Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Đề cương ôn tập luật dân sự module 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.67 KB, 63 trang )

Đề cương ôn tập Luật Dân sự module 1 - Chương 1 - Khái quát chung Luật Dân sự Việt Nam
Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
1.1 Khái niệm đối tượng điều chỉnh của luật dân sự
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh giữa
các chủ thể của Luật dân sự nhằm đáp ứng lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần cho chính chủ
thể tham gia quan hệ đó cũng như các chủ thể khác.
1.2 Phân loại đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự
1.2.1 Các quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản hay còn gọi là quan hệ xã hội về tài sản là quan hệ giữa chủ thể này với chủ thể
khác có liên quan đến tài sản. Tài sản này có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, tài sản
hiện có hoặc tài sản được hình thành trong tương lai.
Quan hệ tài sản được hình thành một cách khách quan với sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người
Quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh có các đặc điểm sau:
- Quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh luôn liên quan đến tài sản, có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp.
- Quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh được xác lập bởi các chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự với các điều kiện do pháp luật qui định.
- Quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ, ý chí
đó phải phù hợp với ý chí của nhà nước:
+ Chủ thể tham gia quan hệ tài sản có toàn quyền định đoạt trong các quan hệ mà mình tham gia.
Tuy nhiên, ý chí của chủ thể đó khi tham gia quan hệ phải phù hợp với ý chí của nhà nước.
+ Nhà nước đưa ra các qui định xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể, đó là những qui định
mang tính nguyên tắc chung, những qui định mang tính chất cấm đoán và bắt buộc nhất định.
- Trong quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh, có sự đền bù ngang giá về lợi ích vật chất đối
với các chủ thể tham gia – đây là yếu tố đặc trưng của các quan hệ tài sản do pháp luật dân sự
điều chỉnh. Tính đền bù ngang giá có thể bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như tình cảm, phong tục
tập quán.
1.1.2 Các quan hệ nhân thân


Quan hệ nhân thân được hiểu là quan hệ phát sinh giữa các chủ thể dân sự liên quan đến một lợi
ích tinh thần.
Nếu như ở quan hệ tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thì
trong quan hệ nhân thân, việc dịch chuyển các giá trị tinh thần là không thể thực hiện được.
* Nhóm quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản: là các quan hệ nhân thân xuất phát từ giá
trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế, không thể chuyển giao trong
giao lưu dân sự (không thể là đối tượng của giao dịch dân sự).
- Các quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Quyền nhân thân liên quan đến việc cá biệt hóa cá nhân: Quyền đối với họ tên …
- Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã hội
- Quyền nhân thân liên quan đến thân thể con người
- Các quyền nhân thân liên quan đến sự tự do của cá nhân
- Các quyền nhân thân liên quan đến hoạt động lao động, sáng tạo của cá nhân
* Nhóm các quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản: Xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu,
các chủ thể sẽ được hưởng các lợi ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả của hoạt
động sáng tạo.
- Quyền tác giả
- Quyền liên quan đến quyền tác giả


- Quyền sở hữu công nghiệp
- Quyền đối với cây trồng
* Có ý kiến cho rằng mọi quan hệ nhân thân đều liên quan đến tài sản bởi lẽ:
- Đối với việc chuyển giao các kết quả của hoạt động sáng tạo tinh thần thì chủ thể được hưởng
lợi ích vật chất (liên quan đến tài sản)
- Đối với các quyền nhân thân thì khi quyền nhân thân bị xâm, phạm ngoài việc chủ thể xâm
phạm phải chấm dứt hành vi xâm phậm, pháp luật còn qui định chủ thể có hành vi xâm phạm
phải bồi thường thiệt hại cho người bị xâm phạm (có liên quan đến tài sản)
* Quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có các đặc điểm sau:
- Các quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh luôn liên quan đến một lợi ích tinh thần

- Quan hệ nhân thân không xác định được bằng một số tiền cụ thể. Các quan hệ nhân thân không
bao giờ là quan hệ tài sản (chỉ có quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản và quan hệ nhân thân
không liên quan đến tài sản), nên giá trị tinh thần của quan hệ nhân thân không bao giờ trị giá
được thành tiền.
- Các lợi ích tinh thần luôn gắn với chủ thể, trừ một số trường hợp pháp luật qui định (ví dụ:
quyền công bố phổ biến tác phẩm của tác giả có thể chuyển giao cho người thừa kế của tác giả
khi tác giả chết)
- Các lợi ích tinh thần không thể bị hạn chế hoặc tước bỏ, trừ trường hợp do pháp luật qui định
2. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
2.1 Khái niệm phương pháp điều chỉnh của luật dân sự
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là những biện pháp, cách thức mà nhà nước dùng các qui
phạm pháp luật dân sự tác động tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật dân sự để các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của chủ
thể tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập thể và của các chủ thể khác.
2.2 Đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của luật dân sự
* Các chủ thể tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự có sự độc lập
về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý & không chịu sự chi phối bởi ý chí của bất cứ
chủ thể nào khác.
* Các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự có quyền tự định đoạt và thỏa thuận trong các quan hệ
mà mình tham gia – đây là đặc trưng của phương pháp điều chỉnh của luật dân sự. Sự tự định đoạt
của các chủ thể chịu sự giới hạn ở một số nội dung:
- Giới hạn ở chủ thể tham gia quan hệ xã hội nhất định: nếu pháp luật giành quyền ưu tiên cho
một chủ thể nào đó thì phải giành quyền ưu tiên cho chủ thể đó.
- Giới hạn các nghĩa vụ trong quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia
* Trách nhiệm dân sự của bên vi phạm trước bên bị vi phạm trong các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điểu chỉnh của luật dân sự luôn liên quan đến tài sản.
* Việc hòa giải hợp pháp, dùng pháp luật của các bên trong các quan hệ xã hội thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật dân sự luôn được pháp luật khuyến khích. Việc hòa giải có thể được thực hiện
bởi chính các bên tham gia quan hệ phát sinh tranh chấp hoặc được thực hiện bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.

3. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT DÂN SỰ
3.1 Khái niệm
Nguyên tắc của luật dân sự được ghi nhận trong các văn bản pháp luật dân sự là những tư tưởng
pháp lý chỉ đạo, định hướng buộc các chủ thể phải tuân theo trong quá trình ban hành và áp dụng
các qui định của pháp luật dân sự.
3.2 Nội dung các nguyên tắc của luật dân sự
- Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận
- Nguyên tắc bình đẳng
- Nguyên tắc thiện chí trung thực


- Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự
- Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp
- Nguyên tắc tôn trọng bảo vệ quyền dân sự
- Nguyên tắc tôn trọng lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác
- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật
- Nguyên tắc hòa giải
4. NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
4.1 Khái niệm
Nguồn của luật dân sự là những văn bản qui phạm pháp luật dân sự do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo một trình tự và thủ tục nhất định, có chứa đựng các qui tắc xử sự chung để
điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự
Muốn được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng các yêu cầu:
- Phải là văn bản qui phạm pháp luật dân sự, tức là phải chứa các qui tắc xử sự chung để điều
chỉnh quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự
- Văn bản qui phạm pháp luật dân sự đó phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật dân sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định
4.2 Phân loại
Các căn cứ để phân loại nguồn của luật dân sự:

- Căn cứ vào cơ quan ban hành: văn bản do Quốc hội ban hành, văn bản do UBTVQH ban hành,
văn bản do Chính phủ ban hành …
- Căn cứ vào nội dung quan hệ xã hội được điều chỉnh trong văn bản qui phạm pháp luật được coi
là nguồn của luật dân sự: các văn bản pháp luật về sở hữu, các văn bản pháp luật về hợp đồng,
các văn bản pháp luật về thừa kế
- Căn cứ vào hình thức hệ thống văn bản qui phạm pháp luật được coi là nguồn của luật dân sự
gồm: hiến pháp, bộ luật dân sự, các luật và văn bản dưới luật
4.2.1 Hiến pháp
Những nội dung của HP liên quan trực tiếp đến Luật dân sự là Chương II (chế độ kinh tế) và
Chương V (quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân)
Dù chỉ là những qui định mang tính nguyên tắc, tính định hướng nhưng hiến pháp 1992 được coi
là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của Luật dân sự.
4.2.2 Bộ luật dân
BLDS 2005 được kết cấu 7 phần, 36 chương, 777 điều
- Phần thứ nhất: Những qui định chung; xác định phạm vi điều chỉnh cảu BLDS, nguyên tắc của
LDS, địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình với tư cách là chủ thể khi
tham gia các quan hệ dân sự
- Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu; bao gồm các qui định về nguyên tắc cơ bản của quyền
sở hữu, các loại tài sản, các hình thức sở hữu, căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, bảo vệ
quyền sở hữu, và những qui định khác về quyền sở hữu.
- Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; bao gồm các qui định chung, các hợp đồng
dân sựu thông dụng, nghĩa vụ ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Phần thứ tư: thừa kế; qui định việc dịch chuyển di sản của người chết cho những người còn
sống
- Phần thứ năm: Những qui định về quyền sử dụng đất; gồm những qui định chung, những hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất
- Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
- Phần thứ bảy: Quan hệ dân sựu có yếu tố nước ngoài; gồm những qui định về thẩm quyền áp
dụng và pháp luật được áp dụng khi giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.
4.2.3 Các luật và nghị quyết của quốc hội



