Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vai trò và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.17 KB, 17 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Mục lục
A. lời nói đầu...............................................................2
b. nội dung 3
I. Nội dung, và ý nghĩa....................................................3
1. Tầm quan trọng của BHXH....................................................3
2. Sự ra đời và tốc độ tăng trởng.............................................4
3. Các loại hình bảo hiểm.........................................................6
4. Quy mô của thị trờng bảo hiểm............................................6
5. Vai trò của Nhà nớc đối với bảo hiểm xã hội..........................10
II. Định hớng phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam
đến năm 2010..........................................................11
1. Bảo hiểm và hoàn thiện các cơ sở về pháp lý:....................11
2. Coi trọng phát triển về chiều rộng: bao gồm cả mở rộng các
đối tợng tham gia BHXH lẫn các hình thức BHXH..............12
3. Xúc tiến thiết lập và mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam
với BHXH các nớc:................................................................12
4. Phát triển và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và cơ sở vật
chất của ngành BHXH........................................................13
5. Những u điểm và nhợc điểm của BHXH............................14

C. Kết luận 17

1


A. lời nói đầu

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình,
con ngời luôn phải đối phó với những hiểm hoạ khôn lờng của


thiên nhiên và những tổng thất xảy ra bất ngờ trong quá trình
vận hành, điều khiển phơng tiện máy móc, kĩ thuật đo
chính của ngời sáng, chế tạo. Phòng ngừa rủi ro tai nạn là hết
sức quan trọng, nhng thế nào khắc phục hậu quả rủi ro, tai nạn
để sản xuất phát triển bình thờng, cuộc sống đợc ổn định
ngày càng phát triển lại mối quan tâm của các cấp, các ngành
và mọi tầng lớp dân c. Một trong những phơng thức hữu hiệu
nhất đã đợc nhân loại nghiên cứu, đúc kết và tiến hành là bảo
hiểm. Từ những thực tế trên ngành Bảo hiểm Việt Nam đã ra
đời.
Vì vậy, em đã chọn tiểu luận với nội dung "Vai trò và ý
nghĩa của BHXH Việt Nam" để nghiên cứu.

2


b. nội dung

I.

Nội dung, và ý nghĩa

1. Tầm quan trọng của BHXH
Hoạt động bảo hiểm là việc hình thành các quỹ tài chính
để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
Trong những trờng hợp này, các cá nhân có thể dùng khoản tiền
tiết kiệm của mình, Nhà nớc có thể dùng khoản dùng khoản dự
trữ quốc gia để bù đắp. Nhng không phải cá nhân nào cũng
đủ khả năng tài chính để tích luỹ và giải quyết những tổn
thất lớn, còn Nhà nớc thì không thể trợ cấp cho từng cá nhân

nếu thiệt hại chỉ là những thiệt hại nhỏ. Cho nên, khi nền kinh
tế đã phát triển đến một trình độ cao (kinh tế hàng hoá)
hoạt động bảo hiểm đã trở thành một lĩnh vực dịch vụ - dịch
vụ tài chính chuyên nghiệp, mang tính kinh doanh. Đó là bảo
hiểm thơng mại (khác với bảo hiểm xã hội - không mang tính
kinh doanh).
ở nớc ta, với việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trờng, Nhà nớc đã xoá bỏ sự bao cấp về vốn cho các doanh
nghiệp, ngay cả trong trờng hợp thiên tai. Vì thế khi gặp rủi ro,
tổn thất thì bảo hiểm thực sự là giá đỡ tài chính cho mọi cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Nhờ có bảo hiểm, Nhà nớc
không phải chi những khoản lớn bất thờng làm ảnh hởng đến
kế hoạch ngân sách hàng năm, cá nhân không

