Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Luận văn nhân vật nam trong truyền kì việt nam thời trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

CHU THỊ THANH NHÀN

NHÂN VẬT NAM
TRONG TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
(Khảo sát qua ba tác phẩm Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

CHU THỊ THANH NHÀN

NHÂN VẬT NAM
TRONG TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
(Khảo sát qua ba tác phẩm Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ NHÀN

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới Ts. Nguyễn Thị Nhàn - người trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận văn với đề tài: “Nhân vật nam trong
truyền kì trung đại Việt Nam (Khảo sát qua ba tác phẩm Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục).
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã cung
cấp kiến thức và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm giúp đỡ
tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, tháng 7 năm 2018
HỌC VIÊN

Chu Thị Thanh Nhàn


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là khách quan, trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác.

Hà Nội, tháng 7 năm 2018
HỌC VIÊN

Chu Thị Thanh Nhàn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................7
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7
7. Đóng góp của đề tài.................................................................................................7
8. Cấu trúc luận văn ....................................................................................................8
NỘI DUNG ................................................................................................................9
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................9
1.1. Khái lược về thể loại truyền kì .............................................................................9
1.1.1. Khái niệm truyền kì ...........................................................................................9
1.1.2. Nhân vật trong truyện truyền kì ......................................................................10
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục và Lan Trì kiến văn lục ........................................................................................12
1.2.1. Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người .............................................12
1.2.2. Cơ sở hình thành quan niệm nghệ thuật về con người/nhân vật nam trong Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục .........................................13
1.2.3. Biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người/nhân vật nam qua Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. .................................................19
1.3. Giới thiệu ba tác phẩm: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến

văn lục .......................................................................................................................23
1.3.1. Thánh Tông di thảo .........................................................................................23
1.3.2. Truyền kì mạn lục ............................................................................................25
1.3.3. Lan Trì kiến văn lục ........................................................................................26


CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT NAM TRONG THÁNH TÔNG DI
THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC....................30
2.1. Thống kê số lượng nhân vật nam trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục
và Lan Trì kiến văn lục..............................................................................................30
2.2. Các loại nhân vật nam trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì
kiến văn lục................................................................................................................36
2.2.1. Nhân vật kì ảo .................................................................................................36
2.2.2. Nhân vật tôn giáo ............................................................................................48
2.2.3. Nhân vật nam phàm trần .................................................................................53
2.3. Giá trị biểu hiện của hình tượng nhân vật nam trong Thánh Tông di thảo, Truyền
kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. ...........................................................................66
2.3.1. Giá trị giáo huấn ..............................................................................................66
2.3.2. Giá trị hiện thực...............................................................................................69
2.3.3. Giá trị nhân đạo, nhân văn ..............................................................................74
2.3.4. Nhân vật nam và sự vận động hình tượng nghệ thuật qua ba tác phẩm .........78
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT NAM TRONG
THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN
LỤC ..........................................................................................................................82
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật...............................................................................82
3.1.1. Miêu tả ngoại hình ..........................................................................................82
3.1.2. Miêu tả hành động ...........................................................................................84
3.1.3. Miêu tả tâm lí nhân vật....................................................................................88
3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ...................................................................91
3.2.1. Không gian gia đình, xã hội ............................................................................91

3.2.2. Không gian thiên nhiên và thời gian đêm tối ..................................................94
3.2.3. Không gian/thời gian linh thiêng ....................................................................97
3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật ................................................................................98
3.3.1. Phàm trần hóa nhân vật kì ảo ..........................................................................98
3.3.2. Siêu nhiên hóa nhân vật phàm trần ...............................................................100
3.3.3. Yếu tố kì ảo tín ngưỡng dân gian ..................................................................100


3.3.4. Yếu tố kì ảo tôn giáo .....................................................................................101
3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ..........................................................................103
3.4.1. Ngôn ngữ người trần thuật ............................................................................103
3.4.2. Ngôn ngữ nhân vật ........................................................................................105
KẾT LUẬN ............................................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................113


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cùng với truyện thơ Nôm, văn xuôi tự sự thời trung đại đã góp phần tạo
nên diện mạo văn học Việt Nam. Nó không chỉ là bộ phận cấu thành mà còn phản
ánh trình độ tư duy nghệ thuật của nền văn học dân tộc. Đồng thời, văn xuôi Việt
Nam thời trung đại cũng gắn liền với lịch sử văn học nước nhà.
Truyền kì là một thể loại ra đời trong tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự.
Đó là một dạng thức sáng tác có cội nguồn từ Trung Quốc, được người Việt Nam tiếp
thu, làm giàu cho kho tàng văn hóa dân tộc. Truyền kì có sức hấp dẫn ngòi bút tác giả
cũng như độc giả văn chương. Nhắc đến truyền kì không thể không kể đến những tác
phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn
Dữ), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh).

1.2. Nhân vật là một trong những yếu tố làm nên linh hồn của tác phẩm tự sự.
Nhân vật giúp tác giả gửi gắm, bộc lộ ý tưởng nghệ thuật. Nhân vật cũng là phương
diện giúp nhà văn nhận thức, phản ánh thế giới nhân sinh, thể hiện những quan niệm,
tư tưởng của mình. Bên cạnh cốt truyện, thế giới nhân vật đa dạng phong phú trong
truyền kì góp phần làm nên thành công của các tác phẩm. Cùng với nhân vật nữ, nhân
vật nam cũng chiếm số lượng khá nhiều. Thời trung đại, người đàn ông là trung tâm
của xã hội. Tác giả truyền kì đã tập trung thể hiện họ trong tác phẩm. Đặc biệt, nhân
vật nam trong ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến
văn lục có những điểm gặp gỡ, tương đồng. Qua nhân vật nam, người cầm bút phản
ánh hiện thực cuộc sống, thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn, bộc lộ tài năng văn
chương. Hình tượng nhân vật nam có ý nghĩa thẩm mỹ riêng. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu nhân vật nam trong ba tập truyện trên là một việc làm hết sức cần thiết. Điều đó
sẽ giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tác phẩm. Đồng thời cũng
cho thấy vai trò, vị trí của nhân vật nam trong tác phẩm, nhân vật nam trong đời sống
văn hóa Nho giáo thời trung đại.
1.3. Thể loại truyền kì được đưa vào chương trình giảng dạy ngữ văn ở phổ
thông với một số sáng tác tiêu biểu: Con hổ có nghĩa, Chuyện người con gái Nam