Các luật được coi là nguôn của luật dân sự:
- Luật hôn nhân và gia định năm 2000
- Luật đất đai 2003
- Luật thương mại 2005
- Luật sở hữu trí tuệ 2005
- Luật doanh nghiệp 2005
- Luật các công cụ chuyển nhượng
- Luật khoáng sản
- Luật bảo vệ và phát triển rừng
- Luật tài nguyên nước …
Ngoài BLDS và các luật, NQ của Quốc hội do QH ban hành, có hiệu lực như văn bản pháp luật
4.2.4 Các văn bản dưới luật
- Pháp lện của UBTVQH được ban hành để giải thích, hướng dẫn những qui định của BLDS hoặc
qui định những nội dung mà luật chưa đủ điều kiện để qui định
- Nghị định của Chính phủ có vai trò là nguồn bổ trợ trực tiếp của LDS
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành để hướng dẫn các tòa án
áp dụng thống nhất pháp luật
5. QUI PHẠM PHÁP LUẬT DÂN SỰ
5.1 Khái niệm
Qui phạm pháp luật dân sự là những qui tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra để điều chỉnh quan
hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS để các quan hệ đó phát sinh,
thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của nhà nước.
5.2 Cấu tạo qui phạm pháp luật dân sự
- Phần giả định: nếu ra những tình huống, hoàn cảnh mà qui phạm pháp luật sẽ điều chỉnh.
- Phần qui định: nêu cách xử sự của chủ thể khi gặp phải hoàn cảnh được dự liệu trong phần giả
định. Phần qui định trong qui phạm pháp luật dân sự rất mềm dẻo, trong nhiều qui phạm, pháp
luật dự liệu một số xử sự nhất định và chủ thể lựa chọn một trong số các cách xử sự đó.
- Phần chế tài: nêu ra hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu nếu chủ thể không thực

hiện những xử sự nhất định được nêu trong phần qui định khi gặp phải điều kiện, hoàn cảnh trong
phần giả định.
5.3 Phân loại
5.3.1 Qui phạm định nghĩa
Là qui phạm có nội dung giải thích, xác định một vấn đề cụ thể hoặc đưa ra những khái niệm
pháp lý khác nhau, được viện dẫn để xác định một vấn đề cụ thể khi cần giải thích
5.3.2 Qui phạm tùy nghi
Là qui phạm trong đó cho phép chủ thể có thể lựa chọn cách xử sự nhất định. Việc lựa chọn có
thể hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoặc lựa chọn trong một giới hạn nhất định mà
pháp luật qui định.
- Qui phạm tùy nghi thỏa thuận: pháp luật cho phép các bên có toàn quyền trong việc thỏa thuận
về một nội dung cụ thể, giới hạn của sự thỏa thuận này là điều cấm của pháp luật, tính trái đạo
đức xã hội và các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự.
- Qui phạm tùy nghi lựa chọn: pháp luật dự liệu nhiều cách xử sự và các chủ thể có thể lựa chọn
một trong các cách xử sự đó.
5.3.3 Qui phạm mệnh lệnh
Là qui phạm có nội dung nghiêm cấm chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất định
hoặc buộc chủ thể phải thực hiện những hành vi nhất định
Qui phạm mệnh lệnh không đặc trưng cho qui phạm phạm luật dân sự bởi vì trong việc tham gia
quan hệ dân sựu, pháp luật cho phép chủ thể có quyền tự định đoạt, thỏa thuận trong các quan hệ
mà mình tham gia.


6. ÁP DỤNG LUẬT DÂN SỰ, ÁP DỤNG TƯƠNG TỤ PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHONG
TỤC TẬP QUÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
6.1 Áp dụng Luật dân sự
6.1.1 Khái niệm
Áp dụng LDS là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc vận dụng các qui
phạm pháp luật dân sự để giải quyết các tranh chấp dân sự hoặc xác định các sự kiện pháp lí phát
sinh nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của tổ chức và của cá

nhân.
6.1.2 Điều kiện áp dụng LDS
Hoạt động áp dụng LDS không thể tách rời với hoạt động ban hành văn bản qui phạm pháp luật
dân sự, đây là quá trình đưa những nội dung cụ thể của văn bản pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động áp dụng LDS có hiệu quả hay không, ngoài việc phụ thuộc vào nội dung của văn bản còn
phụ thuộc vào ý thức chấp hành và khả năng chủ thể tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật.
Áp dụng luật dân sự phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS phải đang có tranh chấp hoặc có sự kiện
pháp lí mà tòa án phải xác định:
+ Tranh chấp giữa các chủ thể tham gia quan hệ tạo thành vụ án dân sự
+ Chủ thể yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hoặc không có tranh chấp nhưng liên quan đến
quyền lợi của một chủ thể nhất định, chủ thể yêu cầu tòa án xác định – là việc dân sự.
- Hiện có qui phạm pháp luật dân sự đang trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh tranh chấp
đo
6.1.3 Hậu quả của hoạt động áp dụng luật dân sự
- Thừa nhận quyền cho một chủ thể nhất định và ghi nhận cụ thể nội dung của quyền này: quyền
thừa kế, quyền sở hữu …
- Xác nhận nghĩa vụ cho một chủ thể nhất định theo yêu cầu của chủ thể khác: buộc chủ thể phải
trả lại nhà thuê, buộc trả nợ vay
- Xác nhận sự tộn tại hay không tồn tại của một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể: cho phép li hôn
hoặc không …
- Xác nhận một sự kiện pháp lí nhất định theo yêu cầu của chủ thể có liên quan: tuyên bố mất tích
hoặc đã chết đối với cá nhân …
6.2 Áp dụng qui định tương tự của pháp luật và áp dụng phong tục tập quán trong việc giải quyết
tranh chấp dân sự
6.2.1 Nguyên nhân của việc áp dụng qui định tương tự của pháp luật và áp dụng phong tục tập
quán trong việc giải quyết tranh chấp dân sự
* Nguyên nhân của việc áp dụng qui định tương tự của pháp luật được thể hiện:
- Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh cúa LDS vốn đa dạng và phức tạp, luôn có sự
phát sinh, thay đổi những quan hệ xã hội mới mà thực tế những quan hệ xã hội này chưa có qui

phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh. Đây là điều không thể tránh được trong hoạt động lập pháp
bởi quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung, của LDS nói riêng luôn
có sự vận động và thay đổi, trong khi đó qui phạm pháp luật lại có sự ổn định trong giai đoạn
nhất định
- Hoạt động lập pháp còn có những hạn chế nhất định bởi trình độ chuyên môn của nhà lập pháp
còn nhiều bất cập nên vẫn có những “khe hở” trong một văn bản qui phạm pháp luật dân sự.
* Nguyên nhân của việc áp dụng phong tục tập quán:
- Tập quán là các xử sự thông dụng và phổ biến trong cộng đồng đia phương, dân tộc được sử
dụng như chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng đồng dân tộc, địa phương đó. Ví
dụ: đơn vị đo lường “giạ lúa”, “chục” ở miền Nam.
- Áp dụng tập quán là sử dụng các xử sự thông dụng và phổ biến trong cộng đồng đia phương,
dân tộc được sử dụng như chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng đồng dân tộc, địa


phương đó.
- Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ đa dạng, phức tạp về nhiều phương diện: Chủ thể, khách
thể, nội dung; hơn nữa những quan hệ này không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội nói chung và khoa học kỹ thuật nói riêng. Vì vậy mà khi ban hành các văn bản pháp luật, nhà
lập pháp không “ dự liệu” được hết các quan hệ xã hội cần thiết phải được điều chỉnh bằng pháp
luật, Điều đó đã tạo ra “lỗ hổng” trong pháp luật dân sự.
- Hơn nữa, các qua hệ xã hội lại luôn vận động và biến đổi không ngừng trong khi các qui định
của pháp luật thường tồn tại ở trạng thái tĩnh, chỉ biến đổi khi bị sửa đổi. Dẫn đền tình trạng, có
những trường hợp không có quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã hội đang tồn tại.
- Để bù lấp những “lỗ hổng” pháp luật chưa hoàn thiện và tạo ra cơ sở pháp lý cho Tòa án xét xử
các tranh chấp trong những quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bằng pháp luật, BLDS 2005 đã
đưa ra nguyên tắc áp dụng tập quán: “trong trường hợp pháp luật ko qui định & các bên ko có
thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán”. (Điều 3 BLDS 2005).
6.2.2 Điều kiện của việc áp dụng qui định tương tự của pháp luật và áp dụng phong tục tập quán
trong việc giải quyết tranh chấp dân sự
- Quan hệ xã hội phát sinh tranh chấp cần giải quyết phải thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS

- Hiện chưa có qui phạm pháp luật dân sự trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh tranh chấp
đó
- Việc áp dụng qui đinh tương tự của pháp luật và phong tục tập quán chỉ được đặt ra khi pháp
luật chưa qui định và các bên tham gia giao dịch không thỏa thuận, nhưng phải theo trình tự: áp
dụng tập quán trước, nếu không có tập quán thì áp dụng qui định tương tự của pháp luật
- Có qui định tương tự của pháp luật hoặc có tập quán để có thể vận dụng để giải quyết tranh chấp
phát sinh
- Tập quán và qui định tương tự của pháp luật không được trái với các nguyên tắc chung của pháp
luật được qui định trong BLDS.
6.2.3 Hậu quả của việc áp dụng qui định tương tự của pháp luật và áp dụng phong tục tập quán
trong việc giải quyết tranh chấp dân sự
- Thông qua hoạt động áp dụng qui định tương tự của pháp luật và áp dụng phong tục tập quán,
bổ sung sự thiếu sót trong các qui đinh pháp luật và hoàn thiệt hệ thống pháp luật.
- Qua đó, quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch dân sự cũng được đảm bảo thực hiện.
Chương 2: Quan hệ pháp luật dân sự
1. KHÁI NIỆM QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự
1.1.1 Khái niệm quan hệ pháp luật dân sự
Quan hệ pháp luật dân sự là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh
của LDS được các qui phạm pháp luật DS tác động tới trên cơ sở chủ thể độc lập về tổ chức và tài
sản, bình đẳng về địa vị pháp lí và các quyền, nghĩa vụ của chủ thể được đảm bảo thực hiện bằng
biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
1.1.2 Đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự
Quan hệ pháp luật DS mang đầy đủ các đặc điểm của một quan hệ pháp luật thông thường. Ngoài
ra còn có đặc điểm riêng sau:
- Quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về chủ thể tham gia. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là
những “người” được phép tham gia quan hệ pháp luật và có các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ đó
- Trong quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ luôn quan tâm đến những lợi ích
vật chất hoặc tinh thần nhất định

- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự có thể do các bên thỏa thuận
hoặc do pháp luật qui định. Khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự tì địa vị pháp lí của chủ thể là
có sự bình đẳng.


- Trách nhiệm pháp lí mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải gánh chịu liên quan
đến tài sản.
1.2 Căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự
1.2.1 Khái niệm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự
Sự kiện pháp lí trước hết được hiểu là những sự kiện xảy ra trong thực tế và được pháp luật qui
định hậu quả pháp lí.
Sự kiện thực tế để làm phát sinh hậu quả pháp lý phải mang tính khách quan. Chỉ những sự kiện
thực tế mà sự xuất hiện của nó có ảnh hưởng nhất định đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa
– xã hội mới được pháp luật qui định hậu quả pháp lý.
Hậu quả pháp lý mà pháp luật qui định cho một sự kiện thực tế, có thể là làm phát sinh, có thể
làm thay đổi nhưng cũng có thể là làm chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự. Một sự kiện thực
tế có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật dân sự khác nhau và ngược
lại, một hậu quả pháp lý có thể là kết quả của nhiều sự kiện pháp lý.
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự là những sự kiện pháp lý do
pháp luật qui định mà khi xuất hiện các sự kiện pháp lý đó thì quan hệ pháp luật dân sự có thể
được phát sinh, được thay đổi hoặc chấm dứt
1.2.2 Phân loại Căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự
1.2.2.1 Căn cứ vào hậu quả pháp lý
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật
qui định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm phát sinh một quan hệ pháp luật dân sự.
- Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật qui
định mà khi xuất hiện những sự kiện đó làm thay đổi một quan hê dân sự nhất định.
- Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật
qui định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự
1.2.2.2 Căn cứ vào tính ý chí trong quan hệ pháp luật dân sự

- Sự kiện pháp lý phát sinh theo ý chí của chủ thể: chính là các hành vi pháp lý. Hành vi pháp lý
là hành vi có ý thức của con người và được pháp luật qui định hậu quả pháp lý. Hành vi pháp lý
được chia làm 2 loại:
+ Hành vi pháp lí hợp pháp: là hành vi có ý thức của con người, diễn ra phù hợp với qui định của
pháp luật và theo qui định của pháp luật thì hậu quả pháp lý phát sinh. Hậu quả pháp lý phát sinh
từ hành vi hợp pháp là hậu quả pháp lý mà các chủ thể luôn mong muốn, đó là các hậu quả pháp
lý tích cực, có lợi cho các chủ thể.
+ Hành vi pháp lí bất hợp pháp: là hanh vi có ý thức của con người, diễn ra trái với qui định của
pháp luật và theo qui định của pháp luật thì hậu quả pháp lý phát sinh. Hậu quả pháp lý được
pháp luật qui định khi có hành vi bất hợp pháp là hậu quả pháp lý tiêu cực, bất lợi đối với chủ thể
bị áp dụng.
* Lưu ý: đối với trường hượp hành vi của con người có thể đem lại những hậu quả nhất định,
nhưng hành vi đó là hành vi không có ý thức của con người, con người thực hiện hành vi trong vô
thức.
- Sự kiện pháp lý phát sinh theo ý chí của nhà nước: là những sự kiện xảy ra trong thực tế, không
phụ thuộc vào ý chí của chủ thể nhưng theo qui định của pháp luật thì hậu quả pháp lý phát sinh,
gồm các trường hợp:
+ Xử sự pháp lí: được thực hiện bởi hành vi của con người nhưng hành vi đó hướng tới một mục
đích nhất định, tuy nhiên theo qui đinh của pháp luật thì hậu quả pháp lý phát sinh, hậu quả pháp
ly này nằm ngoài ý thức của chủ thể
+ Sự biến pháp lý: sự xuất hiện và diễn biến của sự vật, hiện tượng hoàn toàn không phụ thuộc
vào ý thức của con người, con người không kiểm soát được (ví dụ: mưa, bão …) hoặc sự xuất
hiện, diễn biến của sự vật hiện tượng lúc đầu là do hành vi của con người nhưng ngay sau đó con
người không kiểm soát được (sự biến pháp lý tương đối).


+ Thời hạn: có điểm bắt đầu và điểm kết thúc, và khi kết thúc một thời hạn nhất định thì phát sinh
hậu quả pháp lý theo qui định của pháp luật.
1.3 Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự
1.3.1 Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Phạm vi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác và nhà nước CHXHCN Việt Nam. Các chủ thể này phải có tư cách chủ thể, được
xác định bởi 2 yếu tố:
- Năng lực pháp luật dân sự
- Năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật có thể có năng lực pháp luật mang tính tổng hợp (cá nhân) có thể
có năng lực pháp luật mang tính chuyên biệt.
1.3.2 Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự
Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là những lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhất định
mà chủ thể hướng tới.
1.3.2.1 Các lợi ích vật chất
Được thể hiện ở những dạng vật chất cụ thể như: tiền, vật, các giấy tờ có giá, quyền tài sản; lợi
ích vật chất còn có thể được biểu hiện dưới dạng quyền của chủ thể trong một quan hệ pháp luật
dân sự
1.3.2.2 Các lợi ích tinh thần
- Lợi ích tinh thần gắn với vật chất: đó chính là các lợi ích tinh thần mà chủ thể hướng tới trong
quan hệ pháp luật về quyền tác giả, quan hệ pháp luật về quyền liên quan, quan hệ pháp luật về
quyền sở hữu công nghiệp, quan hệ pháp luật về quyền đối với giống cây trồng.
- Lợi ích tinh thần không gắn với lợi ích vật chất: thể hiện ở các quyền nhân thân được pháp luật
qui định cho chủ thể được hưởng các quyền nhân thân này.
1.3.3 Nội dung của các quan hệ pháp luật dân sự
Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự tạo thành nội dung
của quan hệ pháp luật dân sự
1.3.3.1 Quyền dân sự
Là cách xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể nhất định được hưởng, thể hiện ở:
- Chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định để thỏa mãn quyền do pháp luật qui định, chủ
thể thực hiện quyền này trực tiếp hoặc gián tiếp
- Chủ thể được quyền không thực hiện những hành vi nhất định
- Chủ thể được quyền yêu cầu chủ thể khác phải thực hiện hành vi, không thực hiện hành vi vì lợi
ích của mình hoặc vì lợi ích của người khác

- Chủ thể được quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi bị tranh chấp, bị xâm phạm
1.3.3.2 Nghĩa vụ dân sự
Là cách xử sự mà pháp luật buộc một chủ thể nhất định phải thực hiện, thể hiện ở:
- Chủ thể phải thực hiện những hành vi nhất định
- Chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất định
* Lưu ý: Khi chủ thể có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ dân sự thì phải chịu hậu quả pháp lí bất lợi do
hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra. Hậu quả pháp lí bất lợi mà người có nghĩa vụ phải
gánh chịu do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình chính là nội dung của trách nhiệm dấn sự
1.4 Các loại quan hệ pháp luật dân sự (có 4 căn cứ phân loại)
1.4.1 Căn cứ vào nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS
- Quan hệ pháp luật dân sự về tài sản: Là quan hệ pháp luật dân sự luôn gắn liền với tài sản, đó có
thể là quan hệ có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể sang chủ thể khác, đó cũng có thể là quan hệ
tài sản mà có sự xác định quyền của một chủ thể đối với tài sản.
- Quan hệ pháp luật dân sự về nhân thân: Là quan hệ pháp luật dân sự luôn gắn liền với lợi ích


tinh thần. Lợi ích tinh thaanhf có thể liên quan đến tài sả hoặc không
=> Việc phân loại theo căn cứ trên nhằm xác định hậu quả pháp lí cho chủ thế khi có hành vi xâm
phạm các quyền của chủ thể trong quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân
1.4.2 Căn cứ vào tính xác định của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
- Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối: là quan hệ pháp luật dân sự mà chủ thể có quyền luôn luôn
được xác định, còn chủ thế có nghĩa vụ không được xác định cụ thế mà được hiểu là ngoài chủ
thể mang quyền thì các chủ thể khác phai co nghĩa vụ tôn trọng quyền của chủ thể mang quyền.
Thuộc về quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối là quan hệ pháp luật về sở hữu, quan hệ pháp luật về
sở hữu trí tuệ.
- Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan hệ pháp luật dân sự mà chủ thể có quyền và chủ thể
có nghĩa vụ luôn luôn được xác đinh cụ thể. Tương ứng với chủ thể mang quyền là chủ thể mang
nghĩa vụ và ngược lại. Thuộc về quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan hệ pháp luật về nghĩa
vụ và hợp đồng, quan hệ pháp luật về chuyển quyền sự dụng đất

