổ phiếu, được hưởng lợi từ chính sách thuế đối với khoản trả lãi
trái phiếu... Do đó, phát hành trái phiếu đang được nhiều DN lựa chọn như là một kênh
huy động vốn hiệu quả.
Tuy nhiên, trái phiếu DN dường như vẫn chỉ là “sân chơi” của DN lớn bởi
những quy định khắt khe về đối tượng được phát hành trái phiếu và vì sự tin tưởng của
nhà đầu tư vào DN. Nhiều nhà đầu tư vẫn lo ngại với trái phiếu DN bởi sản phẩm này
khá “kén” người mua và cũng không mấy thông dụng trong giao dịch. Thực tế thời
gian qua, chỉ có các DN cổ phần lớn, các ngân hàng hay DN nhà nước mới phát hành
trái phiếu, nhiều Công ty phát hành trái phiếu riêng lẻ cho cổ đông chiến lược, chứ
không phát hành ra công chúng
18
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô còn chứa đựng nhiều nhân tố bất ổn, thị
trường chứng khoán thiếu sôi động và sụt giảm kéo dài, phương thức huy động vốn

này vẫn rất hạn chế trong giai đoạn từ 2008 tới nay, khác hẳn với thực tế huy động vốn
qua kênh thị trường chứng khoán rất thành công của năm 2007 (thậm chí trong giai
đoạn 2006-2007 thì phần giá trị thặng dư thu lại từ việc phát hành cổ phiếu mới của
nhiều DN đạt giá trị rất lớn). Thực tế này chỉ có thể được cải thiện khi các giải pháp ổn
định kinh tế vĩ mô phát huy hiệu quả, nền kinh tế trong nước và thế giới bước sang giai
đoạn phát triển mới.
Cụ thể, năm 2009, có 39 giao dịch phát hành trái phiếu với tổng vốn huy động
gần 30.000 tỷ đồng; năm 2010 có 45 giao dịch phát hành với tổng khối lượng vốn huy
động đạt gần 45.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ
trong GDP (khoảng 15-16% GDP) và thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực và
thế giới. Ví dụ như Nhật Bản giá trị thị trường trái phiếu bằng gần 200% GDP, trong
khi tại Trung Quốc và Malaysia tỷ lệ này lần lượt là 48% và 100%.
Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế trong các năm tới cần được
duy trì ít nhất tương đương khoảng 40% GDP. Như vậy, xét về nhu cầu vốn cho nền
kinh tế cũng như xu hướng, thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để
phát triển trong thời gian tới.
Việc phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp lớn, hoạt động hiệu quả trên
thị trường thời gian qua như HUD, Vinaconex, Sông Đà, Vincom… đã thu hút sự quan
tâm rất lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều này chứng tỏ nhu cầu nắm
giữ các loại trái phiếu có chất lượng của nhà đầu tư là rất lớn.
Bên cạnh đó, các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại và các công ty
chứng khoán) ngày càng phát triển về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ cung ứng,
qua đó đã giúp doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí huy động vốn và tạo thêm kênh phân
phối hiệu quả trái phiếu doanh nghiệp đến các nhà đầu tư. BIDV trong những năm vừa
qua luôn là ngân hàng trong nước tiên phong trên thị trường trái phiếu, cung cấp đầy đủ