2

Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Trong đó, nhân vật nam là một trong
những hình tượng nhân vật chính được tìm hiểu. Thực hiện đề tài này sẽ giúp tác giả
luận văn có cái nhìn sâu sắc hơn về thể loại truyền kì, hiểu rõ đặc điểm nhân vật trong
truyền kì nhằm phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy ngữ văn ở phổ thông.
Với những lí do khoa học và thực tiễn trên, người viết quyết định chọn đề tài:
“Nhân vật nam trong truyền kì Việt Nam thời trung đại (Khảo sát qua ba tác phẩm
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục)”.
2. Lịch sử vấn đề
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu hiện nay, có thể thấy loại hình nhân vật nam

trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là vấn đề chưa
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm một cách toàn diện như một công trình chuyên
biệt. Những bài nghiên cứu thường đi vào từng tác phẩm riêng lẻ, hoặc kiểu loại nhân
vật nào đó. Trong khả năng tiếp cận tư liệu, tác giả luận văn điểm qua một số bài viết,
một số công trình có đề cập đến nhân vật nam trong ba tác phẩm trên.
2.1. Những nghiên cứu liên quan đến phẩm cách nhân vật và nhân vật
nam trong ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến
văn lục
Trong tiểu luận “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ” (Tạp chí Văn học số 2/1987), Nguyễn Phạm Hùng có nhận xét về biểu
hiện tư tưởng của Nguyễn Dữ. Đây cũng là vấn đề quyết định lớn tới việc xây dựng
thế giới nhân vật trong trong tác phẩm của nhà văn. Ông viết: “…bản thân tư tưởng,
thế giới quan của Nguyễn Dữ cũng biểu hiện sự vận động đầy phức tạp và không loại
trừ khả năng có những mâu thuẫn nhất định. Nhưng về cơ bản, có thể nói các mâu
thuẫn, xung đột của nhiều truyện được triển khai khá thống nhất, tần số lặp lại các
mô thức nghệ thuật trong mối thể hiện các xung đột ở một loạt các tác phẩm viết về
người phụ nữ, người trí thức hay các lực lượng thống trị đã làm cơ sở đáng tin cậy
cho việc xác định khuynh hướng sáng tác của nó”.[21, tr.15]. Cũng trong tiểu luận
này, tác giả đã đề cập đến vấn đề người trí thức phong kiến: “Chưa bao giờ trong văn
học viết, cho tới lúc đó, vua chúa, quan lại, lại được thể hiện một cách hèn kém, bất


3

tài đến thế […]. Quan lại thì độc ác, dâm bạo, bất nhân hoặc có thể như Trụ quốc họ
Thân, tướng quân họ Lý, hoặc cách điệu như thần thuồng luồng…Cũng phải kể đến
cả lưc lượng thần quyền nữa.” [21, tr.114 -115].
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung
đại Việt Nam đã có nhận xét về thế giới nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền
kì mạn lục như sau: “Khác với các tập truyện thần linh, ma quái, anh tú nêu trên,

nhân vật ở đấy đều là nhân vật lịch sử, nhân vật của Thánh Tông di thảo và Truyền
kì mạn lục đều là những người rất đỗi bình thường”[44, tr.350].
Tác giả Trần Thị Băng Thanh khi viết lời tựa Truyền kì mạn lục đã nhấn mạnh:
“vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đạt, bọn gian hiểm, nịnh hót đầy triều đình; những
kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí chiếm
đoạt vợ người, bức hại chồng người [...] đến Hộ Pháp, Long Thần cũng trở thành yêu
quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ chìm đắm trong sắc dục” [22, tr.202].
Nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng cho rằng giọng điệu của Truyền kì mạn lục là
giọng biếm trích, ám chỉ: “Nguyễn Dữ đã kéo các nhân vật từ thế giới thần linh, anh
kiệt xuống thế giới người với đầy đủ những khổ ải, chết chóc, bi thương, hoan lạc,
vui thú, họa phúc, tốt xấu, chính tà” [20, tr.59 - 60].
Trong công trình Văn học Việt Nam từ thế kì X đến giữa thế kỉ XVIII (Tập 2 Đinh Gia Khánh chủ biên), tác giả Bùi Duy Tân đã bàn về thế giới nhân vật trong
Truyền kì mạn lục và đặc biệt có nhiều nhận xét dành cho những nhân vật nam trong
tác phẩm này: “Nguyễn Dữ đã nhìn thấy sự thật: Bọn quan lại thời đại ông nhiều kẻ
không hề có ý tưởng “trí quân trạch dân”, mà dùng thủ đoạn xấu xa để trèo lên bậc
thang danh vọng, để vinh thân phì gia” [23, tr. 513]. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng
định đạo Nho, Phật lúc này đã bộc lộ nhiều mặt tiêu cực. Vì vậy: “Kẻ sĩ chỉ chuộng
hư văn, bo bo mưu lợi ích cho mình. Hơn nữa kẻ sĩ lắm khi chạy theo sự hưởng lạc
đồi bại.” [23, tr.513]; còn sư sãi thì: “là bọn vô lại chuyên nghề trộm” [23, tr.514].
Mặt khác trong bài viết của mình, tác giả Bùi Duy Tân cũng bổ sung: “Trong nhiều
truyện của Truyền kì mạn lục, đối lập với những nhân vật phản diện, tiêu cực, đại