phải chịu

những tổn thất tài chính nặng nề. Mặt khác toàn bộ quỹ tài
3


chính tích góp thông qua con đờng bảo hiểm, khi tạm thời
nhàn rỗi sẽ đợc sử dụng nh một nguồn tài chính để tái đầu t
phát triển sản xuất xã hội. Nh vậy, ngời tham gia bảo hiểm và
nền kinh tế không chỉ đợc lợi một lần : lần đầu đợc công ty
bảo hiểm bồi thờng theo mức trách nhiệm, lần sau đợc dới dạng
phúc lợi, vật chất do nền kinh tế phát triển, mà một phần đóng
góp tài chính không nhỏ là các quỹ bảo hiểm.
2. Sự ra đời và tốc độ tăng trởng
Nhận thức đợc tầm quan trọng của hoạt động bảo hiểm
nên ngay từ những năm 1965, Thủ tớng Chính phủ đã ra quyết
định số 179 CP thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam (nay là

Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam) mở ra thời kỳ phát triển mới
của ngành bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, trong một thời gian
dài của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nớc ta duy trì chế
độ độc quyền Nhà nớc trong kinh doanh bảo hiểm. Điều đó
đồng nghĩa với việc không cho phép các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh tham gia kinh doanh bảo hiểm.
Vì thế, trớc năm 1993, ở Việt Nam chỉ có duy nhất một
doanh nghiệp Nhà nớc chuyên kinh doanh bảo hiểm, đó là Bảo
Việt. Xuất phát từ quan điểm đổi mới trong hoạt động kinh tế
và đời ssóng, do nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng, ngày
18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100 CP quy
định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tiếp đó đến ngày
16/4/1997, Chính phủ lại tiếp tụ ban hành Nghị định 74 CP
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 100 CP. Đây là
những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nớc ta về ngành kinh
doanh bảo hiểm, mở ra một giai đoạn mới, thực hiện chính
sách nhiều thành phần trong kinh doanh bảo hiểm, đồng thời
4


cũng là sự tuyên bố về sự mở cửa của thị trờng bảo hiểm Việt
Nam.
Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị định 100 và Nghị định
74, thị trờng bảo hiểm Việt Nam đã có những chuyển biến
đáng kể. Trớc hết, đó là sự đa dạng hoá, mở rộng phạm vi quy
mô của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tính đến nay, ngoài 3
doanh nghiệp Nhà nớc là Bảo Việt, Bảo Minh (Công ty Bảo hiểm
thành phố Hồ Chí Minh), PVIC (Công ty bảo hiểm dầu khí Việt
Nam) trên thị trờng còn có sự hiện diện của 2 công ty cổ phần
bảo hiểm là PJICO (Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex), Bảo

Long (Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng), 2 công ty liên
doanh bảo hiểm là VIA (Công ty bảo hiểm quốc tế Việt Nam),
UIC (Công ty bảo hiểm liên hiệp) - vừa mới đợc cấp giấy phép
ban thành lập và 1 liên doanh môi giới bảo hiểm AON Inchinbrok. Tổng phí thu trên toàn thị trờng năm 1997 là 1362
tỷ đồng. Trong khi đó, số tiền bồi thờng bảo hiểm từ năm 1990
trở lại đây không ngừng tăng lên, đạt đến con số gần 1000 tỷ
đồng trên toàn thị trờng trong năm 1997m cha kể đến số phí
bảo hiểm đợc đa vào quỹ dự trữ nghiệp vụ cho những trách
nhiệm cha kết thúc, những tổn thất lớn. Số thu nộp ngân sách
Nhà nớc của ngành bảo hiểm khá cao, mỗi năm tăng 20% năm,
năm 1997 nộp 120 tỷ đồng.
Tuy nhiên, không thể đánh giá hoạt động bảo hiểm cũng
nh lợi ích mà nó mang lại thông qua những con số về thu nộp
ngân sách, về phí bảo hiểm mà phải tính đến số ngời, giá trị
tài sản và trách nhiệm đợc bảo hiểm, bởi phí bảo hiểm chỉ là
một phần rất nhỏ, đôi khi chỉ là một vài phần nghìn (0/00)
của số tiền bảo hiểm đã không ngừng gia tăng. Chỉ tính riêng
5


