Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Luận văn nhân vật nữ trong truyện ngắn lê minh hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
LÊ MINH HÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
LÊ MINH HÀ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số : 8 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kiều Anh

HÀ NỘI, 2018



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến cô giáo TS. Nguyễn
Thị Kiều Anh- người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn,
đặc biệt là thầy cô trong tổ Lí luận văn học, cùng các thầy cô giáo phòng Sau
Đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình triển khai luận văn.
Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 2018
Học viên

Nguyễn Thị Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết
quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung
tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 2018
Học viên

Nguyễn Thị Thủy


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
5.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 5
5.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 6
8. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÂN VẬT VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC VĂN CHƢƠNG CỦA LÊ MINH HÀ ....................... 7
1.1. Khái lược về nhân vật văn học................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm nhân vật ........................................................................... 7
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ................................... 8
1.1.3. Phân loại nhân vật văn học ............................................................... 9
1.2. Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam ................................................... 12
1.2.1. Đặc điểm nhân vật nữ trong văn học Việt Nam truyền thống ........ 12
1.2.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong văn học Việt Nam hiện đại ............... 14
1.3. Hành trình sáng tác văn chương của Lê Minh Hà ................................ 18
1.3.1. Vài nét tiểu sử ................................................................................. 18


1.3.2. Hành trình sáng tác văn chương ..................................................... 18
Chƣơng 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
LÊ MINH HÀ ................................................................................................ 22
2.1. Nhân vật nữ khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi ............................. 25

2.2. Nhân vật nữ mang số phận bi kịch........................................................ 31
2.2.1. Nhân vật nữ với số phận tình yêu dang dở ..................................... 32
2.2.2. Người phụ nữ bạc phận, cô đơn ...................................................... 39
2.2.3. Người phụ nữ với niềm day dứt khôn nguôi .................................. 48
2.3. Nhân vật mang vẻ đẹp thiên tính nữ ..................................................... 53
2.3.1. Khái niệm thiên tính nữ .................................................................. 53
2.3.2. Vẻ đẹp thiên tính nữ qua ngoại hình ............................................... 54
2.3.3. Vẻ đẹp thiên tính nữ qua tâm hồn, phẩm chất. ............................... 59
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH HÀ ................................................................. 66
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 66
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ........................................................ 66
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí ................................................................ 75
3.2. Nghệ thuật trần thuật ............................................................................. 85
3.2.1. Người kể chuyện ............................................................................. 85
3.2.2. Giọng điệu trần thuật ...................................................................... 92
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ…………………… 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nhân vật là yếu tố hàng đầu, là linh hồn của tác phẩm văn học.
Qua nhân vật, nhà văn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, quan điểm thẩm mĩ của
mình về cuộc đời và con người. Việc tìm hiểu nhân vật giúp người nghiên cứu
nhận diện những diễn biến tư tưởng, cảm quan đời sống và thi pháp nghệ
thuật của nhà văn, từ đó có cơ sở để khẳng định những đóng góp riêng của
nhà văn vào tiến trình văn học dân tộc.

1.2. Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt là từ 1986 khi chính thức
được khích lệ đổi mới, dường như ở hầu khắp các thể loại đều bùng lên một
cao trào tìm tòi, cách tân, thể nghiệm khiến cho đời sống văn học trở nên sôi
động. Trong đó phải kể đến truyện ngắn với sự đóng góp của nhiều cây bút nữ
như Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy... Họ là nhà văn nữ viết về chính giới mình, nên
họ thấu hiểu tâm lí và đồng cảm sâu sắc với người phụ nữ. Họ đã góp phần
làm thay đổi diện mạo của văn xuôi đương đại.
1.3. Đồng hành với văn chương trong nước, các nhà văn Việt Nam ở
hải ngoại không chỉ nhận được sự chia sẻ của cộng đồng nơi xa xứ mà còn thu
hút được sự quan tâm của công chúng trong nước. Độc giả và giới nghiên cứu
gần đây đã thừa nhận: ở khu vực văn chương hải ngoại đã xuất hiện những
cây bút đặc sắc và có tài năng thực sự như Phạm Thị Hoài, Trần Vũ, Võ Đình,
Mai Ninh, Phạm Hải Anh, Lê Minh Hà….
Lê Minh Hà là cái tên đã trở nên khá quen thuộc trong đời sống văn
học đương đại do sự sáng tạo mang dấu ấn riêng ở các thể loại truyện ngắn,
tản văn, tiểu thuyết. Từng là sinh viên của trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
sau đó giảng dạy tại một trường chuyên nổi tiếng ở Hà Nội, do hoàn cảnh
riêng, Lê Minh Hà rời đất nước tới định cư ở Đức rồi viết văn. Tính đến nay,


2
Lê Minh Hà hiện diện trong đời sống văn học đã được gần hai mươi năm. Bà
được công chúng Việt Nam ở hải ngoại nhiệt liệt cổ vũ. Sách của Lê Minh Hà
cũng được các nhà xuất bản trong nước tái bản nhiều lần và đang gây hiệu
ứng tích cực, rộng rãi. Với đề tài Nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh
Hà chúng tôi mong muốn thấy được dấu ấn riêng và những đóng góp của Lê
Minh Hà vào quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong thời kì đổi
mới. Đây là đề tài có ý nghĩa lịch sử văn học nhất định.
2. Lịch sử vấn đề