4

biểu cho những cái xấu xa, ông đã xây dựng những nhân vật có nhiều mặt tích cực”
[23, tr.517].
Cùng dòng cảm hứng với các nhà nghiên cứu trên, tác giả Vũ Thanh khi bàn
về vai trò của Nguyễn Dữ trong Truyền Kì mạn lục đối với truyện truyền kì Đông Á
đã có nhận định sau: “Vua thì thường dối trá, tính nhiều tham dục... (Chuyện đối đáp

của tiều phu ở núi Na), quan lại thì hung tợn, tham lam, hiếu sắc như Lí Hữu Chi (Lý
tướng quân), hoặc nham hiểm và thâm độc như Thân trụ quốc (Chuyện nàng Thúy
Tiêu)”[46, tr.5].
Trong cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2012, tác giả Trần Nho Thìn đã trình bày về thế giới nhân vật trong Truyền
kì mạn lục. Ở mục này, ông đã khái quát đặc điểm của các nhân vật trí thức, nhân vật
đạo sĩ và người nhà chùa. Từ đó, tác giả chỉ ra quan niệm, tư tưởng của Nguyễn Dữ
trong tác phẩm.
Trong bài “Chân dung nho sĩ và tư tưởng của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn
lục” (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1/2015) tác giả Ngô Thị Phượng đã khảo sát,
phân loại nhân vật nho sĩ trong tác phẩm Truyền kì mạn lục và chỉ ra giá trị tư tưởng
của dạng thức nhân vật này.
Cũng trong Tạp chí trên, tác giả Đỗ Mĩ Phương có bài “Nhân vật mang màu
sắc kì ảo trong truyện truyền kì Việt Nam thời trung đại”. Trong bài viết, tác giả đã
chỉ ra đặc điểm của nhân vật mang màu sắc kì ảo và đóng góp của loại hình nhân vật
này cho thể loại truyền kì Việt Nam.
2.2. Những vấn đề liên quan đến nghệ thuật xây dựng nhân vật nam trong
ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục
Tác giả Bùi Văn Nguyên trong công trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập II
(1978), có đưa ra nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật của Truyền kì mạn lục
như sau: “Truyền kì mạn lục là một tập văn hay, cái hay ở đây không riêng về nội
dung phong phú, chi tiết sinh động, nhưng cái hay ở đây còn ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật, phân tích tâm lý, phô diễn ngôn ngữ” [35, tr.131].


5

Tiểu luận “Yếu tố hư ảo trong Thánh Tông di thảo” của Lê Nhật Ký, in trong
công trình Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc
(Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 1998), đã khẳng định yếu tố kì ảo

có một vai trò quan trọng và là một trong những yếu tố khắc họa hình tượng nhân vật
được sử dụng một cách linh hoạt, đem đến cho tác phẩm những giá trị nhất định.
Cũng trong công trình trên, tác giả Vũ Thanh trong bài “Thánh Tông di thảo
- bước đột khởi trong tiến trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam trung
cổ” đã khẳng định vị trí của Thánh Tông di thảo trong toàn bộ sự phát triển của truyện
ngắn trung đại Việt Nam. Tác giả nhận xét: “Thánh Tông di thảo là một bước tiến
mới trong xu hướng ngày càng mở rộng khả năng sáng tạo nghệ thuật, từng bước
tiến tới thoát khỏi ảnh hưởng thụ động của lối ghi chép đơn thuần […] và là sự bắt
đầu của lối tư duy kiểu mới của người sáng tác thật sự mang bản sắc của nghệ thuật
sáng tạo”[6, tr.422].
Trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử có bàn về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyền kì mạn lục. Tác giả
khẳng định: “Nội tâm các nhân vật được thể hiện bằng thơ - các nhân vật hầu hết đều
làm được thơ […]. Tuy nhiên chưa hẳn đã ý thức đầy đủ về đời sống nội tâm nhân vật
[…]. Ngôn ngữ nhân vật phần nhiều do tác giả nói thay, chưa có sắc thái cá tính”. [44,
tr.352 - 353]
Một tiểu luận của tác giả Trần Nho Thìn có tên “Thi pháp truyện ngắn trung
đại Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 9 và 10/2006) cũng đã đề cập đến các
môtip nhân vật trong truyện trung đại Việt Nam. Ở đây, tác giả chú ý đến nghệ thuật
xây dựng nhân vật, ông cũng chỉ ra: “Lý tưởng của các học thuyết Nho, Phật, Đạo
thường hướng tới những giá trị siêu việt [...]. Lí tưởng ấy chi phối đến việc thể hiện
con người nói chung, trong truyện ngắn nói riêng. Nhưng cũng có lúc, con người với
giá trị trần thế, hiện thực lại hấp dẫn các tác giả hơn. Điều đó đã quy định sự thay
đổi của các yếu tố thi pháp tả nhân vật” [48, tr.184].
Trong công trình Văn học Việt Nam từ thế kì X đến giữa thế kỉ XVIII (Tập 2 –
Đinh Gia Khánh chủ biên), tác giả Bùi Duy Tân cũng có đề cập đến nghệ thuật xây