Bảo Việt, từ năm 1990 trở lại đây, bình quân mỗi năm, Bảo
Việt đã nhận bảo hiểm cho hơn 10 triệu học sinh viên, 5 triệu
lợt khách du lịch, 6 triệu ngời bảo hiểm trợ cấp phẫu thuật và
nằm viện, bảo hiểm tai nạn con ngời, bảo hiểm sinh mạng cá
nhân, trên một triệu ô tô và mô tô đợc bảo hiểm trách nhiệm
nhân sự chủ xe, 1,5 tỷ USD kim ngạch hàng hoá xuất khẩu, hơn
2 tỷ USD giá trị tài sản mua bảo hiểm cháy. Nh vậy, khi có tổn
thất xảy ra, ngời đợc bảo hiểm có sự giúp đỡ về tài chính,
tránh đợc các tình huống bị động khó khăn tài chính trong
khắc phục hậu quả tổn thất, hay nói một cách khác, nếu

không có Nhà nớc chi viện, can thiệp thì hậu quả sẽ trở nên tồi
tệ.
3. Các loại hình bảo hiểm
Bên cạnh đó, các loại hình bảo hiểm ngày càng đợc đa
dạng và hoàn thiện. Từ chỗ ngành bảo hiểm Việt Nam mới chỉ
tiến hành một số nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống chủ yếu là
bảo hiểm tài sản nh bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm tàu biển,
đến nay các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng hơn việc
đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm và khai thác tốt hơn cả 3
nhóm nghiệp vụ bảo hiểm : bảo hiểm con ngời, bảo hiểm tài
sản và bảo hiểm trách nhiệm ; đồng thời, các quy tắc, điều
khoản, biểu phí bảo hiểm đã đợc nghiên cứu để phù hợp với
không những thị trờng bảo hiểm Việt Nam mà còn với tập quán
và thông lệ bảo hiểm thế giới.
4. Quy mô của thị trờng bảo hiểm
Mặc dù có tốc độ tăng trởng khá cao nh đã kể trên những
quy mô của thị trờng bảo hiểm Việt Nam còn nhỏ bé, cha

6


xứng đáng với tiềm năng và tốc độ tăng trởng kinh tế xã hội.
Doanh thu toàn ngành mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng
sản phẩm quốc nội của nền kinh tế (năm 1996 chỉ chiếm
0,48%). Nếu đem so sánh với tỷ trọng của những nớc trong khu
vực nh Nhật Bản (năm 1993: 13,2%). Singapore (năm 1994:
5,4%), Malasyia (năm 1994: 3,7%), Indonesia (năm 1994:
1,57%), thì mới thấy thị trờng bảo hiểm Việt Nam cha lớn.
Các nghiệp vụ bảo hiểm cha thoả mãn tối đa nhu cầu bảo
hiểm trong nớc cũng nh các nhà đầu t nớc ngoài. Trong lĩnh vực

bảo hiểm phi nhân thọ, các nghiệp vụ đã triển khai thì cha
phủ kín các khu vực của nền kinh tế nh khu vực t nhân (bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm nhà t nhân), nhiều nghiệp vụ bảo
hiểm khác còn cha đợc triển khai. Riêng trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ, do mới đợc triển khai nên mức phổ biến và
nhận thức về bảo hiểm nhân thọ cha đợc sâu rộng trong quần
chúng. Mặt khác, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đang đợc bán
cha đủ đa dạng để phục vụ mọi đối tợng dân c và mọi lứa
tuổi.
Ngành bảo hiểm Việt Nam có thời gian hơn 30 năm hình
thành, tồn tại. Song đến tận thời điểm này, việc điều chỉnh
hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở mức Nghị
định của Chính phủ, cha có luật kinh doanh bảo hiểm. Do vậy
phần nào hạn chế tốc độ phát triển của ngành bảo hiểm cũng
nh công cụ quản lý, giám sát Nhà nớc đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
Tại thời điểm hiện nay, mặc dù đã có 7 doanh nghiệp bảo
hiểm trong đó 3 doanh nghiệp là doanh nghiệp Nhà nớc nhng
Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp hàng đầu trên thị trờng bảo
7