=> Việc phân loại theo căn cứ trên có ý nghĩa trong việc xác định quyền của chủ thể cũng như
xác định các hành vi xâm phạm quyền.
1.4.3 Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền để thỏa mãn quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự
- Quan hệ pháp luật dân sự vật quyền: là quan hệ pháp luật dân sự mà chủ thể mang quyền để
thỏa mãn quyền của mình sẽ thực hiện hành vi để tác động vào đối tượng.
- Quan hệ pháp luật dân sự trái quyền: là quan hệ pháp luật dân sự mà chủ thể mang quyền thỏa
mãn quyền của mình thông qua hành vi của người khác.
=> Việc phân loại theo căn cứ trên có ý nghĩa trong việc xác định hậu quả pháp lý của hành vi
xân phạm quyền của chủ thể
1.4.4 Căn cứ vào sự có đi có lại vệ lợi ích vật chất giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân
sự
- Quan hệ pháp luật dân sự có sự đền bù: là quan hệ pháp luật dân sự mà tất cả các bên trong quan
hệ pháp luật đều được hưởng những lợi ích nhất định.
- Quan hệ pháp luật dân sự không có đền bù là quan hệ pháp luật dân sự mà chỉ một bên trong
quan hệ pháp luật dân sự được nhận một lợi ích vật chất từ phía chủ thể khác mà mình không
phải hoàn lại một lợi ích vật chất tương ứng
2. CÁC LOẠI CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
2.1 Cá nhân
Cá nhân là chủ thể thường xuyên, quan trọng, chủ yếu và phổ biến của quan hệ pháp luật dân sự.
Có thể nói cá nhân tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật dân sự, ngay cả các quan hệ pháp
luật dân sự mà pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình tham gia thì cũng phải thông qua hành vi của cá
nhân.
2.1.1 Năng lực chủ thể cuả cá nhân
2.1.1.1 Năng lực pháp luật dân sự
* Khái niệm và đặc điểm:
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ
dân sự. Khả năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua năng lực hành vi dân sự của cá
nhân.
Đặc điểm:

- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do nhà nước qui định cho cá nhân trong các văn bản qui
phạm pháp luật dân sự.
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có tính lịch sử, phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất
nhà nước.
- Năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng
- Năng lực pháp luật của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật qui định.


* Hạn chế năng lực pháp luật dân sự đối với cá nhân: chỉ mang tính tạm thời, được áo dụng đối
với một số chủ thể nhất định, trong một số giai đoạn nhất định và ở một số địa bàn nhất định.
* Bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết
* Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự mà
pháp luật qui định cho một cá nhân
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản
- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
2.1.1.2 Năng lực hành vi dân sự
* Khái niệm và đặc điểm:
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
Đặc điểm:
- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do nhà nước qui định dựa trên sự phát triển về độ tuổi
cũng như khả năng nhân thức và làm chủ hành vi của cá nhân
- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là không bình đẳng, cá nhân khác nhau có năng lực hành
vi khác nhau do pháp luật qui định dựa trên độ tuổi, sự phát triển tâm lý, nhận thức
- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đến một độ tuổi nhất định và có thể bị
mất hoặc bị hạn chế khi còn sống
* Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: cá nhân từ 18 tuổi trở lên, không bị tòa án tuyên bố mất năng

lực hành vi dân sự, không bị tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền trong việc xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự và có nghĩa vụ thực hiện các giao dịch dân sự mà mình xác
lập. Ngoài ra nếu người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Năng lực hành vi dân sự một phần: là những người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi. Lưu ý:
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập thực hiện giao dịch dân sự phải được người
đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày
phù hợp với lứa tuổi. Nếu cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi tham gia các giao dịch dân sự mà
có giá trị lớn, không được sự đồng ý của đại diện theo pháp luật thì người đại diện theo pháp luật
có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
+ Trường hợp người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi cso tài sản riêng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì
có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác
- Không có năng lực hành vi dân sự: là người chưa đủ 6 tuổi.
* Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
a. Mất năng lực hành vi dân sự.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định: Tòa án nhân dân
Đối tượng bị áp dụng: Người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình (phải có kết luận của tổ chức giám định về việc cá nhân đó không
nhận thức làm chủ được hành vi)
Người có quyền yêu cầu: Người có quyền, lợi ích liên quan
Người đại diện: Người đại diện (xác định theo quan hệ giám hộ) toàn quyền trong việc xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người mất năng lực hành vi dân sự
Tình trạng pháp lý: Đưa người bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự về tình trạng pháp lí
giống người chưa đủ 6 tuổi
b. Hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định: Tòa án nhân dân


Đối tượng bị áp dụng: Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn dến phá tán tài

sản của gia đình
Người có quyền yêu cầu: Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan,
Người đại diện: Người đại diện, phạm vi đại diện do tòa án quyết định. Giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày
Tình trạng pháp lý: Đưa người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự về tình trạng pháp lí
giống người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi.
2.1.2 Tuyên bố mất tích, tuyên bố chết
2.1.2.1 Thông báo tìm kiếm người vắng mặt và quản lý tài sản của người vắng mặt
Trước khi yêu cầu tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích, hoặc đã chết, những người
có quyền và lợi ích liên quan có thể yêu cầu tòa án ra thông báo tìm người vắng mặt tại nơi cư trú
theo qui định của pháp luật dân sự; Đồng thời yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản
của người vắng mặt.
Người quản lý tài sản của người vắng mặt được xác định như sau:
- Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản
lý.
- Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý
- Đối với tà sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ haowcj chồng tiếp tục quản lý, nếu vợ hoặc
chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành
niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý
Quyền, nghĩa vụ của người quản lý tài sản:
- Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình
- Bán ngay tài sản và hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng
- Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn của người vắng mặt bằng tài sản của
người đó theo quyết định của tòa án
- Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và thông báo cho tòa án biết, nếu có lỗi
trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại phải bồi thường
Người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú có các quyền sau:
- Quản lý tài sản của người vắng mặt
- Trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến

hạn của người vắng mặt
- Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản
2.1.2.2 Tuyên bố mất tích
* Điều kiện của việc tuyên bố cá nhân mất tích:
- Người có quyền, lợi ích liên quan có đơn yêu cầu tòa án tuyên bố cá nhân đó mất tích
- Đã áp dụng đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm người vắng mặt theo qui định của pháp luật tố
tụng dân sự đối với người bị yêu cầu tuyên bố mất tích
- Thời gian biệt tích hai năm liền trở lên, khoảng thời gian này phải liên tục, không gián đoạn.
Nếu gián đoạn phải được xác định lại từ đầu
* Hậu quả của việc tuyên bố cá nhân mất tích:
- Về tư cách chủ thể: Khi tòa án ra quyết định tuyên bố mất tích, tạm thời tư cách chủ thể của
người đó bị dừng lại
- Quan hệ nhân thân: Các quan hệ nhân thân tạm dừng. Trường hợp vợ hoặc chồng của người
tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho li hôn
- Quan hệ tài sản: Tài sản của người bị tuyên bố mất tích sẽ do người đang quản lý tiếp tục quản

* Quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố cá nhân mất tích và hậu quả của sự hủy bỏ:
- Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu


cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan tòa ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố một người mất tích.
- Tư cách chủ thể của người bị tuyên bố mất tích được khôi phục lại tình trạng ban đầu
- Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau
khi đã thanh toán chi phí quản lý
2.1.2.3 Tuyên bố chết
* Điều kiện của việc tuyên bố một cá nhân là đã chết:
- Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa án có hiệu lực mà vẫn không có tin
tức xác thực là còn sống
- Biệt tích trong chiến tranh sau 5 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức

xác thực là còn sống.
- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai
đó chấm dứt, vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác
- Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống. Cách tính thời gian biệt
tích giống như tính thời gian biệt tích trong trường hợp tuyên bố mất tích
- Quyết định tuyên bố chết sẽ chấm dứt tư cách chủ thể của người bị ra quyết định tuyên bố chết,
tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trên
* Hậu quả của quyết định tuyên bố một cá nhân là đã chết:
- Tư cách chủ thể của người bị ra quyết định tuyên bố là đã chết: chấm dứt hoàn toàn
- Quan hệ nhân thân: quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ về nhân thân khác của người
đó được giải quyết như đối với người đã chết
- Quan hệ tài sản: được giải quyết như đối với người đã chết, tài sản của người bị tuyên bố là đã
chết được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
* Quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân là đã chết và hậu quả của sự hủy bỏ đó:
- Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì
theo yêu cầu của người đó, tòa hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
- Tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là đã chết được trở lại tình trạng ban đầu như khi họ còn
sống
- Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi tòa án ra quyết định hủy
bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Cần lưu ý:
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được tòa án cho lý hôn thì quyết định cho ly
hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về, mà muốn xác lập lại quan
hệ vợ chồng đối với vợ hoặc chồng được tòa án cho ly hôn sẽ phải làm thủ tục đăng ký kết hôn
theo qui định của pháp luật
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó
vẫn có hiệu lực pháp luật
- Quan hệ tài sản: Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã
nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn

2.1.3 Nơi cư trú của cá nhân
Cá nhân có quyền tự do cư trú theo qui định cuả pháp luật, nơi cư trú của cá nhân được xác định
như sau:
- Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. “Nơi” ở đây được định là chỗ ở
hợp pháp của cá nhân. Nơi cư trú của cá nhân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
- Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân căn cứ vào nơi thường xuyên sinh
sống, thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống
Xác định nơi cư trú của cá nhân có ý nghĩa pháp lý sau đây:
- Nơi cư trú là nơi cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước với tư cách là công


dân
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi cá nhân cư trú đăng ký và lưu trữ các giấy tờ về hộ tịch
đối với cá nhân
- Nơi cư trú là nơi mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền tống đoạt các giấy tờ có liên quan đến cá
nhân
- Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mà cá nhân tham gia trong trường
hợp các bên trong quan hệ nghĩa vụ không thỏa thuận về địa điểm này và đối tượng của nghĩa vụ
là động sản
- Nơi cư trú là căn cứ để tòa án ra quyết định tuyên bố một cá nhân là mất tích hoặc đã chết
- Nơi cư trú được xác định là địa điểm mở thừa kế khi cá nhân chết
- Nơi cư trú còn có ý nghĩa trong việc xác định thẩm quyền của tòa án trong giải quyết tranh chấp
dân sự trong một số trường hợp nhất định
2.1.4 Giám hộ
2.1.4.1 Khái niệm, ý nghĩa giám hộ
Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật qui định
hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự ( sau đây gọi chung là người được giám hộ)
2.1.4.2 Người được giám hộ
- Người chưa thành niên không còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ đều mất

năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị tòa án hạn chế quyền của
cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha
mẹ có yêu cầu. Người chưa thành niên dưới 15 tuổi bắt buộc phải có người giám hộ, người chưa
thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không nhất thiết phải có người giám hộ
- Người mất năng lực hành vi dân sự.
- Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám
hộ, trừ trường hợp giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà.
2.1.4.3 Người giám hộ
* Người giám hộ là cá nhân, tổ chức:
- Xác định quan hệ giám hộ đương nhiên đối với cá nhân: là những người thân thiết, gần gũi nhất
đối với cá nhân được xác định theo quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống tùy trường hợp
cụ thể
- Xác định quan hệ giám hộ cử: Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì cá nhân có đủ điều
kiện theo qui định của pháp luật có thể được cử để giám hộ cho người được giám hộ.
* Cá nhân có đủ các điều kiện sau có thể làm người giám hộ:
- Có đủ năng lực hành vi dân sựu
- Có tư cách đạo đức tốt, không phải là người đang truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị
kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác
- Có điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện việc giám hộ: về thời gian, vật chất, sức khỏe
2.1.4.4 Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
* Nghĩa vụ:
- Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự
- Quản lý tài sản của người được giám hộ
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ
- Người được giám hộ dưới 15 tuổi thì người giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc giáo dục người được
giám hộ
- Người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ có nghĩa vụ chăm
sóc bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ
* Quyền:



- Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chỉ dùng cho những nhu cầu cần thiết cảu
người được giám hộ.
- Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ
- Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2.1.4.5 Thay đổi và chấm dứt việc giám hộ
* Thay đổi giám hộ:
- Khi người giám hộ không còn thỏa mãn các điều kiện do pháp luật qui định
- Khi người khác có điều kiện tốt hơn đảm nhận việc giám hộ
- Việc thay đổi phải được lập thành văn bản
* Chấm dứt giám hộ:
- Giám hộ chấm dứt trong các trường hợp:
+ Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
+ Người được giám hộ chết
+ Cha, mẹ của người được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình
+ Người được giám hộ được nhận làm con nuôi
- Hậu quả của việc chấm dứt giám hộ:
+ Trong thời hạn ba tháng, kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài
sản với người được giám hộ hoặc với cha mẹ của người được giám hộ
+ Trong trường hợp người được giám hộ chết thì thanh toán tài sản với người thừa kế của người
được giám hộ
- Việc thanh toán tài sản được thực hiện với sự giám sát của người giám sát việc giám hộ.
- Các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ mà do
người giám hộ thực hiện sẽ chuyển cho người được giám hộ khi người này đã có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, hoặc chuyển cho cha mẹ của người được giám hộ, hoặc chuyển cho người thừa
kế của người được giám hộ.
2.2 Pháp nhân
2.2. Khái niệm và điều kiện của pháp nhân

2.2.1.1 Khái niệm pháp nhân
Khái niệm: Pháp nhân là một tổ chức thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định, khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự sẽ có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ quan hệ dân sự
mà mình tham gia
2.2.1.2 Điều kiện của pháp nhân
* Điều kiện thứ nhất: Pháp nhân phải là một tổ chức và tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp
- Pháp nhân có thể được thành lập hợp pháp theo qui định của pháp luật Việt Nam, theo trình tự
mệnh lệnh, trình tự đăng kí, công nhận và trình tự cho phép
- Các tổ chức quốc tế được nhà nước Việt Nam công nhận
* Điều kiện thứ hai: Tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ
- Đối với pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cơ
cấu tổ chức của pháp nhân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định hoặc người có thẩm
quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
- Đối với pháp nhân được thành lập theo trình tự khác thì cơ cấu tổ chức của pháp nhân sẽ do các
pháp nhân đó quyết định trên cơ sở qui mô, lĩnh vực hoạt động
◊ Ý nghĩa:
+ Xác định nội dung hoạt động
+ Sự phối kết hợp giữa các bộ phận của pháp nhân còn là cơ sở để xác định quan hệ của pháp
nhân với các chủ thể khác trong giao dịch dân sự
+ Cơ cấu tổ chức của pháp nhân khác nhau tùy từng loại hình pháp nhân


* Điều kiện thứ ba: Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó
- Tính độc lập về tài sản được thể hiện: tài sản cảu pháp nhân là một khối thống nhất mà pháp
nhân có quyền quyết định các nội dung liên quan đến tài sản đó nhưng đồng thời tài sản đó lại là
sự tách biệt rõ ràng, độc lập với tài sản của cá nhân, tổ chức
- Tính độc lập về tài sản của cá nhân được hiểu là:
+ Đối với các cá nhân được thành lập theo sáng kiến của các thành viên, các thành viên góp vốn

… thì tài sản của pháp nhân phải độc lập với tài sản của các thành viên của pháp nhân
+ Đối với pháp nhân hoạt động trong một số lĩnh vực về quản lý nhà nước, hoạt động lực lượng
vũ trang .. thì tài sản của pháp nhân được ngân sách nhà nước cấp, do đó tài sản của pháp nhân
này phải độc lập với tài sản của cơ quan cấp trên của pháp nhân, độc lập với các tổ chức, cá nhân
khác ..
- Pháp nhân dũng tài sản của mình để chịu trách nhiệm dân sự cho các quan hệ mà pháp nhân
tham gia ◊ trách nhiệm dân sựu của pháp nhân là trách nhiệm dân sự hữu hạn ( một tổ chức mà
phải chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì tổ chức đó không
có tư cách pháp nhân)
* Điều kiện thứ tư: Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập
- Khi tham gia các quan hệ pháp luật, pháp nhân độc lập trong việc hưởng quyền và độc lập trong
việc gánh chịu các nghĩa vụ, tự chịu trách nhiệm trong các quan hệ mình tham gia.
- Nhưng không phải pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập có nghĩa
là pháp nhân được quyền tham gia vào bất cứ quan hệ nào
 Tóm lại: Các điều kiện của pháp nhân là một thể thống nhất, một tổ chức muốn được coi là có
tư cách pháp nhân phải thỏa mãn tất cả các điều kiện này, trên cơ sở đó pháp nhân mới có thể là
chủ thể tham gia một quan hệ pháp luật cụ thể.
2.2.2 Năng lực chủ thể của pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân
sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình.
Năng lực pháp luật mới chỉ là khả năng để pháp nhân có thể có các quyền dân sự và các nghĩa vụ
dân sự. Chỉ khi nào bằng hành vi của pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể phù
hợp với mục đích, hoạt động của pháp nhân thì những khả năng pháp luật cho phép pháp nhân có
các quyền, nghĩa vụ dân sự mới thành hiện thực
Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của pháp nhân xuất hiện đồng thời khi
pháp nhân được thành lập.
Năng lực pháp luật của pháp nhân có tính chuyên biệt, các pháp nhân khác nhau có nội dung
năng lực pháp luật dân sự khác nhau, điều đó phụ thuộc vào mục đích hoạt động của pháp nhân.
Năng lực pháp luật của pháp nhân phát sinh và chấm dứt tương ứng với thời điểm thành lập và
chấm dứt pháp nhân