Truyện ngắn Lê Minh Hà ngay từ khi xuất hiện đã hấp dẫn công chúng
và giới nghiên cứu phê bình.
Trước tiên, trong bài phỏng vấn Lê Minh Hà của nhà báo Lê Quỳnh
Mai thực hiện (Phát thanh ngày 27/5/2001 trong chương trình Văn học nghệ
thuật Đài tiếng nói Việt Nam FM 103.3. Montreal - Canada), nhà báo đã có
những nhận định sâu sắc về sự giản dị, gần gũi mà độc đáo về mặt đề tài “Các
truyện ngắn của Lê Minh Hà trước đây thường xoay quanh hai đề tài: những
mảnh đời tại quê nhà và những mảnh đời tha hương nơi đất khách. Giờ đây,
độc giả thấy xuất hiện những truyện ngắn của chị dựa theo cổ tích và lịch sử”
[36].
Tác giả T.H trong bài viết Truyện cổ viết lại - những góc nhìn mới
giữa cổ tích và đời thường (31 tháng 5 năm 2006 đã có những phát hiện mới
mẻ, độc đáo. Đọc Truyện cổ viết lại của Lê Minh Hà và Lê Đạt, tác giả cho
rằng phải chăng mỗi một truyện trong 19 truyện ngắn được in trong Truyện
cổ viết lại thể hiện sự trải lòng, nghiền ngẫm, phân tích và viết lại những tình
huống hệ lụy sau cuộc đời huyền thoại của các nhân vật bước ra từ các câu
chuyện cổ: “Dưới ngòi bút của nhà văn Lê Minh Hà, những người phụ nữ của
truyện cổ Việt Nam được đặt giữa hiện thực xã hội, chứ không ở thế giới đơn
giản và trong trẻo của cổ tích. Truyện cổ là cái cớ để tác giả bộc lộ cái nhìn


3
nhân hậu, đầy trắc ẩn với thân phận người phụ nữ trong xã hội “trọng nam
khinh nữ” xưa” [16]. Có lẽ qua những câu chuyện cổ được viết lại, tác giả Lê
Minh Hà muốn “giải thoát” và nêu lên khát vọng hạnh phúc của những người
phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi.
Trong bài viết Truyện ngắn Lê Minh Hà và những cửa sổ đóng kín
(Wednesday, March 07, 2012 1:48:04 PM) Du Tử Lê đã khẳng định: “Nhờ
được sống, thở không khí tự do ở nước ngoài nên Lê Minh Hà có cơ hội gửi
tới độc giả của mình những mảnh đời đen tối, phần chìm lấp dưới tầng sâu

của những tảng băng hiện thực xã hội hôm nay” [31]. Ngòi bút Lê Minh Hà
“điềm nhiên, nhẩn nha khiến những độc giả nhiều tình cảm có thể chảy nước
mắt” khi ghi nhận từng sự kiện, từng bước chân trong hành trình lao động
thời đại mới, từ giai đoạn hối lộ, thậm chí bán vợ, đợ con, để được vào danh
sách “lao động xuất cảng” tới những hoạt cảnh phũ phàng khi những kẻ được
coi là “may mắn” bắt đầu cuộc sống mới nơi xứ người. Có thể nói: “Bằng vào
kinh nghiệm sống và óc quan sát tinh tế của một nhà văn, khi chọn cho mình
con đường văn chương hiện thực xã hội, Lê Minh Hà đã viết một cách điềm
tĩnh, dễ dàng như thò tay vào túi lấy ra một vật vốn sẵn đấy” [31].
Bài phỏng vấn Lê Minh Hà với dòng kí ức nơi xa xứ (11.04.2012
14:53 - Nhịp cầu thế giới Online) do Minh Thư - Trọng Tuấn thực hiện với
chủ đề “Thương thế ngày xưa”, tác giả đã đưa người đọc trở về với những
hoài niệm, có lúc êm dịu nhưng đa phần là khắc khoải và chua xót về những
ngày khó nhọc, đói nghèo của một tuổi trẻ bị khó khăn thời chiến tranh và hậu
chiến ghì sát đất nhưng vẫn không từ bỏ được khát khao. “Truyện ngắn, tản
văn và tiểu thuyết của chị, bởi thế, thông qua những trải nghiệm cùng năm
tháng và thời thế, luôn bàng bạc nỗi hoài nhớ về một thời, mà như nhà phê
bình Phạm Xuân Nguyên từng nhận xét, xao xác, xót xa rất nhiều trên những
trang sách này” [51].