hiểm Việt Nam. Năm 1997, Bảo Việt chiếm hơn 60% thị phần
bảo hiểm trong nớc, hầu hết mọi quy tắc, điều khoản, biểu
phí các nghiệp vụ đều do Bảo Việt nghiên cứu, soạn thảo,
trình Bộ Tài chính phê duyệt và ban hành, Bảo Việt là doanh
nghiệp duy nhất triển khai kinh doanh ở cả hai lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ với trên 50 nghiệp vụ khác
nhau. Có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng, doanh
nghiệp bảo hiểm Nhà nớc vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trờng

bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới.
Trong xu thế toàn cầu hoá mọi hoạt động kinh doanh dịch
vụ, việc từng bớc mở cửa thị trờng bảo hiểm, hoà nhập với thị
trờng bảo hiểm thế giới đã trở thành một vấn đề đợc Chính
phủ quan tâm. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đợc
đa dạng. Sản phẩm bảo hiểm phong phú hơn nhằm đáp ứng
mọi nhu cầu bảo hiểm. Việc chuyển giao vốn, công nghệ bảo
hiểm từ nớc ngoài vào sẽ đa ngành bảo hiểm nớc ngoài đầu t
vào thị trờng nội địa, chèn ép công ty bảo hiểm trong nớc,
lũng đoạn thị trờng, gây áp lực để nền kinh tế là có thể xảy
ra. Cho dù các quy tắc điều khoản, nghiệp vụ bảo hiểm Việt
Nam hầu hết đều phù hợp với thông lệ và tập quán bảo hiểm
quốc tế, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã thiết lập đợc
quan hệ về tái bảo hiểm, môi trờng bảo hiểm, đại lý giám
định và xét bồi thờng với hàng trăm công ty bảo hiểm trên thế
giới, nhng những đòi hỏi về một thị trờng bảo hiểm tự do
đang thách thức các nhà quản lý các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam. Gần đây, WTO (Tổ chức thơng mại thế giới) đang
đòi hỏi các nớc thành viên mở cửa thị trờng, nhất là trong lĩnh
vực dịnh nh bu chính viễn thông, dịch vụ tài chính mà trong

8


đó có kinh doanh bảo hiểm. Các Công ty bảo hiểm Việt Nam
vì coi đây là thị trờng còn sơ khai, thâm nhập để một số
công ty bảo hiểm nớc ngoài lập công ty con hay chi nhánh 100%
vốn nớc ngoài tại Việt Nam đang là một trong những đòi hỏi
của các đối tác nớc ngoài trong khi soạn thảo hiệp định thơng
mại song phơng giữa Việt Nam và một số nớc.

Trong bối cảnh đó, việc cho phép thành lập thêm các công
ty liên doanh, chi nhánh công ty nớc ngoài cần đợc cân nhắc kỹ
các quan hệ cung cầu và bảo hiểm của thị trờng Việt Nam
trong một thời kỳ cụ thể, đặc biệt là khi Việt Nam cha có
nhiều kinh nghiệm về việc quản lý trong lĩnh vực này. Một số
nớc Châu á, đặc biệt thực tiễn ở Nhật Bản đã cho thấy: Nhật
Bản mở cửa thị trờng bảo hiểm trong nớc cho các công ty 100%
vốn nớc ngoài vào hoạt động, nhng quá trình đó đợc thực hiện
một cách từ từ, thận trọng, không gây sốc bằng cách giới hạn số
lợng giấy phép hoạt động, nghĩa là mỗi năm Chính phủ Nhật
Bản chỉ cấp giấy phép cho một công ty nớc ngoài vào kinh
doanh trên thị trờng. Bên cạnh đó, cũng không loại trừ việc cần
u tiên cho phép thành lập công ty con của các công ty tái bảo
hiểm nớc ngoài vì hoạt động của một công ty tái bảo hiểm sẽ
đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, vốn lớn hơn (mà điều kiện nội lực
khó đáp ứng), đồng thời thu hút đợc nguồn vốn đầu t vào Việt
Nam và tăng khả năng giữ lại ngoại tệ trong nớc.
Song song với việc thúc đẩy thị trờng bảo hiểm Việt Nam
hoà nhập với thị trờng bảo hiểm quốc tế, vấn đề bảo hộ và
phát triển thị trờng nội địa cũng cần phải đợc Chính phủ
quan tâm thích đáng. Một hệ thống các chính sách đúng
đắn và hợp lý về thuế, về nghiệp vụ bảo hiểm, về tiền lơng
9