2.2.3 Hoạt động và trách nhiệm dân sự của pháp nhân
2.2.3.1 Một số yếu tố đảm bảo cho việc thành lập, tồn tại và hoạt động của pháp nhân
* Tên gọi của pháp nhân:
- Phải bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với pháp nhân
khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động
- Pháp nhân có quyền và nghĩa vụ sử dụng tên gọi của mình trong giao dịch.
- Nếu pháp nhân thay đổi tên họ trong thời gian hoạt động phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
* Điều lệ của pháp luật:
- Điều lệ của pháp nhân là văn bản pháp lý ghi nhận những nội dung cơ bản liên quan đến hoạt
động, điều hành của pháp nhân
- Những nội dung trong điều lệ của pháp nhân không được vi phạm điều cấm của pháp luật,


không trái đạo đức xã hội
- Điều lệ của pháp nhân có những nội dung chủ yếu sau:
+ Tên gọi của pháp nhân
+ Mục đích và phạm vi hoạt động
+ Trụ sở
+ Vốn điều lệ
+ Cơ cấu tổ chức
+ Quyền và nghĩa vụ của các thành viên
+ Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ
+ Điều kiện hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể pháp nhân
* Cơ quan điều hành của pháp nhân
- Sau khi pháp nhân được thành lập, hoạt động của pháp nhân phải được duy trì thông qua một cơ
quan đầu não của pháp nhân, đó chính là cơ quan điều hành
- Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được qui định trong điều
lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
* Trụ sở của pháp nhân:

- Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân. Pháp nhân bắt buộc phải có
trụ sở, trụ sở chủ yếu của pháp nhân là yếu tố không thể thiếu, tạo thành tính hợp lệ của hồ sơ lập
thành pháp nhân
- Nơi pháp nhân đặt trụ sở thông thường sẽ là nơi tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu
pháp nhân là bị đơn. Địa chỉ liên lậc của pháp nhân là địa chỉ trụ sở của pháp nhân. Ngoài trụ sở
của pháp nhân, pháp nhân có thể chọn nơi khác làm địa chỉ liên lạc.
* Văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân
- Văn phòng đại diện có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện
việc bảo vệ các lợi ích đó.
- Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức
năng đại diện theo ủy quyền
- Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện,
chi nhánh xác lập, thực hiện và phải chịu trách nhiệm dân sự về các hành vi của văn phòng đại
diện, chi nhánh của pháp nhân.
2.2.3.2 Hoạt động và trách nhiệm dân sự của pháp nhân
* Đối với người đại diện của pháp nhân:
- Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật, được qui đinh trong điều lệ của pháp
nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân
- Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại
diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân
* Đối với thành viên pháp nhân
- Thành viên pháp nhân có thể là người được tuyển dụng để làm một công việc nhất định theo chế
độ tuyển dụng cán bộ công chức hoặc theo chế độ hợp đồng lao động
- Thành viên pháp nhân thực hiện hành vi được pháp nhân giao cho, do đó pháp nhân phải chịu
trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình.
2.2.4 Thành lập và chấm dứt pháp nhân
2.2.4.1 Thành lập pháp nhân
Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân tổ chức, hoặc theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, pháp nhân được thành lập theo trình tự sau:
- Trình tự hành chính: pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền
- Trình tự cho phép: Các cá nhân, tổ chức có sáng kiến thành lập pháp nhân sẽ tiến hành các thủ
tục cần thiết cho việc thành lập và đăng kí hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền


- Pháp nhân được thành lập trên cơ sở pháp nhân ban đầu, đó chính là trường hợp tách pháp nhân
2.2.4.2 Chấm dứt pháp nhân
Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được
xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Pháp nhân có thẩm chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Hợp nhất pháp nhân: chỉ được tiến hành đối với pháp nhân cùng loại. Sau khi hợp nhất, các
pháp nhân cũ chấm dứt, các quyền và nghĩa vụ dân sự của các pháp nhân cũ được chuyển giao
cho pháp nhân mới. (A+B=C)
- Sáp nhập pháp nhân: không tạo thành pháp nhân mới mà chỉ là chấm dứt sự tồn tại của một
pháp nhân, pháp nhân chấm dứt tồn tại mang danh của một pháp nhân đã tồn tại. Sau khi sáp
nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt, các quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp
nhập, chuyển giao cho pháp nhân sáp nhân
- Chia pháp nhân: sẽ tạo ra hai hay nhiều pháp nhân trên cơ sở pháp nhân ban đầu (C = A + B).
Sauk hi chia, pháp nhân bị chấm dứt, quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân bị chia được chuyển
giao cho pháp nhân mới.
- Giải thể pháp nhân: là sự chấm dứt sự tồn tại của một pháp nhân mà không tạo ra hay duy trì sự
tồn tại của một pháp nhân nào. Trước khi giải thể, pháp nhân phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
tài sản. Pháp nhân có thể bị giải thể trong các trường hợp sau:
+ Theo qui định của điều lệ
+ Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
+ Hết thời hạn hoạt động được ghi trong điều lệ hoặc trong quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
- Pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo qui định của pháp luật về phá sản. Qui định của pháp luật về
phá sản không được áp dụng đối với các pháp nhân là doanh nghiệp, hợp tác xã khi không có khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu và doanh nghiệp, hợp tác xã đó bị

coi là lâm vào tình trạng phá sản.
2.2.5 Các loại pháp nhân
* Pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân được thành lập theo trình tự mệnh
lệnh. Nhà nước giao tài sản để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và thực hiện các chức năng
khác mà không nhằm mục đích kinh doanh, là pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự.
* Pháp nhân là tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội: tài sản của tổ chức này có thể có sự hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước, có thể do các thành viên đóng góp hoặc nguồn khác phù hợp với qui
định của pháp luật sẽ không thể phân chia cho các thành viên và sẽ được dùng để chịu trách
nhiệm dân sự.
* Pháp nhân là tổ chức kinh tế: Các tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ
chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo qui định của pháp luật. Pháp nhân là tổ chức kinh tế phải
có điều lẹ và chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.3 Hộ gia đình
2.3.1 Khái niệm và điều kiện xác định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Khái niệm: hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động
kinh tế chung trong quan sản xuất nông, lâm ,ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác do pháp luật qui đinh là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này
Điều kiện xác định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
- Thành viên của hộ gia đình tối thiểu từ hai người trở lên
- Các thành viên phải có mối quan hệ ràng buộc nhất định và phải có chung hộ khẩu
- Các thành viên có tài sản chung và tài sản chung này được dùng để hoạt động kinh tế chung
trong các quan hệ pháp luật dân sự, mà pháp luật cho phép hộ gia đình được tham gia. Tài sản
này có thể là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất hoặc sở hữu chung theo phần


2.3.2 Năng lực chủ thể và trách nhiệm dân sự của hộ gia đình
2.3.2.1 Năng lực chủ thể của hộ gia định
Năng lực pháp luật dân sự của hộ gia đình tồn tại và chấm dứt song song với sự tồn tại và chấm
dứt năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình

- Năng lực pháp luật của hộ gia đình có tính chất chuyên biết
- Năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình: việc tham gia các quan hệ dân sự để đem lại quyền và
nghĩa vụ cho hộ gia đình được thực hiện thông qua hành vi của chủ hộ hoặc các thành viên khác
của hộ gia đình.
Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Chủ hộ có
thể ủy quyền cho các thành viên khác đã thành niên làm đại diện trong quan hệ dân sự, nhưng lưu
ý:
- Việc ủy quyền phải tuân theo qui định của pháp luật
- Các thành viên của hộ gia đình có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia
đình
2.3.2.2 Trách nhiệm dân sự của hộ gia đinh
Nếu hộ gia đình vi phạm các nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi vi phạm
nghĩa vụ dân sự của mình.
Việc chịu trách nhiệm của hộ gia đình được thực hiện theo trình tự:
- Tài sản chung của hộ dùng để chịu trách nhiệm dân sự
- Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu
trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình
◊ Trách nhiệm dân sự của hộ gia đình là loại trách nhiệm dân sự vô hạn
2.4 Tổ hợp tác
2.4.1 Khái niệm và điều kiện của tổ hợp tác
Khái niệm: Tổ hợp tác là sự thỏa thuận liên kết giữa các cá nhân theo qui định của pháp luật dân
sự để tham gia các quan hệ dân sự theo sự thỏa thuận liên kết đó.
Tổ hợp tác là chủ thể không thường xuyên của quan hệ pháp luật dân sự, được giới hạn bởi hợp
đồng hợp tác mà các thành viên của tổ hợp tác thỏa thuận nội dung công việc hợp tác
Để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, tổ hợp tác phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Số lượng thành viên của tổ hợp tác tối thiểu phải từ ba cá nhân trở lên, các cá nhân phải có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ
- Các cá nhân phải cùng nhau thỏa thuận về những nội dung cụ thể của việc hợp tác
- Sự thỏa thuận của các cá nhân phải được thể hiện ở hợp đồng hợp tác và hợp đồng này phải có
chứng thực của UBND cấp xã, phường, thị trấn