4
Nhà văn Nguyễn Việt Hà trong bài giới thiệu tập truyện Cổ tích cho
ngày mới đã đồng cảm với cái nhìn của Lê Minh Hà về những câu chuyện cổ
khi nhận xét: “Cổ tích cho ngày mới vẫn nồng nàn một kiểu buốt nhói đương
đại riêng có ở Lê Minh Hà”. Điều đó có được là nhờ “cái hằng số tính nữ luôn
tinh tế đẫm chặt trong văn của Hà” và “Một giọng điệu huyền hoặc phức tạp
dĩ ngoa truyền ngoa chỉ riêng có ở những thị dân. Nó bất chấp những cái kết
có hậu của sâu xa truyền thống” [14]. Đó cũng là những lời đánh giá tuyệt vời
của những nhà văn đồng lứa dành cho nhau.

Bên cạnh đó còn một số bài viết khác như đánh giá của Linh Thoại về
Thương thế ngày xưa, Những giọt trầm (Báo Tuổi trẻ…) hay lời tâm sự của
chính tác giả Lê Minh Hà Tôi viết văn trên tinh thần lụy Tiếng Việt (Báo Thể
thao và văn hóa… , những bài viết đó hoặc là tìm thấy sự đồng cảm hoặc ghi
nhận những nỗ lực của của nhà văn trong mỗi ý tưởng và trên mỗi trang viết.
Tất cả các ý kiến về sáng tác của Lê Minh Hà còn lẻ tẻ, tản mạn hoặc đi
sâu vào một số tác phẩm. Đến nay mới chỉ có một luận văn thạc sĩ với đề tài
Đặc điểm truyện ngắn Lê Minh Hà của tác giả Ngô Thị Lê Ly thực hiện tại
trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào năm 2014 là một nghiên cứu tổng hợp
về đặc điểm nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Hà, còn việc nghiên
cứu về nhân vật nữ trong sáng tác của Lê Minh Hà vẫn chưa được quan tâm
thỏa đáng.
Trên cơ sở kế thừa ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đó, luận văn
của chúng tôi tập trung nghiên cứu đề tài Nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê
Minh Hà với hi vọng sẽ thấy được đặc điểm từng kiểu nhân vật nữ gắn với
nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Hà. Đồng thời thấy được sự đóng góp của tác
giả vào sự vận động của truyện ngắn nữ đương đại nói riêng và văn học
đương đại Việt Nam nói chung.


5
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn cần làm rõ những đặc điểm của nhân vật nữ gắn với nghệ
thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Hà từ đó thấy được
phong cách và đóng góp của nhà văn trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên nền tảng lí thuyết về nhân vật và hành trình sáng tác văn chương
của Lê Minh Hà, chúng tôi tập trung tìm hiểu về loại hình nhân vật nữ trong
truyện ngắn của nhà văn và nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ; có sự đối sánh
với một số cây bút đương đại để thấy được những nét độc đáo trong cảm quan

đời sống và thi pháp nghệ thuật của Lê Minh Hà trong truyện ngắn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu nhân vật nữ trong một số tập truyện ngắn
của Lê Minh Hà gắn với đặc điểm loại hình và nghệ thuật biểu hiện.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu nhân vật nữ qua việc khảo sát một số tập
truyện ngắn tiêu biểu của Lê Minh Hà như:
Sâm cầm (in chung với Phạm Hải Anh) - Văn Mới, Mĩ, 2001
Những gặp gỡ không ngờ - Nhà xuất bản trẻ, 2012
Cổ tích cho ngày mới - Nhà xuất bản trẻ, 2017
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp loại hình


6
7. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ đặc điểm các kiểu nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lê
Minh Hà.
- Bước đầu khẳng định vị trí, tài năng và những đóng góp của nhà văn
trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về nhân vật và hành trình sáng tác văn

chương của Lê Minh Hà.
Chương 2: Các kiểu nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh Hà.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong truyên ngắn Lê
Minh Hà.


7

NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÂN VẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
VĂN CHƢƠNG CỦA LÊ MINH HÀ
1.1. Khái lƣợc về nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu của tác phẩm văn chương. Về
khái niệm nhân vật, có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là:
“Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn
học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha , cũng có thể không có
tên riêng như thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ
tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện con người. Khái
niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một
con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác
phẩm. Chẳng hạn có thể nói: nhân dân là nhân vật chính trong Đất nước
đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơ-giê-ni Gơrăng-đê của Ban-dắc.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể
đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống” [17, tr.235].
Đây là một quan niệm cụ thể, chi tiết về nhân vật văn học, các tác giả
chỉ ra đối tượng tiềm tàng có thể trở thành nhân vật.
Còn Từ điển văn học thì định nghĩa:

“Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để
bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất
hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung
giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm văn học” [57, tr.86].