6


dựng nhân vật trong Truyền kì mạn lục. Ông viết: “Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công
những nhân vật tiểu thuyết có diện mạo tính cách riêng, có cuộc sống riêng bằng những
tình tiết chọn lọc” [23, tr.522].
Tác giả Bùi Duy Tân trong Từ điển văn học (bộ mới) cũng đã đề cập đến nghệ
thuật trong Truyền kì mạn lục: “Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành
tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những
truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và
cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết
hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch,
giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca.
Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động.” [18, tr.1125].
Nhìn chung khi tìm hiểu về loại hình nhân vật nam, các tác giả chủ yếu tìm
hiểu khảo sát nhân vật tri thức, nhân vật nho sĩ, nhân vật kì ảo và đặc điểm của các
kiểu nhân vật này. Các loại hình này có thể chỉ được xem xét ở từng tác phẩm riêng
lẻ (chủ yếu là Truyền kì mạn lục), có khi lại khảo sát ở mức độ rộng (truyện ngắn
trung đại). Về nghệ thuật xây dựng nhân vật nam, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập
đến vai trò của yếu tố kì ảo, nghệ thuật phô diễn tâm lí nhân vật…Tuy nhiên, các
công trình hoặc chỉ đi vào một biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật hoặc chỉ khái
quát chung. Hình tượng nhân vật nam trong ba tác phẩm tiêu biểu chưa được đánh
giá bằng một công trình chuyên sâu nào. Vì vậy, tác giả luận văn đi vào nghiên cứu
loại hình nhân vật nam trong ba tác phẩm của các tác giả trên.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Luận văn nghiên cứu nhân vật nam trong truyền kì qua ba tác phẩm Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục một cách toàn diện: đặc điểm
các loại hình nhân vật nam, giá trị biểu hiện, các phương thức thể hiện nhân vật nam.
3.2. Luận văn góp phần khẳng định giá trị của những sáng tác truyền kì qua ba
tác phẩm. Trong chừng mực, người viết tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật về con
người, những giá trị nhân văn, nhân đạo, giá trị thẩm mĩ của hình tượng nhân vật



7

nam, tư tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ, sự vận động của hình tượng nghệ thuật
qua việc thể hiện loại hình nhân vật nam trong ba tác phẩm trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Luận văn làm rõ những khái niệm liên quan đến đề tài: truyền kì, nhân vật,
quan niệm nghệ thuật về con người.
4.2. Luận văn tìm hiểu hình tượng nhân vật nam trong ba tác phẩm được khảo
sát để chỉ ra các loại hình nhân vật nam, đặc điểm phẩm chất, tính cách, phương thức
xây dựng nhân vật.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dự định sẽ sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn học theo loại thể
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân loại, thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Các phương pháp và thao tác khác: Thi pháp học, phân tích, miêu tả…
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tìm hiểu, nghiên cứu về nhân vật nam trong truyện truyền kì Việt
Nam (đặc điểm loại hình nhân vật nam, giá trị biểu hiện và các phương thức thể hiện)
qua ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.
- Luận văn khảo sát ba tác phẩm qua ba văn bản sau:
+ Thánh Tông di thảo, Tủ sách văn học cổ - trung đại Việt Nam, Nxb Văn hoc
Hà Nội, 2001.
+ Truyền kì mạn lục trong sách Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Nxb
Văn hóa Hà Nội, 2001.
+ Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh, Nxb Hồng Bàng, 2013.
7. Đóng góp của đề tài
Luận văn khảo sát nhân vật nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc

hơn. Từ đó chỉ ra đặc điểm cuộc đời, phẩm chất, số phận của nhân vật và làm rõ một


8

số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật nam trong ba sáng tác. Luận văn cũng
chỉ ra giá trị nhân đạo, nhân văn, thái độ của nghệ sĩ đối với nhân vật nam trong ba
sáng tác, thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của các tác giả. Trong một
chừng mực nào đó, luận văn cũng hướng tới một số nhận xét về sự vận động hình
tượng nghệ thuật nhân vật nam qua các giai đoạn khác nhau thông qua ba tác phẩm
khảo sát.
Từ việc khảo sát nhân vật nam qua ba tác phẩm, luận văn giúp cho việc giảng
dạy các tác phẩm văn học trung đại nói chung, thể loại truyền kì nói riêng tốt hơn.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Đặc điểm nhân vật nam trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục và Lan Trì kiến văn lục
Chương 3: Phương thức thể hiện nhân vật nam trong Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái lược về thể loại truyền kì
1.1.1. Khái niệm truyền kì
Truyền kì là một loại hình tự sự bằng văn xuôi, thuộc văn học viết, có nguồn

gốc từ Trung Quốc. Theo các nhà nghiên cứu, thể loại này xuất hiện từ đời Đường và
tiếp tục phát triển ở các thời đại sau.
Về khái niệm “truyền kì”, có một số cách giải thích như sau:
Giáo sư Trần Đình Sử khi bàn về thi pháp văn học trung đại Việt Nam cho rằng:
“Hai chữ “truyền kì” bao hàm mấy nghĩa sau. Một là có ý chuộng lạ (hiếu kì), […].
Hai là […] chứa đựng nhiều thể, có thể nhận thấy có tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị
luận.” [45, tr.349].
Theo tác giả Nguyễn Đăng Na, trong bài viết “Truyền kì mạn lục dưới góc độ
so sánh văn học” (in trong tập Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam), truyền
kì: “là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết cấu… của
truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người ta gọi chúng là truyền kì”.
Đinh Phan Cẩm Vân định nghĩa: “Truyền kì: sách chép những chuyện kì quái”
(Tạp chí văn học số10/2000).
Như vậy, chúng ta có thể thấy, quan điểm của các nhà nghiên cứu về thể truyền
kì khá thống nhất. Ở đây, chúng tôi đồng quan điểm với nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ
Chi trong Từ điển Văn học (bộ mới), (2004): “Truyện truyền kì là hình thức văn xuôi
tự sự cổ điển Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được các nhà văn
nâng lên thành văn chương bác học sử dụng những mô-típ kì quái hoang đường, lồng
trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế nhằm gợi hứng cho người đọc”.
Truyền kì du nhập vào Việt Nam khá muộn nhưng là thể loại tạo được giá trị và
thành công lớn. Mặc dù còn chịu ảnh hưởng của truyền kì Trung Quốc, nhưng các
tác giả Việt Nam đã có ý thức tiếp thu sáng tạo để truyền kì thành một thể loại quan
trọng của văn học dân tộc. Với các tác phẩm tiêu biểu như: Thánh Tông di thảo (Lê


10

Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm),
Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)…, thể loại này đã khẳng định sự đột phá và chín
muồi của tự sự Việt Nam thời trung đại.