19
Lớp HP:1114FMGM0211


GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

các dịch vụ về phát hành trái phiếu chuyên nghiệp cho doanh nghiệp như: tư vấn thu xếp
phát hành, bảo lãnh phát hành, bảo lãnh thanh toán, đại lý đăng ký lưu ký và thanh toán…
Ngoài ra, sự tham gia tích cực của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam,
các công ty tư vấn luật, kiểm toán và công ty định hạng tín nhiệm quốc tế… đang góp
phần vào sự phát triển đúng hướng của thị trường, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp
cận thị trường trái phiếu một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, trong giai đoạn còn nhiều khó khăn hiện nay, việc huy động vốn
qua kênh này dù là phát hành cổ phiểu hay vay nợ bằng trái phiếu thì phương thức huy
động vốn chỉ có thể thành công nếu DN có dự án thật sự khả thi và được thể hiện bằng
các kế hoạch cụ thể, chi tiết. Các đối tác của DN trong quá trình huy động vốn cần
được chọn lọc kỹ để lựa chọn ra đối tác hiểu dự án của DN, có kế hoạch công bố thông
tin và thu hút đầu tư hiệu quả và tư vấn cho DN những giới hạn hiệu quả nhất của các
chỉ tiêu phát hành huy động thêm vốn chủ sở hữu (phát hành cổ phần) hay huy động
vốn vay (phát hành trái phiếu) với quy mô, tỷ trọng nào là phù hợp nhất.
Cũng cần lưu ý rằng đối với các DN nhỏ thì uy tín còn thấp, việc phát hành trái
phiếu để vay nợ trên thị trường chứng khoán sẽ rất khó khăn so với các DN lớn. Một
nguồn vốn chuyên nhằm vào tài trợ cho các DN vừa và nhỏ nên được xem xét là nguồn
cung ứng từ các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital). Các quỹ đầu tư mạo hiểm
nhằm vào các DN chưa có thương hiệu, thị phần còn nhỏ, đang trong giai đoạn hình
thành và phát triển nhưng có dự án hiệu quả và còn thiếu vốn. Các quỹ đầu tư mạo
hiểm đem lại khá nhiều lợi ích cho DN vì ngoài lợi ích về vốn, DN còn đựoc hưởng lợi
về danh tiếng, về khả năng chuyên môn hóa quản lý, về thông tin ngành, lĩnh vực của
dự án - là những thế mạnh của các quỹ này.

Suy cho cùng, nguồn vốn nội tại mà bản thân DN tự tài trợ cho mình từ lợi
nhuận ròng cũng như việc tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn trong quá trình hoạt động
là phương thức tự chủ nhất, hiệu quả nhất mà dù trong giai đoạn nào, đối với DN loại
nào, đây cũng là phương thức hữu dụng và bền vững nhất.
Từ thuê tài chính

20
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Cho thuê tài chính (finance leasing) là một dạng cho thuê máy móc, thiết bị và
động sản. Người ta còn gọi là cho thuê thiết bị. Tiếng Anh là “leasing”. Ở Mỹ, người ta
cho thuê xe hơi, máy bay, xe tải, tàu hoả, hoang tàu thuỷ và tàu thuỷ, máy vi tính, máy
photocopy, máy fax,…Tập đoàn IBM tại Mỹ còn cho thuê cả máy vi tính.
Ví dụ: Hiện nay, Vietnam Airlines đã thuê máy bay của TEAC, AirFrance,…
Trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản khi
vay vốn ở các ngân hàng thì việc có mặt của các công ty cho thuê tài chính đã mở ra
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm
tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa
được áp lực về tài sản làm đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Ngoài ra, các công ty
cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu
doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố
định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản

xuất kinh doanh. Loại hình này được các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi sử dụng nhiều
nhờ ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị
vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở các ngân hàng.
Mặc dù công ty cho thuê tài chính có tác dụng cho các doanh nghiệp như vậy
nhưng hoạt động công ty tài chính thời gian vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát
huy được khả năng, trong khi nhu cầu về thuê máy móc, thiết bị của doanh nghiệp nhỏ
và vừa còn rất lớn. Nguyên nhân của hạn chế này là do môi trường pháp lý về công ty
tài chính chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Thời gian tới, khi cơ chế chính sách về hoạt
động cho thuê tài chính được hoàn thiện, các doanh nghiệp cần chủ động “đón đầu” để
phát huy tối đa lợi thế của kênh tín dụng này.
Huy động vốn bằng hình thức công – tư:
Một hình thức huy động vốn nữa giúp các DN tìm được nguồn vốn trong bối
cảnh còn nhiều khó khăn đó là theo hình thức công - tư.
Bà Thái Thanh Hải – Phó Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam cho biết, các dự án
đầu tư theo hình thức công – tư hấp dẫn các DN bởi rủi ro thấp do nhà nước cung cấp
21
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

các cam kết thể chế cho dự án, bảo lãnh và xúc tiến khả thi cho dự án. Tính dài hạn trong
đầu tư cũng là một điểm thu hút khu vực tư nhân, các dự án này thường mang lại cho
nhà đầu tư khoản lợi nhuận ổn định trong dài hạn. Bên cạnh đó các DN cũng không đủ
khả năng để tự thực hiện các dự án lớn nếu thiếu sự tham gia và hợp tác của nhà nước.
Để thu hút đầu tư tư nhân thông qua hình thức hợp tác công – tư, Chính phủ cũng