8
Với cách hiểu trên, các tác giả đã nhìn nhân vật từ khía cạnh vai trò,
chức năng và mối quan hệ với các yếu tố hình thức trong tác phẩm.
Như vậy, các quan niệm trên đây nhìn nhận nhân vật ở nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng vẫn có sự gặp gỡ ở một số điểm nhất định như: nhân vật là
đối tượng mà văn học miêu tả, được xây dựng bằng những phương tiện
nghệ thuật nhằm phản ánh đời sống hiện thực; là yếu tố cơ bản nhất của tác
phẩm, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn; góp phần bộc lộ chủ đề, tư tưởng
của tác phẩm.
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Trước hết “Văn học không thể thiếu nhân vật vì đó chính là phương
tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng”. Cuộc sống
là một bức tranh đa sắc, mỗi nhà văn lại chiếm lĩnh một khía cạnh riêng và
nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của đời sống
trong một thời kì nhất định. Trong văn học hiện thực phê phán, qua hình
tượng nhân vật người nông dân nghèo như chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo, lão
Hạc… nhà văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đã dựng lên một
bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo nàn, xơ xác trước cách mạng; phản ánh
hiện tượng người nông dân bị bần cùng hóa không lối thoát, thậm chí bị tha
hóa, biến chất. Đến văn học cách mạng, gắn với thời đại “ra ngõ gặp anh
hùng”, những người lính trên mặt trận vũ trang, những cô thanh niên xung
phong đến những người phụ nữ nông thôn đã đắp xây một tượng đài về đất
nước nhân dân đau thương mà rất đỗi anh hùng. Qua nhân vật, hiện thực cuộc
sống hiện lên sống động trên các trang văn.

Nhân vật còn là nơi để tác giả gửi gắm tư tưởng nghệ thuật của mình về
cuộc sống và con người. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn
liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm của
mình. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định


9
những nét tính cách, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực cuộc sống và
quan niệm nghệ thuật mà nhà văn muốn thể hiện. Đằng sau nhiều nhân vật
trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và
nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người về hạnh phúc, về tự do, công lí,
thể hiện triết lí “ở hiền gặp lành” của người nghệ sĩ dân gian. Thuyết “tài
mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận” cũng được đại thi hào Nguyễn Du thể
hiện thấm thía qua kiếp đoạn trường mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều.
Nguyễn Du đã nhìn đời bằng con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc
đời để thấu hiểu, yêu thương. Còn nhà văn Nguyễn Minh Châu đã không quản
nhọc nhằn để đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn những người lao
động nghèo mà nhiều khi bị lấm láp bùn lầy che khuất trong cuộc sống mưu
sinh nhọc nhằn. Với người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa,
nhà văn đã để cho Phùng và Đẩu, cho người đọc ngộ ra nhiều điều về cuộc
sống và con người: cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, luôn tồn tại những
mặt tốt - xấu, người nghệ sĩ phải trải nghiệm, đi sâu tìm hiểu thì mới tiệm cận
được quy luật cuộc đời.
Nhân vật sẽ quyết định hình thức của tác phẩm từ việc lựa chọn ngôi
kể, kết cấu, cốt truyện đến các biện pháp nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu.
Nếu rút nhân vật ra khỏi chỉnh thể nghệ thuật ấy thì sẽ không còn tác phẩm.
Tóm lại, nhân vật văn học là yếu tố quan trọng trong tác phẩm vì nhân
vật là phương tiện để khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nói cách khác,
nhân vật có chức năng thể hiện tính cách, số phận và các quan niệm nghệ
thuật, lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Qua đó, nhân vật dẫn dắt ta

đến với đời sống xã hội.
1.1.3. Phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng, những nhân vật
được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc


10
đáo, không lặp lại. Tuy nhiên xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chức
năng… ta thấy nhiều hiện tượng nhân vật lặp lại thành loại nhân vật. Có nhiều
cách phân loại nhân vật văn học dựa vào tiêu chí khác nhau như sau:
* Dựa vào đặc điểm tính cách của nhân vật và lí tưởng xã hội thẩm mĩ
của tác giả và thời đại mà nhà văn phân loại nhân vật thành hai loại:
- Nhân vật chính diện (tích cực : Đặc điểm tốt, phù hợp với tư tưởng
thẩm mĩ của nhà văn.
- Nhân vật phản diện (tiêu cực) mang đặc điểm xấu trái với lí tưởng
thẩm mĩ của nhà văn
Sự phân chia nhân vật chính diện và phản diện gắn liền với những mâu
thẫn đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập giai cấp và
quan điểm tư tưởng, có khi còn là tính cách.
* Dựa vào vai trò của nhân vật đối với nội dung- hình thức của tác
phẩm văn học phân loại nhân vật thành ba loại.
- Nhân vật chính: xuất hiện trong hầu hết các tình huống, tuyến cốt
truyện và cốt truyện, nhân vật chính thường tham dự vào các sự kiện chủ yếu
trong tác phẩm đặc biệt là những xung đột cơ bản và nó thường được khắc
họa đầy đủ về nhiều mặt.
- Nhân vật trung tâm: xuyên suốt từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa, là
nhân vật mang chủ đề, tư tưởng cơ bản của tác phẩm. Nó không chỉ tham gia
vào xung đột mà còn có vai trò tổ chức kết nối những xung đột và mâu thuẫn
ở trong tác phẩm.
- Nhân vật phụ: Là nhân vật thứ yếu trong tác phẩm so với nhân vật

chính và nhân vật trung tâm, là nơi để tham gia bổ sung, đối chiếu so sánh
làm rõ nhân vật chính thường xuất hiện thoáng qua, nhưng cũng có nhân vật
được khắc họa tương đối đậm nét.
* Dựa vào thể loại văn học chia nhân vật thành ba loại:


11
- Nhân vật tự sự: Thể hiện khá đầy đủ ngoại hình, ngôn ngữ và thế giới
nội tâm bên trong của nhân vật. Nhân vật tự sự là con người bình thường
tham gia vào các tình huống khác nhau của đời sống để tạo thành chuỗi các
tình tiết xung đột của tác phẩm.
- Nhân vật trữ tình: là nhân vật được thể hiện qua thế giới trữ tình. Nhân
vật trữ tình không thể hiện qua hành động như nhân vật tự sự và nhân vật kịch,
hoặc nếu có thì đó cũng chỉ là khơi gợi cảm xúc thể hiện thế giới bên trong.
- Nhân vật kịch: Thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, cử chỉ và xung
đột. Trong văn bản kịch sự mô tả bề ngoài chỉ là phụ chú.
* Dựa trên cấu trúc chia làm bốn loại nhân vật:
- Nhân vật chức năng: có vai trò cụ thể trong tác phẩm, không có đời
sống nội tâm, các phẩm chất và đặc điểm nhân vật có tính chất cố định không
thay đổi từ đầu đến cuối tác phẩm. Sự tồn tại và hành động của nó chỉ nhằm
thực hiện một số chức năng cố định. Nhân vật chức năng đồng nhất với vai
trò chức năng của nó.
- Nhân vật loại hình: là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất đạo
đức xã hội của một loại người nhất định nhằm khái quát chung về một loại
tính cách.
- Nhân vật tính cách: có cá tính riêng nổi bật để so sánh với các nhân
vật khác. Thường xuất hiện ở nhân vật chính.
- Nhân vật tư tưởng: xuất hiện trong tác phẩm đại diện cho một tư
tưởng, một ý thức hệ nào đó của tác giả. Nhân vật tư tưởng có thể hiện cá tính
hoặc cá tính được xây dựng chỉ nhằm để minh họa cho một tư tưởng nào đó.

Tóm lại, nhân vật văn học có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau nhưng đều có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, nhân vật là hình tượng nghệ thuật về con người. Bên cạnh
con người thì nhân vật văn học có thể là các con vật, cây cỏ,… nhưng chúng


12
lại mang những đặc điểm như con người, được dùng như những phương thức
khác nhau để biểu hiện con người.
Thứ hai, nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng,
được xây dựng với những đặc điểm về ngoại hình, hành động, suy nghĩ và thế
giới tâm hồn.
Thứ ba, nhân vật văn học là đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ nên
không thể đồng nhất với con người, hay có thật trong cuộc sống.
1.2. Nhân vật nữ trong văn học Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm nhân vật nữ trong văn học Việt Nam truyền thống
Đất nước Việt Nam là đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, của
cánh cò trắng bay, của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng. Từ trong nguồn
mạch dạt dào ấy, người phụ nữ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn
cảm hứng của người nghệ sĩ. Họ là biểu tượng của cái đẹp, là hiện thân của sự
sinh tồn và luân chuyển sự sống. Văn học truyền thống luôn coi hình tượng
phụ nữ là một tâm điểm, qua đó ta thấy được giá trị của con người Việt Nam.
Nhân vật nữ trong văn học dân gian
Nhân vật nữ đại diện cho lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân và điều đó
được thể hiện trong các câu chuyện cổ tích. Họ thường xuất hiện trong nhiều
mô-típ như: cô gái mồ côi, nghèo khổ, hiền lành; cô gái nhà giàu lấy chồng
nghèo khó, người em út… Đó là Tấm trong truyện Tấm Cám, công chúa Tiên
Dung trong Chử Đồng Tử, công chúa trong Thạch Sanh, cô Út trong Sọ
Dừa… Họ đều là nhân vật chính diện, tuy gặp bất hạnh nhưng luôn tỏa sáng
những nét đẹp: dịu hiền, chăm chỉ, giàu lòng nhân ái và cuối cùng họ được

hưởng hạnh phúc. Bên cạnh đó cũng có những nhân vật nữ phản diện, là mẹ
của Lí Thông trong Thạch Sanh, mẹ con Cám trong Tấm Cám, hai cô chị
trong truyện Sọ Dừa… Những nhân vật này thường tham lam, độc ác, đố kị
và có kết cục không tốt đẹp. Dù thiện hay ác, người phụ nữ trong văn học dân