1.1.2. Nhân vật trong truyện truyền kì
1.1.2.1. Khái niệm nhân vật
Về khái niệm nhân vật, hiện nay có khá nhiều tác giả có những cách hiểu, cách
trình bày khác nhau.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “Nhân vật
văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn
tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật
văn học có khi còn là con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho
những đặc điểm giống con người” [2, tr.241].
Giáo trình Lí luận văn học tập 2 do Trần Đình Sử chủ biên đã trình bày khái
niệm nhân vật như sau: “Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng cá
thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo thể
hiện bằng các phương tiện của nghệ thuật ngôn từ” [45, tr.114].
Như vậy, mỗi tác giả đã trình bày những cách hiểu khác nhau về khái niệm nhân
vật. Tuy nhiên, có thể thấy điểm chung ở các khái niệm này là: nhân vật văn học là
đối tượng được tập trung miêu tả trong tác phẩm, là nơi tác giả gửi gắm ý đồ nghệ
thuật. Từ sự nhận thức đó, tác giả luận văn có thể trình bày cách hiểu của mình về
khái niệm nhân vật như sau: nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật được nhà văn
xây dựng trong tác phẩm bằng các phương tiện của nghệ thuật ngôn từ. Nó giúp nhà
văn thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Nhân vật văn học cũng được hiểu đa dạng,
có thể là con người, có thể là thần linh, ma quỷ…cũng có thể là các con vật, các loài
cây…được gắn cho những đặc điểm giống như con người.
Về vai trò của nhân vật trong tác phẩm, nhà nghiên cứu G.N.Pospelov đã khẳng
định: “Nhân vật là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết
định phần lớn vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu” [38,
tr.157]. Như vây, tác giả đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của yếu tố nhân vật trong


11


việc tạo nên giá trị của một tác phẩm. Nhân vật có vai trò khái quát những tính cách,
hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc đời. Khi xây dựng
nhân vật, tác giả luôn gắn liền với việc thể hiện những vấn đề của đời sống hiện thực.
Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con
người và quan niệm về thế giới hiện thực mà nhân vật đó đang sống.
1.1.2.2. Thế giới nhân vật trong truyện truyền kì
Thể truyền kì có được thành công cũng một phần nhờ thế giới nhân vật được xây
dựng công phu trong tác phẩm. Nhân vật chính là một trong các yếu tố tạo nên sức
cuốn hút cho các sáng tác truyền kì. Bởi thế giới nhân vật trong thể loại truyện này vô
cùng phong phú đa dạng. Nhân vật trong truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh.
Chúng có những mối quan hệ với nhau, có thể xâm nhập vào thế giới của nhau.
Xét về nguồn gốc, đặc điểm, nhân vật trong truyền kì gồm hai loại: nhân vật kì
ảo và nhân vật là con người phàm trần. Nhân vật kì ảo là kiểu nhân vật kì lạ, siêu
nhiên, có năng lượng thần kì, không tồn tại trong đời sống hiện thực ở cõi nhân gian.
Những nhân vật ấy thường là thần, tiên, ma, quỷ, yêu tinh…Nhân vật là con người
phàm trần là những con người sống ở cõi trần, không có năng lực siêu nhiên. Tuy
nhiên cũng có một số nhân vật là con người nhưng có cuộc đời, hành trạng chứa đựng
những điều kì lạ.
Dựa vào vai trò của nhân vật đối với cốt truyện, trong truyền kì có nhân vật
chính và nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện trực tiếp (có thể là người
hay nhân vật kì ảo), tham gia trực tiếp vào việc dẫn dắt cốt truyện và thể hiện chủ đề
tư tưởng của tác phẩm. Loại nhân vật xuất hiện ít hoặc chỉ xuất hiện qua lời kể, lời
giới thiệu của nhân vật khác có thể coi là nhân vật phụ.
Ngoài ra, xét về đặc điểm phẩm chất, thế giới nhân vật trong truyện truyền kì
cũng được phân biệt thành nhiều loại. Nếu ở thế giới loài người có người hiền, kẻ ác,
người tốt, kẻ xấu thì trong thế giới nhân vật kì ảo cũng vậy. Thế giới thần có những
vị thần cứu nhân độ thế (thường là thần, tiên, phật), và cũng có cả những kẻ tác yêu,
tác quái gây họa cho con người (thường là ma, quỷ, yêu quái). Bên cạnh những kiểu



12

nhân vật trên, trong truyền kì còn có một số nhân vật không bộc lộ rõ phẩm chất, tích
cách.

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Thánh Tông di thảo, Truyền
kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục
1.2.1. Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người
Đề tài luận văn tìm hiểu về nhân vật nam trong truyện truyền kì qua ba tác phẩm
tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Khi bàn
đến nhân vật nghĩa là bàn đến con người. Vì vậy, ở mục này, người viết muốn trình
bày quan niệm nghệ thuật về con người thông qua việc thể hiện các nhân vật nam
trong ba tác phẩm được khảo sát. Từ việc tìm hiểu đó, ta có thể thấy được ý đồ nghệ
thuật của các tác giả gửi gắm qua hình tượng thẩm mĩ.
Cho đến nay, khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách
lí giải khác nhau:
Đại văn hào Nga thế kỉ XX, M. Gor ki từng nói: “Văn học là nhân học”. Cùng
quan điểm với Gorki, Nhà thơ Tố Hữu cũng khẳng đinh “Con người chính là điểm
xuất phát cũng là đích hướng đến của văn học”. Trong khi đó, trong giáo trình Dẫn
luận thi pháp học, GS Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người
chính là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các
nguyên tắc phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá
trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”[42, tr.55].
Tiếp thu các khái niệm của các nhà nghiên cứu về quan niệm nghệ thuật về con
người, ta có thể hiểu một cách khái quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người
là cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn đồng thời cũng là cách nhà văn thể
hiện con người trong tác phẩm của mình. Quan niệm ấy gắn liền với cách cảm thụ và
biểu hiện chủ quan của chủ thể sáng tạo. Mặt khác, nó quy định phương thức biểu
hiện nhân vật mà nhà văn lựa chọn. Chính vì vậy, nhân vật là hình thức cơ bản để
miêu tả con người trong văn học.