sử dụng các biện pháp ưu đãi và bảo đảm đầu tư thông qua ưu đãi thuế, quyền mua ngoại
tệ hoặc bảo đảm cân đối ngoại tệ, quyền bảo đảm cung cấp các dịch vụ công cộng…
Hợp tác công – tư là một xu thế tất yếu để thu hút vốn của các nhà đầu tư nhằm
lấp đầy khoảng cách đầu tư cũng như tranh thủ năng lực về quản lý, kỹ thuật, công nghệ
của khu vực tư nhân để nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện chất lượng dịch vụ công.
Nói tóm lại, với các ưu điểm riêng từ những kênh huy động vốn qua phát hành
cổ phiếu, trái phiếu và hợp tác công – tư, liên doanh liên kết…các DN Việt Nam hoàn
toàn có thể huy động được vốn phù hợp với thực trạng của DN mình, làm đa dạng các
nguồn vốn tài trợ khác nhau, giảm sự phụ thuộc vào hệ thống NH, từ đó chủ động
trong hoạt động kinh doanh.
2.2.2. Ví dụ thực trạng quản trị nguồn tài trợ của Công Ty cổ phần FPT
Có thể hình dung cơ cấu nguồn vốn trong công ty FPT qua bảng sau:
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
Doanh thu thuần
Lợi nhuận gộp
Lợi nhuận từ hoạt động TC
Lợi nhuận sau thuế

2007
5356
1939
13518
1961
953
737

2008

6124
2373
16429
2978
1190
836

2009
10395
2999
18422
3685
1594
1063

2010
12305
3981
20017
3988
1877
1265

Tuy nhiên, để hiểu rõ ràng hơn cơ cấu các nguồn tài trợ và thực trạng quản lý
nguồn tài trợ tại FPT, chúng ta sẽ phân loại nguồn vốn của công ty theo căn cứ quyền
22
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang



Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

sở hữu. Và tập trung tìm hiểu chi tiết cơ cấu của từng loại vốn thành phần trong tổng
nguồn vốn của công ty. Theo đó, nguồn vốn của công ty FPT bao gồm: vốn chủ sở hữu,
các khoản nợ và các nguồn vốn khác.
Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn điều lệ: Tháng 03/2002, Công ty cổ phần hóa, tên Công ty được thay đổi
thành Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT. Số vốn điều lệ của công ty là
1,930.981 tỷ đồng
Vốn bổ sung: sau khi cổ phần hóa, công ty đã tiến hành bổ sung nguồn vốn
điều lệ theo các năm. Thể hiện qua bảng sau:
Bảng: Quá trình tăng vốn điều lệ của công ty FPT

Thời gian
04/2002
04/2003
10/2003
05/2004
08/2005
06/2006
10/2006
11/2006
06/2007
08/2007
06/2008
11/2008
07/2009

2010

Số vốn tăng thêm (tỷ đồng)
1.00
12.00
3.98
9.88
18.52
6.08
547.29
304.05
11.37
18.08
470.02
26.70
496.49

Vốn điều lệ (tỷ đồng)
2.00
3.00
15.00
18.98
36.21
54.73
60.81
608.10
912.15
923.53
941.61
1411.62

1438.32
1934.81

Qua bảng trên có thể thấy rằng nguồn vốn của công ty được bổ sung và tăng
dần qua các năm với số tiền ngày càng lớn hơn. Ví dụ như năm 2003 số vốn tăng thêm
là 1 tỷ đồng thì đến năm 2010 số vốn tăng lên gấp gần 500 lần đó là 496,49 tỷ đồng.
Vốn điều lệ cũng tăng nhanh qua các năm, năm 2002 với số vốn là 2 tỷ đồng thì năm
2010 số vốn tăng lên là 1943,81 tỷ tổng.
Các khoản nợ
Nợ ngân hàng và các tổ chức trung gian: FPT có một phần nguồn vốn được
hình thành từ hoạt động vay ngân hàng các tổ chức trung gian.
23
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