◊ Nhìn chung qui mô của tổ hợp tác còn nhỏ hẹp, cơ cấu tổ chức còn đơn gián
2.4.2 Thành lập và chấm dứt tổ hợp tác
2.4.2.1 Thành lập tổ hợp tác
Tổ hợp tác được thành lập theo sáng kiến của các tổ viên. Cá nhân buộc phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Mỗi tổ hợp tác chỉ có thể được hình thành nếu có ít nhất 3 tổ viên trở lên và mỗi
cá nhân có thể là thành viên của nhiều tổ hợp tác
Các thành viên của tổ hợp tác cùng nhau thỏa thuận về hợp đồng hợp tác nhưng bắt buộc phải có
các nội dung sau:
- Mục đích, thời hạn hợp đồng hợp tác
- Họ tên, nơi cư trú, chữ ký của tổ trưởng và các tổ viên
- Tài sản đống góp (nếu có), phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các tổ viên
- Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ viên, của tổ trưởng, ban điều hành (nếu có)
- Điều kiện kết nạp tổ viên mới và tổ viên ra khỏi tổ hợp tác
- Điều kiện chấm dứt tổ hợp tác
Sau khi hợp đồng hợp tác được haofn thành, các tổ viên của tổ hợp tác phải gửi ít nhất hai bản


hợp đồng tới UBND cấp xã, phường, thị trấn. UBND chứng thực vào hợp đồng hợp tác có nội
dung phù hợp với qui định của pháp luật trong thời gian không quá 5 ngày kể từ ngày nhận hợp
đồng
2.4.2.2 Chấm dứt tổ hợp tác
Tổ hợp tác có thể chấm dứt sự tồn tại của mình nếu xuất hiện một trong các căn cứ do pháp luật
qui định, trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác
- Mục đích của việc hợp tác đã đạt đc
- Các tổ viên thỏa thuận chấm dứt tổ hợp tác
- Tổ hợp tác chấm dứt theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong những trường
hợp do pháp luật qui định
Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hoạt động, tổ hợp tác phải thông báo bằng
văn bản về chấm dứt hoạt động của mình cho UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi đã chứng thực

hợp đồng hợp tác
Tổ hợp tác chấm dứt tư cách chủ thể khi chấm dứt hoạt động. Nếu tài sản chung của tổ hợp tác
không đủ thanh toán các khoản nợ thì lấy tài sản riêng của tổ viên để thanh toán theo nguyên tắc
trách nhiệm liên đới tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình.
2.4.3 Năng lực chủ thể, hoạt động và trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác
2.4.3.1 Năng lực chủ thể của tổ hợp tác
Tổ hợp tác là chủ thể chuyên biệt, tính chuyên biệt được xác định bởi hợp đồng hợp tác được kí
giữa các tổ viên. Năng lực chủ thể của tổ hợp tác là năng lực hạn chế, tức là tổ hợp tác không
tham gia toàn bộ các quan hệ pháp luật dân sự.
Cơ sở hình thành tổ hợp tác là dựa trên sự thỏa thuận của các tổ viên của tổ hợp tác, sự thỏa thuận
này không được vi phạm pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Tổ hợp tác lựa chọn ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật khôn cấm, hoạt động không
giới hạn theo phạm vi hành chính địa phương nơi tổ hợp tác chứng thực hợp đồng hợp tác.
Năng lực chủ thể của tổ hợp tác gắn liền với tổ hợp tác trong suốt quá trình tồn tại của tổ hợp tác.
Nếu tổ hợp tác chấm dứt sự tồn tại thì năng lực chủ thể của tổ hợp tác cung chấm dứt.
2.4.3.2 Hoạt động của tổ hợp tác
Hoạt động của tổ hợp tác được tiến hành thông qua hành vi của tổ trưởng tổ hợp tác và hành vi
của tổ viên tổ hợp tác.
- Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác, có thể ủy quyền cho thành
viên ban điều hành hoặc tổ viên thực hiện một số công việc nhất định theo qui định của pháp luật
về ủy quyền.
Các giao dịch vì lợi ích chung của tổ hợp tác vẫn phải được sự đồng ý của đa số các tổ viên tổ
hợp tác mới làm phát sinh nghĩa vụ của tổ hợp tác
- Ngoài việc trực tiếp đại diện cho tổ hợp tác trong các giao dịch dân sự, tổ trưởng tổ hợp tác có
thể ủy quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cho tổ
2.4.3.3 Trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác
Nếu tổ hợp tác vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình trước các chủ thể
vị vi phạm. Tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh tổ hợp tác. Trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác là trách
nhiệm ,dân sự liên đới, vô hạn.

2.5 Nhà nước CHXHCN Việt Nam – Chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự và tham gia các
quan hệ dân sự sau:
- Đối với quan hệ pháp luật về sở hữu: Nhà nước là đại diện cho sở hữu toàn dân, có quyền sở
hữu đối với đất đai và những tài sản quan trọng khác.
- Đối với quan hệ hợp đồng, nhà nước có thể tham gia các quan hệ hợp đồng cụ thể thông qua các


cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các hợp đồng có ý nghĩa lớn đối với
đời sống kinh tế xã hội của đất nước
- Nhà nước tham gia vào quan hệ thừa kế theo di chúc, sở hữu di sản không có người thừa kế.
Chương 3: GIAO DỊCH DÂN SỰ
1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1 Khái niệm giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự được hình thành từ hai tiền đề:
- Tiền đề khách quan: do sự phát triển của xã hội, giao dịch dân sự trở thành phương tiện hữu
hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
- Tiền đề chủ quan: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn lợi ích vật chất hoặc lợi ích
tinh thần của chủ thể, và do ý chí tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch đó.
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự là các quyền và nghĩa vụ của chủ thể được pháp luật đảm
bảo thực hiện.
1.2 Phân loại giao dịch dân sự
1.2.1 Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể trong việc xác lập giao dịch dân sự
- Hành vi pháp lý đơn phương: là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể nên việc xác
lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự trước hết phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
đó. Ví dụ: lập di chúc
- Hợp đồng dân sự: là thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự.

1.2.2 Căn cứ vào sự tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch dân sự
- Giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của chủ thể: là các giao dịch nhằm thỏa mãn lợi ích
vật chất hoặc lợi ích tinh thần của chủ thể, do đó chủ thể có toàn quyền quyết định có tham gia
vào giao dịch dân sự đó hay không
- Giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của nhà nước: là các giao dich vì lợi ích công cộng,
lợi ích của nhà nước hoặc vì những lý do khác. Trong trường hợp này buộc các chủ thể phải tham
gia giao dịch.
1.2.3 Căn cứ vào hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được xác lập
- Giao dịch dân sự có hậu quả pháp lý là làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Giao dịch dân sự có hậu quả pháp lý là làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Giao dịch dân sự có hậu quả pháp lý là làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
1.2.4 Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự
- Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức lời nói: được áp dụng đối với các giao dịch dân sự mà
chủ thể có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau, đối tượng của giao dịch có giá trị nhỏ hoặc với các giao
dịch dân sự phát sinh hậu quả pháp lý sau khi thỏa thuận và các bên thực hiện nghĩa vụ ngay sau
đó giao dịch chấm dứt.
- Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản: hình thức văn bản có thể do pháp luật qui
định hoặc do các bên thỏa thuận. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.
- Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể: bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở
các máy rút tiền
1.2.5 Giao dịch dân sự có điều kiện
Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì
khi điều kiện đó xảy ra
iao dịch dân sự tự phát sinh hoặc hủy bỏ. Điều kiện trong giao dịch dân sự có thể do một bên đưa
ra hoặc do các bên thỏa thuận.
Điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện có thể là điều kiện làm phát sinh hoặc điều kiện


làm hủy bỏ giao dịch.

Điều kiện trong giao dịch dân sự phải là những điều kiện có thể xảy ra trong tương lai, có thể
thực hiện được và không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do
hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của nguời thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra. Nếu có
sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện làm phát sinh hoặc
hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.
2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
2.1 Khái niệm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là điều kiện do pháp luật qui định mà một giao dịch
dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý thì phải thỏa mãn những điều kiện đó
2.2 Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
2.2.1 Điều kiện về chủ thể tham gia
Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự
2.2.1.1 Đối với cá nhân
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
- Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: có toàn quyền trong việ xác lập, thực hiện các
giao dịch vì lợi ích của mình hoặc lợi ích của người khác
- Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:
+ Pháp luật dân sựu đã chấp nhận một số giao dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp lý
nếu giao dịch dân sự đó do người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi xác lập thực hiện
+ Nếu pháp luật có qui định khác thì giao dịch dân sự của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật
+ Nếu pháp luật qui định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15
đến dưới 18 tuồi buộc phải có sự đồng ý bằng văn bản của người này thì giao dịch dân sự cũng
phải đáp ứng qui định này.
- Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần (từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa
án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự): khi xác lập thực hiện giao dịch, phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày phù hợp với lứa tuổi.

- Đối với người dưới 6 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự:
thì không được xác lập thực hiện giao dịch dân sự, mọi giao dịch dân sự của họ đều phải do
người đại diện theo pháp luật xác lập thực hiện.
2.2.1.2 Đối với pháp nhân
- Pháp nhân là một thực thể pháp lý, khi tham gia giao dịch dân sự phải thông qua hành vi của
người đại diện của pháp nhân
- Trong việc tham gia giao dịch dân sự, pháp nhân được phép tham gia các giao dịch phù hợp với
mục đích hoạt động, phạm vi hoạt động, lĩnh vực kinh doanh của pháp nhân
2.2.1.3 Đối với hộ gia đính
- Các giao dịch dân sự mà hộ gia đình tham gia phải là những giao dịch được phép theo qui định
của pháp luật, vì hộ gia đình là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp luật dân sự.
- Các giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập thực hiện vì lợi ích chung của hộ
gia đình làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ
- Đối với việc định đoạt tư liệu sản xuất và tài sản chung có giá trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý
của các thành viên trong hộ từ đủ 15 tuổi trở lên; Đối với tài sản chung khác phải được sự đồng ý
của đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên
2.2.1.4 Đối với tổ hợp tác
- Các giao dịch dân sự mà tổ hợp tác tham gia cũng là giao dịch bị hạn chế theo qui định của pháp


luật, tính hạn chế này được xác định bởi hợp đồng hợp tác.
- Các giao dịch dân sự do người đại diện của tổ hợp tác xác lập thực hiện vì mục đích hoạt động
của tổ hợp tác theo quyết định của đa số tổ viên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả tổ hợp tác.
- Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý, đối
với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
2.2.2 Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch
Mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích (vật chất hoặc tinh thần) hợp pháp mà các bên
mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó.
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội.