Con người trong thể loại truyền kì cũng mang đặc trưng riêng của thể loại đồng
thời nó cũng thể hiện cách nhìn nhận riêng về cuộc sống ở mỗi tác giả. Quan niệm


13

của Lê Thánh Tông, của Nguyễn Dữ, và Vũ Trinh cũng có những điểm tương đồng
và khác biệt do mỗi tác giả ở mỗi giai thời khác nhau. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật nam
trong các sáng tác sẽ giúp ta khám phá quan niệm nghệ thuật về con người của các
nhà văn.
1.2.2. Cơ sở hình thành quan niệm nghệ thuật về con người/nhân vật nam trong
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục
Quan niệm nghệ thuật của một tác giả chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan. Các yếu tố khách quan có thể kể đến như lịch sử, xã hội, văn hóa,
tư tưởng, thời đại; các yếu tố chủ quan như tính cách, phẩm chất, năng lực, thị hiếu
thẩm mĩ… của tác giả. Trong phạm vi của đề tài, luận văn tìm hiểu những yếu tố cơ
sở cho việc hình thành quan niệm nghệ thuật về con người của các tác giả Lê Thánh
Tông, Nguyễn Dữ và Vũ Trinh. Trong các yếu tố cơ sở ấy có thể kể đến một số yếu
tố then chốt sau:
1.2.2.1. Yếu tố tín ngưỡng dân gian.
Văn hóa Việt Nam là văn hóa nông nghiệp. Con người vốn sùng bái tự nhiên.
Trong đời sống tâm linh, người Việt sớm hình thành tín ngưỡng thờ nhiên thần (thần
núi, thần sông, thần cây…).
Việt Nam lại là nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn hóa khác
nhau. Người Việt không tiếp nhận một cách thụ động những văn hóa ngoại lai mà
luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Sự kết hợp hai yếu tố
đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Trong tín
ngưỡng của người Việt, một số lượng lớn các vị thần được thờ phụng và đặc biệt là
các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức của họ. Họ không thờ duy nhất một vị
thần. Những thần sông, thần núi, thần rừng, thần biển, thổ thần,…ngay cả giao long,

thuồng luồng, rắn,… đều được thờ cúng ở bất kì đâu trên dải đất hình chữ S này.
Quan niệm này có sự chi phối mạnh mẽ đến thế giới quan của các tác giả truyền kì.
Các nhân vật là thần xuất hiện ở cả ba tác phẩm cho thấy, thế giới nhân vật nam có
cơ sở từ tín ngưỡng thờ thần của người Việt.


14

Dân gian cũng quan niệm vạn vật hữu linh (tất cả mọi vật kể cả những vật vô
tri, vô giác đều có linh hồn). Từ cây cối, đồ vật đến các con vật đều đều có thể trở
thành những sinh thể. Ảnh hưởng từ quan niệm này, trong ba tác phẩm khảo sát xuất
hiện các nhân vật nam là tinh của con vật.
Đặc biệt, người Việt còn thờ vong hồn người đã mất. Họ coi trọng sự sống chết,
tin rằng bản thể con người gồm 2 phần: hồn và xác. Quan niệm này chính là cơ sở cho
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ thần. Người ta thờ cúng vong hồn vì tin rằng vong
hồn của người đã chết có thể tồn tại ở cõi âm và có thể hiện về cõi dương gian mà phù
trợ, báo ứng, mà hưng oai, tác quái…
Ngoài ra, tín ngưỡng nhân thần có ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống dân
tộc ta. Theo quan niệm tâm linh (như đã nói ở trên), con người khi chết đi đều có
vong hồn. Tuy nhiên, với những người có công lao với cộng đồng, có trí tuệ lớn lao,
khi chết đi sẽ được hiển linh thành thần. Để phục vụ cho tập tục này, người ta đã xây
dựng hệ thống đình, đền, miếu mạo ở khắp mọi nơi. Tín ngưỡng thờ thần cũng trở
thành một nét văn hóa phổ biến trong cộng đồng. Vì vậy, thế giới nhân vật trong
truyền kì cũng mang đậm dấu ấn của văn hóa này.
Như vậy, tín ngưỡng dân gian chính là một trong những cơ sở cho quan niệm
nghệ thuật về con người của ba tác giả truyền kì. Chúng ta sẽ thấy rất rõ sự khúc xạ
này khi đi sâu tìm hiểu nghiên cứu cụ thể nhân vật nam trong ba tác phẩm khảo sát.
1.2.2.2. Tư tưởng Nho giáo
Văn hóa Nho giáo suy cho cùng là văn hóa nam quyền, đề cao uy quyền của
nam nhân. Các chuẩn mực giá trị của nam nhi tập trung trong các mối quan hệ và các

phẩm chất cần có. Đó là tam cương, ngũ thường. Trong quan niệm của đạo nho, cái
học luôn được đề cao. Học hành, thi cử là một trong những con đường chủ yếu giúp
nam nhi trong xã hội phong kiến lập công, lưu danh. Họ thực hiện tốt câu chuyện “tu,
tề, trị, bình”. Đây là điểm tích cực của Nho gia. Những lí tưởng tốt đẹp này đã thúc
đẩy sự đóng góp của người nam nhi cho cộng đồng, cho xã hội. Bản thân là những
nhà nho và chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng của nho gia, các tác giả Lê Thánh Tông,
Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã thể hiện tư tưởng ấy qua thế giới nhân vật nam. Tầng lớp