13
gian chủ yếu hiện lên qua hành động và vài nét tính cách đơn giản, nhất quán
để thể hiện ước mơ của tác giả dân gian “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
Trong ca dao, người phụ nữ mang vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng, kín đáo.
Họ ý thức được giá trị của mình, vẻ đẹp của người phụ nữ được ví với “tấm
lụa đào” mềm mại, với “chẽn lúa đòng đòng” mơn mởn phơi phới giữa nắng
hồng ban mai… Nhưng sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ,
người phụ nữ đều chung một số phận khổ đau bất hạnh, mang thân phận phụ
thuộc, không thể tự quyết định cuộc đời mình “phất phơ giữa chợ biết vào tay
ai”… Những câu hát than thân mở đầu bằng mô-típ “thân em” trở thành tiếng
lòng chung của người phụ nữ xưa.
Nhân vật nữ trong văn học trung đại
Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt
vẫn có sự kế thừa văn học dân gian, song mặt khác, “hồng nhan bạc phận”
cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả. Nàng Vũ Nương hiếu
thảo, đảm đang, chung thủy thì bị ngờ oan là thất tiết, đến nỗi phải lấy cái
chết để minh oan. (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ . Người
cung nữ xinh đẹp, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sống cô đơn,
lạnh lẽo nơi cung cấm (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều . Người
chinh phụ đẹp người, đẹp nết phải sống trong cảnh “Thiếp trong cánh cửa,
chàng ngoài chân mây”, chờ đợi chồng trong thương nhớ mỏi mòn, héo úa
tuổi thanh xuân (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn . Nàng Kiều của Nguyễn
Du xinh đẹp tài hoa “Một hai nghiêng nước, nghiêng thành/ Sắc đành đòi một
tài đành họa hai” nhưng bị dập vùi trong cảnh “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai

lần” (Truyện Kiều - Nguyễn Du . Người phụ nữ càng đẹp, càng tài, càng lắm
bất hạnh, khổ đau. Đây là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Câu thơ của Nguyễn Du vì thế chính là khúc “bạc mệnh” tấu lên


14
cho mọi kiếp hồng nhan: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế biết là
tại đâu?”.
Mặt khác, văn học trung đại Việt Nam bước đầu đã phản ánh được
quan niệm về con người cá nhân trong xã hội. Một số nhân vật nữ thể hiện sự
phản kháng, chống đối lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả
là thơ Hồ Xuân Hương . Đặc biệt, văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân
vật. Các tác giả Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương…
khi miêu tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc bạch trực tiếp những
nỗi đau khổ, những niềm riêng tư góp phần bộc lộ sự tự ý thức cá nhân của
con người trong văn học trung đại.
1.2.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong văn học Việt Nam hiện đại
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 tiếp tục khai thác đề tài về
người phụ nữ. Văn học lãng mạn, trong sáng tác của Tự lực văn đoàn đã xây
dựng hình ảnh những người phụ nữ mới vượt qua mọi lễ giáo phong kiến đòi
quyền tự do yêu đương như Nhung trong Lạnh lùng, Loan trong Đoạn tuyệt
của Nhất Linh, Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Họ là những phụ
nữ có bản lĩnh vững vàng, nhận thức được nguyên nhân gây ra nỗi khổ cho
mình, biết vượt qua hoàn cảnh, vượt qua chính mình và tự tạo dựng hạnh
phúc. Còn những người phụ nữ trong truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam lại
tần tảo, chịu thương chịu khó, Tâm trong Cô hàng xén lặng lẽ hi sinh vì
chồng, vì các em “cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc
và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ”.
Văn học hiện thực phê phán lại đi sâu khám phá những bi kịch khác
nhau của người phụ nữ. Đó là cuộc đời cơ cực, lắm đắng cay của chị Dậu

trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng hay
thân phận thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Người phụ nữ trong
các sáng tác của các nhà văn hiện thực hiện lên như một biểu tượng về nỗi


15
khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp người. Và cuộc đời họ bao giờ cũng
kết thúc trong bế tắc, tuyệt vọng. Chị Dậu phải bán con, bán chó, bán sữa để
rồi phải chạy ra ngoài trời tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị; còn
Tám Bính từ một người con gái thôn quê hiền lành trở thành người đàn bà
phiêu bạt giang hồ, và sau cùng đớn đau chứng kiến cái chết thảm thương của
đứa con trai. Những người phụ nữ này đều là nạn nhân đáng thương của hoàn
cảnh, kết thúc cuộc đời họ đã phần nào phản ánh tình trạng bế tắc trong xã hội
Việt Nam trước cách mạng.
Trong văn học cách mạng 1945 - 1975, nhân vật người phụ nữ đã có
một diện mạo mới bên cạnh những nét đẹp truyền thống. Họ được đặt trong
mối quan hệ với những vấn đề chung của thời đại. Tắm mình trong bầu không
khí hào hùng của dân tộc, người phụ nữ bước vào cuộc chiến đấu thần thánh
của đất nước, góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang. Nhà
thơ Huy Cận trong bài thơ Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam (1966) viết: “Chị
em tôi tỏa nắng vàng lịch sử/ Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”. Các mẹ,
các chị, những người phụ nữ anh hùng đã cống hiến toàn bộ cuộc đời mình
cho sự nghiệp kháng chiến của cách mạng sẽ mãi mãi in dấu trong “hình của
nước”. Họ có thể là nhân vật lịch sử hay chỉ là hình tượng văn học thuần túy
nhưng tất cả đều mang trong mình vẻ đẹp huy hoàng của thời đại. Đó là
Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, chị Út Tịch
trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh
Đức, Phương Định, Nho, Thao trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh
Khuê… Có thể thấy người phụ nữ trong giai đoạn này là con người của cộng
đồng, của xã hội gắn với cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, được soi rọi dưới cái

nhìn lí tưởng hóa mang tính sử thi.
Sau năm 1975, văn học có xu hướng trở về cái muôn mặt của cuộc
sống đời thường, cảm hứng sử thi nhạt dần, thay vào đó là cảm hứng thế sự-