Cụ thể qua bảng sau:
Chỉ tiêu

2007

2008

2009


2010

Nợ phải trả/ tổng nguồn vốn

58%

53%

64%

59%

Nhìn chung hoạt động của tập đoàn chủ yếu được tài trợ bởi các khoản nợ
ngắn hạn. Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng các khoản nợ phải trả trên tổng nguồn vốn
qua các năm từ 2007 đến năm 2010 đều chiếm tỷ trọng lớn và đều trên 50% tuy đến
năm 2010 nợ phải trả đã giảm tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng cao, dẫn tới chi phí tài
chính cao và làm tăng rủi ro tài chính. Đây là một bất cập trong cơ cấu nguồn vốn của
công ty. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế suy thoái, hoạt động kinh doanh của hầu hết
các doanh nghiệp gặp khó khăn, lãi vay sẽ là gánh nặng đối với tập đoàn.
Khoản nợ từ tín dụng thương mại:
Đây là hình thức tài trợ quan trọng trong nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn của
doanh nghiệp, nó được hình thành khi doanh nghiệp mua hàng hoá dịch vụ từ nhà cung
cấp song chưa phải trả tiền ngay. Vì vậy, doanh nghiệp có thể sử dụng các tài sản mua
được từ nhà cung cấp như một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động
ngắn hạn của doanh nghiệp.

Sau đây là tình hình tín dụng thương mại của công ty một số năm gần đây
Năm 2005

Phải trả 266.958


Năm 2006

Năm 2007 Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

626.707

1.060.379

1.238.653

1.272.096

1.057.508

người
bán
(Đơn vị triệu đồng)
Ta có thể thấy rằng nguồn tín dụng thương mại là một nguồn tài trợ rất lớn cho
công ty. Nó tăng không ngừng qua các năm, nổi bật nhất là dấu mốc giữa năm 2005 và
24
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang



Nhóm 7

Quản trị nguồn tài trợ dài hạn

2006 nguồn tín dụng này đã tăng gấp hơn 2 lần, còn các năm về sau thì lượng tăng
không đáng kể nhưng vẫn giữ ở những con số rất lớn. Điều này cho thấy rằng công ty
rất biết tận dụng các nguồn tài trợ ngắn hạn, chiếm dụng vốn của các công ty khác.
FPT là công ty kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực và đang phát triển rất mạnh mẽ,
công ty có được uy tín ngày càng lớn hơn với các đối tác vì vậy các nguồn tài trợ từ tín
dụng thương mại của công ty có xu hướng ngày càng tăng trong các năm tới.
Cổ phiếu và trái phiếu.
Tháng 10-2009, Công ty cổ phần FPT phát hành 1.800 tỉ đồng trái phiếu với
lãi suất chỉ ở mức 7%/năm cho kỳ hạn ba năm. Mức lãi suất này rõ ràng không hấp dẫn
nhưng trái phiếu sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu FPT trong một thời gian nhất định
với mức giá được xác định trước.
Kết thúc quý I năm 2010, doanh thu Tập đoàn đạt 4.272 tỷ đồng tăng 8,7% so
với cùng kỳ và đạt 106% kế hoạch đề ra. Đặc biệt, lợi nhuận tập đoàn có sự tăng
trưởng đáng kể. Lợi nhuận trước thuế tập đoàn đạt 455 tỷ đồng, đạt 157% kế hoạch và
tăng 16,2% so với cùng kỳ Ngày 27 tháng 03 năm 2010 Công ty công bố Nghị quyết
Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2010. Đại hội đồng cổ đông FPT đã thông qua
phương án trả cổ tức gồm tiền mặt là 25% và 33,3% cổ tức bằng cổ phiếu cho cổ đông
hiện hữu (3 cổ phiếu cũ được chia thêm 01 cổ phiếu mới). Ngoài ra, trong năm 2010,
cổ đông FPT sẽ được tạm ứng cổ tức bằng tiền mặt tối thiểu 15% và chia cổ phiếu
thưởng 25% (tỷ lệ 4:1 - 04 cổ phần hiện hữu sau khi chia cổ tức bằng cổ phiếu được
thêm 01 cổ phần mới).

Bảng số liệu năm 2010
Cổ đông
Cổ đông nhà nước
Cổ đông khác

Cổ đông nước ngoài
Tổng
Nợ tích lũy

Số lượng cổ phiếu (CP)
10.270.742
76.431.439
55.961279
142.649.197

Tỷ lệ sở hữu (%)
7,20
58,58
39,23
100

25
Lớp HP:1114FMGM0211

GV: Đặng Thu Trang


×