15

tri thức nho sĩ chiếm số lượng khá đông đảo trong ba tác phẩm khảo sát. Từ các nho
sinh chưa đỗ đạt đến quan lại đều là những tín đồ của nho gia.
Trong gia đình, Nho giáo chủ trương đàn ông là trụ cột. Đó là mô hình gia đình
phụ quyền. Trong gia đình ấy, người đàn ông làm chủ, quyết định đời sống tinh thần
cũng như công việc. Người phụ nữ chỉ thuận tòng. Họ thuận tòng cả những điều phi
lí nhất.
Qua phần trình bày trên đây, chúng ta có thể nhận thấy sự ảnh hưởng của Nho
giáo đối với người đàn ông trong xã hội phong kiến tương đối đậm nét. Nó không chỉ
là sự ảnh hưởng trong đời sống hàng ngày mà nó còn được phản ảnh rất sâu sắc trong
văn chương truyền kì.
1.2.2.3. Phật giáo và Đạo giáo
Cùng với Nho giáo, Phật giáo vá Đạo giáo sớm du nhập vào Việt Nam. Trong
quá trình phát triển của văn học trung đại, tôn giáo đã cung cấp cảm hứng, chủ đề và
gợi ý một số thể loại văn học, trong đó có thể truyền kì.
Phật giáo có sức ảnh hưởng và tác động rộng khắp đến hầu hết các tầng lớp
trong xã hội, nhất là tầng lớp bình dân. Tư tưởng triết học Phật giáo là tư tưởng triết
học hướng nội, đề cao chữ “tâm”, là tôn giáo vì con người và về con người, hướng
con người vươn tới cái thiện. Trong nhiều cảnh giới, Phật giáo cũng kêu gọi con
người phải từ bỏ những bản năng thấp hèn như ái dục (ham muốn), vô minh (kém

sáng suốt), tham - sân - si (lòng tham, giận dữ, ngu dốt). Phật giáo chi phối sâu sắc
đời sống sinh hoạt của con người, của tác giả văn học thời trung đại. Những quan
niệm nhân quả báo ứng, luân hồi, chuyển kiếp được biểu hiện khá rõ qua những sáng
tác truyền kì khảo sát.
Bên cạnh Nho giáo và Phật giáo thì Đạo giáo cũng là một trong những tôn giáo có
ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống của người Việt Nam. Đạo giáo có nguồn gốc từ
Trung Quốc là một trong những hệ tư tưởng lớn của đất nước có nền văn minh cổ xưa
nhất này. Đạo giáo có nhiều phái. Ảnh hưởng tới giới trí thức Việt Nam thời trung
đại sâu sắc nhất là đạo tu tiên với chủ trương dạy tu luyện, luyện đan, cầu trường sinh
bất tử. Mặt khác, Đạo giáo phù phù thủy dễ dàng bắt rễ, ăn sâu vào văn hóa của người


16

Việt bởi từ xưa họ đã rất sùng bái ma thuật, những quyền lực siêu nhiên, phù
phép…Họ tin người chết có thể giao tiếp với người sống, vong hồn đã chết cần được
thờ cúng, lập đàn tràng giải oan, các phép thuật bói toán, trừ tà, trừ bệnh có thể cứu
giúp, giải thoát con người.
Bên cạnh đó, tư tưởng Lão - Trang có ảnh hưởng sâu xa trong tâm thức của người
Việt Nam. Tư tưởng Lão - Trang đề cao tự nhiên, quay trở về cuộc sống hòa hợp với
tự nhiên, chủ trương bất tranh, không tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những
hệ lụy cuộc đời. Ảnh hưởng từ học thuyết tư tưởng này, tác giả truyền kì đã xây dựng
rất nhiều hình tượng nhân vật trí thức có tư tưởng phóng khoáng tự do, không thích
đem thân vào vòng danh lợi, tìm cảnh an nhàn, ung dung, tự tại.
Tóm lại, tín ngưỡng tôn giáo là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đền đời sống văn
hóa dân gian đồng thời chi phối tư tưởng, quan điểm của các người cầm bút thời trung
đại. Đọc các tác phẩm truyền kì, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ điều này trong các
sáng tác.
1.2.2.4. Hiện thực đời sống xã hội đương thời
Văn học phản ánh hiện thực và con người bao giờ cũng là sản phẩm của một

hoàn cảnh cụ thể nào đó. Nhân vật nam trong văn học trung đại nói chung và trong
các tác phẩm truyền kì cũng góp phần tái hiện đời sống xã hội. Xây dựng hình tượng
nhân vật nam, tác giả truyền kì đã chịu sự chi phối mạnh mẽ từ hoàn cảnh hiện thực.
Trong Thánh Tông di thảo, tác giả ngợi ca cuộc sống thanh bình của một xã hội
phong kiến thịnh trị. Chủ thể sáng tác cũng đề cao trật tự phong kiến và những con
người chấp chính. Nội dung ấy phản chiếu một phần gương mặt xã hội đương thời nửa
cuối thế kỉ XV. Đại Việt sử ký toàn thư nhận định về thời Lê Thánh Tông như sau:: "Vua
sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua
anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được”
[36, tr.429].
Sau thời đại thịnh trị của Lê Thánh Tông, chế độ phong kiến bắt đầu có những
biểu hiện khủng hoảng. Những hôn quân xuất hiện như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực.
Ngoài xã hội, tình trạng đạo đức xuống cấp, nhân tình thế thái rối loạn. Các tập đoàn