16
đời tư. Vấn đề các nhà văn quan tâm không phải là cuộc sống chiến đấu dũng
cảm đến quên mình vì độc lập tự do của dân tộc, mà là con người trong đời
thường đa đoan phức tạp. Người phụ nữ hiện lên không gắn với trách nhiệm
công dân mà với tư cách con người cá nhân có đời sống nội tâm phức tạp. Phụ
nữ được coi như một khách thể thẩm mĩ độc lập, một thế giới riêng đầy bí ẩn,
hấp dẫn cần được khám phá, lí giải. Và các nhà văn đã tìm được hướng đi
riêng khi khai thác đề tài này. Nguyễn Minh Châu tiếp tục khai thác vẻ đẹp
truyền thống của người phụ nữ nhưng chú ý nhiều hơn đến đời sống nội tâm
của họ như Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Thai trong
Cỏ lau, người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa… Các nhân vật
nữ của ông có vẻ ngoài hiền dịu nhưng nội tâm lại mạnh mẽ, luôn vượt lên
trên sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Họ có đức hi sinh cao cả, lòng thủy chung,
và ý thức rất rõ về thiên chức của người phụ nữ.
“Xuất phát từ phông nền là cuộc sống đương đại với những lo toan, hỗn
độn, phức tạp, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn nhận người phụ nữ hiện đại với sự
tổng hợp của con người bất hạnh, con người khát khao, con người bản năng…
Đó là phần bí ẩn trong người phụ nữ mà nhà văn muốn khám phá, tìm hiểu...
Không chỉ dừng lại miêu tả nhân vật nữ thời hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp còn
khắc họa lại những nhân vật nữ trong văn học truyền thống ở những góc nhìn
mới, nhân văn hơn, chân thực hơn như Ngô Thị Vinh Hoa, Nguyễn Thị Lộ,
Hồ Xuân Hương” [44, tr.18-19].
Văn học Việt Nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo
các nhà văn nữ như một sự khám phá chính bản thân mình. Giáo sư Phương
Lựu trong bài Suy nghĩ về các nữ văn sĩ đã giải thích bằng góc độ tâm lí học.

Theo ông, nữ giới mang tâm hồn nhạy cảm, có tài quan sát tinh tế và rất giàu
trí tưởng tượng. Nữ giới thuộc loại hình tình cảm rõ ràng hơn là tư duy. Vì
vậy, các nhà văn nữ Việt Nam đương đại bằng cái nhìn của người trong cuộc,


17
đã đem lại những trải nghiệm, hiểu biết sâu sắc, mới mẻ về chính giới mình
trong những trang văn. Tiêu biểu là các tác giả: Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo,
Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Hoàng Diệu... Họ quan tâm đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn, khát vọng tình yêu
và hạnh phúc của người phụ nữ.
Với sự chủ động trước số phận cũng như trong đời sống tình cảm, các
nhân vật nữ đã không còn giấu giếm con người thật của mình mà công khai
phơi bày những cảm xúc thực, cái tôi cá tính; nhu cầu bản năng, khát khao
trần thế; được sống, dám sống hết mình cho tình yêu mới là thước đo giá trị
của sự tồn tại. Như một cách phản ứng với những khuôn khổ đạo đức nặng nề
đã áp vào người phụ nữ hàng nghìn năm nay, cách sống phóng khoáng của
các nhân vật nữ đó đòi hỏi một cái nhìn bao dung, chia sẻ, nhân bản, xuất phát
từ việc đề cao tất cả những gì thuộc về con người.
Trong việc kiến tạo hình tượng người phụ nữ hiện đại, thái độ, cách
ứng xử với vấn đề tình dục của các nhân vật nữ là yếu tố cách tân nhất. Nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình đã chung nhận định rằng: người phụ nữ trong truyện
ngắn nữ thời kỳ đổi mới (cũng là trong văn học đổi mới nói chung đã tự cởi
trói về tình dục. Họ sẵn sàng chủ động, bày tỏ sự ham muốn, thậm chí kiếm
tìm tình dục. Cô gái trong Vu quy của Đỗ Hoàng Diệu đã liên tục trải qua
những mối tình với những cuộc truy tìm tình yêu, hạnh phúc. Với cô, một tình
yêu trọn vẹn phải gắn với một cuộc sống tình dục khiến cô thỏa mãn. Với lối
viết thẳng thắn, mạnh bạo, đầy cá tính về vấn đề này, Đỗ Hoàng Diệu được
Nguyễn Thị Bình đánh giá là chưa ai khắc họa niềm đam mê ái dục bằng nhãn
quan phụ nữ ấn tượng như thế.