và các chế độ khác để doanh nghiệp bảo hiểm nội địa có
khả năng cạnh tranh đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Việc
kiểm soát hoạt động của các công ty bảo hiểm nớc ngoài cũng
cần đợc chú trọng thông qua các qui định hạn chế về phạm vi,
địa bàn, lĩnh vực hoạt động. Đồng thời, Chính phủ nên xem

xét đến việc phát triển các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm
đã qui định trong Nghị định 100CP, hỗ trợ doanh nghiệp bảo
hiểm Nhà nớc, để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh,
phục vụ tốt hơn cho công cuộc hiện đại hoá - công nghiệp hoá
đất nớc, chuẩn bị đủ điều kiện để Việt Nam gia nhập AFTA,
APEC, WTO.
5. Vai trò của Nhà nớc đối với bảo hiểm xã hội
Để quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm bằng pháp luật.
Nhà nớc cần sớm ban hành Bộ Luật bảo hiểm là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất, theo đó, quyền lợi chính đáng không chỉ
của ngời đợc bảo hiểm mà còn của các doanh nghiệp đợc bảo
hiểm sẽ đợc pháp luật bảo vệ. Trớc mắt, một số vấn đề về bảo
hiểm nh hệ thống biểu phí "sàn" cho một số nghiệp vụ nh bảo
hiểm cháy, các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc nh bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng
lắp đặt, bảo hiểm tai nạn hành khách, phạm vi hoạt động của
các văn phòng đại diện bảo hiểm nớc ngoài tại Việt Nam, địa
vị pháp lý của các đại lý bảo hiểm, đặc biệt là đại lý bảo
hiểm nhân thọ, cần phải đợc cụ thể hoá bằng pháp luật để
thị trờng bảo hiểm Việt Nam phát triển nhanh chóng và lành
mạnh.

10


II.

Định hớng phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam
đến năm 2010.


Nền kinh tế Việt Nam định hớng phát triển nhiều thành
phần, từ đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã đợc phát
triển nhanh, có đóng góp lớn trong nhân quỹ và đã tham gia
nhiều mặt trong các chính sách xã hội. Riêng về bảo hiểm xã
hội, đã thực sự "sự bảo vệ xã hội" cho mọi thành viên trong xã
hội. Nếu nh trớc đây BHXH chỉ là đơn tuyến nguồn chi bảo
hiểm xã hội chủ yếu từ ngân sách Nhà nớc thì nay, nhu cầu
bảo hiểm xã hội đã phát triển rộng hơn, tới toàn xã hội. Điều đó
thúc đẩy BHXH phải có các định hớng phát triển mới để đáp
ứng đợc những yêu cầu đó:
1. Bảo hiểm và hoàn thiện các cơ sở về pháp lý:
- Sửa đổi, bổ sung một số BHXH quy định tại các điều lệ
BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP và 45/CP của
Chính phủ để khắc phục các tồn tại hiện nay.
- Khẩn trơng xây dựng luật BHXH theo Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc đặt ra và Nghị quyết của Quốc hội khoá 9.
- Kiện toàn hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý công
tác BHXH, xây dựng quy chế vận hành đủ sức đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới của ngành BHXH Việt
Nam.
- Đề ra những chính sách cụ thể về quy chế tài chính
thống nhất, bảo đảo đủ nguồn thu, chống bao cấp, bảo tồn và
tăng trởng quỹ cho hoạt động BHXH Việt Nam.