Điều cấm của pháp luật là những qui định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những
hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
2.2.3 Điều kiện về ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự
Điều kiện về ý chí của chủ thể là khi tham gia giao dịch chủ thể phải có sự tự nguyện.
Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của chủ thể và phải được thể hiện ra bên
ngoài dưới một hình thức nhất định. Ý chí này phải được kiểm soát bởi lý trí của chủ thể. Khi
nguyện vọng bên trong thể hiện ra bên ngoài đúng như vậy thì khi đó cho thấy chủ thể có sự tự
nguyện.
Những trường hợp sau đây chủ thể không có sự tự nguyện khi tham gia giao dịch:
2.2.3.1 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo
Là giao dịch dân sự được xác lập để che dấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba.
* Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch khác: Giao dịch giả
tạo để che giấu giao dịch khác luôn vô hiệu, còn giao dịch bên trong (bị che giấu) vẫn có hiệu lực
pháp lý. Nếu giao dịch bên trong cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
thì giao dịch đó cũng vô hiệu.
* Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, thể
hiện ở hai trường hợp.
- Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn
tránh nghĩa vụ này, chủ thể đẫ xác lập giao dịch giả tạo.
- Khi tham gia giao dịch chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ đối với nhà nước, nhưng chủ
thể đã xác lập giao dịch với sự giả tạo.
* Trên thực tế có trường hợp một giao dịch dân sự được thể hiện ra bên ngoài nhưng hoàn toàn
không có thực và cũng không nhằm che giấu một giao dịch nào cả ◊ giao dịch dân sự được xác
lập bởi sự tưởng tượng.
2.2.3.2 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn
Bản thân chủ thể xác lập giao dịch có sự nhầm lẫn nhưng chỉ xác định là giao dịch dân sự được
xác lập bởi sự nhầm lẫn nếu chủ thể phía bên kia có lỗi vô ý.

Bên cạnh sự nhầm lẫn về nội dung của giao dịch còn có sự nhầm lẫn về chủ thể xác lập giao dịch.
2.2.3.3 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác
lập giao dịch đó.
2.2.3.4 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc
phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm,
tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.


Để có thể xác định là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa phải đáp ứng các điều kiện:
- Bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là làm phía bên kí phải xác lập giao
dịch dân sự với mình hoặc chủ thế mà bản thân bên đe dọa mong muốn.
- Hành vi đe dọa nhằm làm cho bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không còn sự lựa chọn
nào khác
- Chủ thể bị đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có thể là người khác
- Hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe
dọa mới chỉ sợ hãi về hậu quả của sự đe dọa có thể xảy ra
2.2.3.5 Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình
Việc không nhận thức và làm chủ được hành vi của chủ thể khi xác lập giao dịch có thể do ý chí
chủ quan của người này nhưng cũng có thể do chủ thể khác hoặc do nguyên nhân khách quan.
2.2.4 Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự
Về nguyên tắc, nếu pháp luật không qui định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch thì giao dịch dân sự có hiệu lực pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện được qui đinh trong
BLDS.
Nếu pháp luật qui định giao dịch dân sự buộc phải tuân theo hình thức đó thì khi xác lập giao
dịch chủ thể phải tuân theo.(Điều 122)
2.3 Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

2.3.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự do pháp luật qui định.
2.3.2 Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu
2.3.2.1 Dựa vào thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
* Giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu:
- Là những giao dịch mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là nghiêm
trọng nên theo qui định của pháp luật, một số giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
- Bất cứ lúc nào chủ thể cũng có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu, thậm
chí nếu không có yêu cầu thì giao dịch đó cũng bị xác định là vô hiệu.
* Giao dịch dân sự bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
- Mức độ vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch không nghiêm trọng.
- Tùy thuộc vào lợi ích của mình mà các chủ thể có thể hoặc không yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu.
2.3.2.2 Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng giao dịch dân sự cụ thể
* Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ:
- Tất cả nội dung của giao dịch đều vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
- Có một số nội dung của giao dịch vô hiệu nhưng trực tiếp ảnh hưởng tới các phần còn lại của
giao dịch.
* Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần:
- Có một số nội dung của giao dịch vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch, còn các
nội dung khác không vi phạm.
- Một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến các phần khác của giao dịch.
2.3.2.3 Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không nghiêm trọng của giao dịch dân sự
* Giao dịch dân sự đương nhiên vô hiệu: chính là các giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
* Giao dịch dân sự vô hiệu khi có yêu cầu là giao dịch dân sự bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.



2.3.2.4 Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu theo qui định của BLDS 2005
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, bị lừa dối
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi cuả mình
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức
2.3.3 Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
* Các giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu: là những giao dịch mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch là nghiêm trọng.
Gồm: giao dịch dân sựu vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội, giao dịch dân sự xác lập do giả
tạo.
* Giao dịch dân sự có thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm kể từ
ngày xác lập giao dịch gồm:
- Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, bị lừa dối
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi cuả mình
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức
* Trong việc xác định thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự cần lưu ý:
- Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp qui định tại
Khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: nội dung hợp đồng vi phạm
điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội, một hoặc các bên không có quyền giao kết
hợp đồng thì thời gian yếu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
- Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp qui định tại

Khoản 2 và 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: hợp đồng do người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập
thực hiện, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị đe dọa, bị lừa
dối, thì thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo Qui định tại Điều 56 của
Pháp lệnh hợp đồng dân sựu là 3 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
- Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến trước ngày 1/1/2005 mà BLDS và
các văn bản pháp luật khác không qui định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì kể từ ngày
1/1/2005, việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được xác định theo điều 159
BLTTDS
- Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được thực hiện
theo qui định của BLTTDS 2004
- Các qui định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự cũng được áp dụng khi xem xét đến thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu.
2.3.4 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Việc xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu căn cứ vào mức độ vi phạm một
trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và căn cứ vào yếu tố lỗi của chủ thể.
Hậu quả pháp lý trực tiếp mà các chủ thể phải gánh chịu bao gồm:
- Khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Trong trường hợp các bên chưa thực hiện giao
dịch thì không thực hiện giao dịch, nếu giao dịch thực hiện đến đâu thì dừn đến đó.


- Đối với những trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo qui định
của pháp luật: là do các giao dịch dân sự có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật
- Khi giao dịch dân sự vô hiệu cần xác định lỗi của các bên để yêu cầu bồi thường cũng như để
các bên phải chịu hậu quả khác tương ứng với mức độ lỗi của mình
2.3.5 Vấn đề về bảo vệ quyền của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Người thứ ba ở đây chỉ là người liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu chứ không phải một bên
trong giao dịch dân sự vô hiệu. Khi bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi giao dịch dân sự vô

hiệu cần chú ý:
- Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu đã được chuyển giáo bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì
giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp qui định tại Điều 257
- Trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ban gay tình thì giao dịch với người thứ
ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba nhận được tài sản này thông qua qua bán đấu giá hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở
hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
sửa.
Chương 4 : ĐẠI DIỆN
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI DIỆN
1.1 Khái niệm đại diện
Đại diện là:“việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người
khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm
quyền đại diện” (Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005).
Như vậy, đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm hai bên chủ thể là bên đại diện và bên
được đại diện. Quan hệ đại diện này làm phát sinh một quan hệ nữa là quan hệ giữa người đại
diện với người thứ ba, theo ý chí và vì lợi ích của người được đại diện. “Người” trong định nghĩa
trên không phải chỉ một cá nhân cụ thể, mà chỉ tất cả các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Tất cả các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, nhà nước ) đều
có quyền được có người đại diện cho mình trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
nhằm phục vụ cho quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, cá nhân không được người khác đại
diện cho mình nếu pháp luật qui định học phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đó. Ví dụ:
pháp luật không công nhận việc một cá nhân ủy quyền cho người khác thay mình làm thủ tục ly
hôn, kết hôn, hay lập di chúc, làm chứng minh thư nhân dân …. (các công việc có liên quan tới
yếu tố nhân thân).
1.2 Đặc điểm của quan hệ đại diện
Ngoài các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự nói chung, quan hệ đại diện còn có các đặc
điểm riêng sau đây:

* Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan hệ bên trong và quan hệ
bên ngoài.
Quan hệ bên trong là quan hệ được hình thành giữa người đại diện và người được đại diện. Quan
hệ này có thể được hình thành từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Ví dụ: theo quy
định tại Điều 21 BLDS thì mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi đều phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Điều này có nghĩa là quan hệ giữa người đại diện và người
được đại diện (6 tuổi) trong trường hợp này được xác lập theo pháp luật chứ không phải theo hợp
đồng.
Quan hệ bên ngoài là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba.
Quan hệ bên trong là tiền đề là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài. Quan hệ
bên ngoài thực hiện bởi quan hệ bên trong.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn tồn tại mối quan hệ gián tiếp giữa người được đại diện và người thứ ba


×