Như vậy, người phụ nữ là hình tượng xuyên suốt và nổi bật trong văn
học Việt Nam, gắn liền với sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con
người qua từng giai đoạn văn học. Dù có những nét riêng thì ở thời kì nào,


18
phần lớn nhân vật nữ vẫn sáng ngời vẻ đẹp truyền thống, là một hình ảnh tích
cực, được các nhà văn gửi gắm nhiều tình cảm yêu thương, trân trọng.
1.3. Hành trình sáng tác văn chƣơng của Lê Minh Hà
1.3.1. Vài nét tiểu sử
Nhà văn Lê Minh Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội, tốt nghiệp Khoa Ngữ
văn Ðại học Sư phạm Hà Nội năm 1983. Năm 1994, bà theo chồng xuất cảnh
sang Đức và hiện sống tại Limberg (Đức). Trước khi sang định cư tại CHLB
Ðức, bà đã có 8 năm giảng dạy tại trường THPT Hà Nội- Amsterdam. Lê
Minh Hà sáng tác từ khi còn ở trong nước và cộng tác với nhiều tạp chí văn
nghệ hải ngoại như “Hợp Lưu”, “Văn”, “Văn Học”, “Gió Ðông”... trước khi
cho ra đời cuốn sách đầu tiên vào năm 1998.
1.3.2. Hành trình sáng tác văn chƣơng
6 tuổi đã làm thơ, lớp 6 có truyện đăng báo, tốt nghiệp Đại học sư
phạm Hà Nội loại xuất sắc. Ra trường, Lê Minh Hà được phân công dạy ở
trường Trung học phổ thông Đan Phượng. Mấy năm sau, do năng lực chuyên
môn và thành tích trong giảng dạy, tác giả được chuyển về dạy ở trường
chuyên Amterdam, một cơ sở đào tạo tài năng học đường nổi tiếng của thành
phố Hà Nội.
Lê Minh Hà sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết.
Có nhiều tác phẩm đã ấn hành như:
Các tập truyện ngắn: Trăng góa; Gió biếc; Những giọt trầm; Sâm cầm
(in chung với Phạm Hải Anh); Truyện cổ viết lại (in chung với Lê Đạt);
Những gặp gỡ không ngờ; Cổ tích cho ngày mới.
Tùy bút: Thương thế, ngày xưa…; Còn nhớ nhau không; Chơi nhiều

hết mệt; Này, bọn mình rất đẹp.
Tiểu thuyết: Gió tự thời khuất mặt; Phố vẫn gió.


19
“Lê Minh Hà nổi lên giữa những người viết văn hơn mười lăm năm qua
nhờ khả năng vận dụng ngôn từ tinh tế và cảm xúc cồn cào ẩn chứa trong
những câu chữ đôi lúc quá kĩ càng. Cái kĩ càng của một cô giáo Hà Nội dạy
văn chở những ngấm ngầm nổi loạn của tâm hồn sáng tạo” (Vinabook.com).
Tập truyện của Lê Minh Hà sôi sục những nỗi niềm về giấc mơ đã bị đánh
mất, về tuổi trẻ Hà Nội những năm tháng chiến tranh và lưu lạc nơi xứ người.
Những câu chuyện vừa đầy ắp sự nhân hậu vừa đắng chát bi kịch những thân
phận nhỡ tàu.
“Truyện của Lê Minh Hà thỏa mãn các khía cạnh thưởng thức, đánh
động các giác quan của trí tưởng tượng. Văn của chị gọi về một mùa thu Hà
Nội xao xác cũ, một mùa đông nước Đức trắng trời đất, trong những không
gian gần gũi như hơi thở mà miên man vô tận những liên tưởng và hồi ức.
Với Lê Minh Hà, viết truyện không đơn giản là kể một câu chuyện hấp dẫn
mà còn là một hành trình tỉ mẩn mổ xẻ gan ruột mình. Cái nôn nao của một
thời Hà Nội chuyển đổi cơ chế làm quay cuồng con người như nắng rát mưa
dầm xứ này. Cái bức bối của những không gian sống tập thể chật chội hôi
hám nhưng vẫn không lấp được những tình cảm chất phác ngày thường và
vẫn có chỗ cho những cảm xúc sáng tạo ánh lên, như tiếng hát từ những bài
hát đi suốt thời con gái của những nhân vật chính” (Vinabook.com .
Trong văn của Lê Minh Hà vừa có nét trẻ trung hồn nhiên của những
cô gái tuổi đôi mươi, vừa có cái thâm trầm của một người từng trải. Tất cả
những điều ấy tạo nên một văn phong đa dạng đầy hóm hỉnh. Xa Hà Nội hơn
hai mươi năm là từng đó thời gian nhà văn ôm ấp nỗi nhớ về Hà Nội. Với Lê
Minh Hà, nơi đây không chỉ là một mảnh đất, một vùng quê, dường như bà đã
cất giữ cả một phần tâm hồn mình cùng Hà Nội.

“Những truyện ngắn hiền khô của Lê Minh Hà gây kinh ngạc và tạo
cảm giác lâng lâng dài lâu trong tôi sau khi đọc xong. Có thể nói nếu những


×