17

phong kiến tranh giành quyền lực, nội chiến liên miên. Trước thực tại đó, tầng lớp trí
thức bắt đầu phân hóa. Lý tưởng kẻ sĩ lung lay. Nguyễn Dữ chọn con đường ở ẩn nơi
núi rừng để giữ mình trong sạch. Ông chỉ buông bỏ công danh mà không lãng quên
hiện thực đang diễn ra. Mượn xưa để nói nay, mượn cái kì ảo để để nói cái thật, ông
viết Truyền kì mạn lục để tái hiện thực trạng xã hội.
Nếu Nguyễn Dữ sống trong giai thời chế độ phong bắt đầu đi xuống thì Vũ
Trinh sống trong giai đoạn đầy biến động, thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tây Sơn
đánh đuổi quân Thanh xâm lược, triều Lê sụp đổ, rồi Nhà Nguyễn tiêu diệt Tây Sơn.
Biết bao biến cố lớn của lịch sử diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Lan Trì
kiến văn lục ra đời trong bối cảnh lịch sử đó (thời gian ông sống ẩn dật ở Hồ Sơn
(Nam Định), khoảng những năm 1793-1794 cuối đời Tây Sơn, đầu đời Gia Long).
Với những câu chuyện thật, hoặc hư cấu, Vũ Trinh đã phản ánh một cách sinh động
thời cuộc bể dâu và nỗi đau đớn của con người trước hưng vong của lịch sử.

1.2.2.5. Yếu tố tác giả - chủ thể sáng tạo
Bên cạnh những yếu tố tác động từ bên ngoài, cá nhân nhà văn/chủ thể sáng tạo
có vai trò quyết định trực tiếp đến quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm.
Các yếu tố về bản thân tác giả như tiểu sử, cuộc đời, con người, quan điểm, tư tưởng
sẽ chi phối tư duy nghệ thuật, quan điểm của nhà văn trong cách nhìn nhận con người,
cắt nghĩa hiện thực và thể hiện hình tượng trong tác phẩm.
Qua ba tác phẩm: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn
lục, ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người của ba tác giả có sự khác biệt. Căn
nguyên của nó chính là do các tác giả sống ở những thời đại khác nhau, thân phận,
địa vị, con người và số phận khác nhau.
Lê Thánh Tông (1442-1497) là hoàng đế thứ năm của vương triều Hậu Lê
nước Đại Việt. Đây là vị vua anh minh, sáng suốt. Suốt 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông
đã thi hành nhiều chính sách cải cách quan trọng trong lịch sử nước nhà. Thời Lê
Thánh Tông, nhà nước vững vàng, nho học cực thịnh. Thời đó, trí thức được tôn vinh,
người tài được trọng dụng.
Những đặc điểm riêng về phẩm chất cá nhân, quan điểm của Lê Thánh Tông
được thể hiện rất rõ trong các sáng tác thơ văn của ông cùng quần thần qua tập Hồng


18

Đức quốc âm thi tập. Ở tập thơ này, cảm hứng tụng ca xuyên suốt các sáng tác. Vua
tôi Lê Thánh Tông tập trung vào các chủ đề: vua sáng, tôi hiền; tái hiện bức tranh xã
hội thái bình thịnh trị; đạo đức phong kiến. Có thể kể đến một số bài như: Vịnh năm
canh, Tự thuật, Quân thần, Huynh đệ, Khổng Thánh Văn Miếu, Quân tử trúc… Trong
Thánh Tông di thảo cảm hứng ngợi ca giang sơn, xã tắc và tư tưởng giáo huấn vẫn là
cảm hứng chủ đạo. Dù nói về chuyện yêu ma hay thần phật nhưng nhà vua vẫn hướng
người đọc đến những tấm gương đạo đức hoặc nhắc nhở con người về trách nhiệm
với đất nước.
Nguyễn Dữ xuất thân trong một gia đình khoa bảng (Cha ông là tiến sĩ đời Lê

Thánh Tông), bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao. Giống như nhiều trí thức
đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Chiến tranh kéo dài, xã
hội rối ren kéo theo sự đổ vỡ lí tưởng của tầng lớp nho gia. Bản thân Nguyễn Dữ
cũng không nằm ngoài vòng xoáy ấy. Điều đặc biệt ở ông so với các nhà nho ẩn dật
khác thời trung đại như Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Ngô Thế Lân hay Nguyễn
Khuyến chính là: từ sự bất đắc chí, bất hợp tác với triều đại đương thời, Nguyễn Dữ
đã nhanh chóng chuyển ẩn dật trở thành một lẽ sống, một lối sống. Ông thoả mãn,
yên tâm và yên tĩnh với lối sống đó cho đến hết cuộc đời. Sáng tác của ông theo đó
mà không mang cảm xúc dằn vặt đến đớn đau, khắc khoải, không mang tâm trạng
lưỡng lự giữa sự ở và về như một số nhà nho ở ẩn khác. Nguyễn Dữ cũng chính là
một trong số ít nho sĩ ẩn dật phát biểu và mô tả khá trực diện về đặc điểm lối sống ẩn
dật của mình. Đặc biệt trong tác phẩm Truyền kì mạn lục, ông thể hiện khá rõ điều
này (Cuộc đối đáp của người tiểu phu núi Na).
Khác với Nguyễn Dữ, Vũ Trinh lại là một nhà nho có lối hành xử đặc biệt hơn.
Ông sinh ra trong gia đình nho học và quan lại nhưng cuộc đời lại nổi chìm cùng
những dâu bể của một thời loạn lạc. Vũ Trinh dốc hết sản nghiệp phò Lê nhưng bất
thành. Khi triều Tây Sơn chấm dứt, Vũ Trinh làm quan cho Gia Long. Nhưng sau vụ
bênh con trai Nguyễn Văn Thành - tổng trấn Bắc Hà có thơ phản nghịch, Vũ Trinh bị
bắt đi đày ở Quảng Nam 12 năm, ông mất lúc 70 tuổi.


×