11


- Tăng cờng công tác kiểm tra, thanh tra thực hiện chính
sách BHXH nhằm đảo bảo mọi quy định có liên quan đợc thực
hiện đầy đủ, đúng đắn, kịp thời.

2. Coi trọng phát triển về chiều rộng: bao gồm cả mở
rộng các đối tợng tham gia BHXH lẫn các hình thức
BHXH.
Ngành BHXH sẽ cố gắng thu hút tất cả các đối lợng lao
động của các thành phần kinh tế tham gia BHXH. Mở rộng đối
tợng tham gia BHXH sẽ góp phần làm lành mạnh thị trờng lao
động của nớc ta. Hiện nay đối tợng của hệ thống bảo hiểm xã
hội mới chỉ chiếm 10% lực lợng lao động, còn đa số ngời lao
động ở những khu vực không có quan hệ lao động (chủ - thợ)
hoặc ở các doanh nghiệp có dới 10 lao động vẫn cha đợc tham
gia BHXH mặc dù nhiều ngời trong số họ có nhu cầu về bảo
hiểm xã hội. Tuy nhiên việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH
cũng cần phải thận trọng và có những bớc đi thích hợp tuỳ theo
điều kiện kinh tế của nớc ta cũng nh trình độ quản lý của
ngành BHXH.
3. Xúc tiến thiết lập và mở rộng quan hệ của BHXH
Việt Nam với BHXH các nớc:
Nhằm sớm hội nhập với hệ thống bảo hiểm các nớc, trớc mắt
là các nớc Đông Nam á hợp tác quốc tế sẽ đợc tiến hành trên các
lĩnh vực:
- Trao đổi kinh nghiệm của ngành;
- Đào tạo đội ngũ cán bộ làm việc và quản lý;
- Gia nhập các hiệp hội nhằm hỗ trợ nhau trong lĩnh vực
cùng quan tâm.

12


4. Phát triển và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và cơ sở vật
chất của ngành BHXH

- Hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc cho toàn bộ hệ
thống từ Trung ơng đến địa phơng (kể cả các huyện);
- Từng bớc đầu t phát triển hệ thống thông tin trong toàn
ngành;
- Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ đủ trình độ đảm
trách vai trò to lớn của mình. Mục tiêu mỗi năm ít nhất phải có
20% cán bộ đợc đào tạo mới hoặc đào tạo lại, tập trung và các
lĩnh vực: Nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH; quản lý quỹ
BHXH; cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách, chế
độ BHXH; những vấn đề cơ bản về bảo toàn và phát triển
quỹ BHXH; công nghệ thông tin (tin học trong quản lý quỹ
BHXH);
- Hình thành mạng lới tổ chức BHXH gồm 3 cấp theo hình
tháp, trong đó, đóng vai trò hạt nhân và cấp trên, cơ quan
BHXH Việt Nam (với các tổ chức trực thuộc) có trách nhiệm
quản lý toàn ngành và thu hút hầu hết đối tợng bảo hiểm bắt
buộc và bảo hiểm tự nguyện; toàn bộ các tổ chức BHXH kể
trên đều chịu sự giám sát và chỉ đạo của Hội đồng quản lý.
Hội đồng này sẽ kết hợp với Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội,
với Bộ Tài chính trong lĩnh vực liên quan để quản lý một cách
hiệu quả nguồn vốn.
* Để thực hiện những định hớng phát triển BHXH đến năm
2010 không chỉ cần đến nỗ lực của bản thân ngành BHXH
mà còn rất cần sự phối hợp từ các cấp các ngành có liên quan
cũng nh phối hợp chặt chẽ BHXH với các chính sách bảo đảm xã
hội khác, với các hình thức bảo hiểm khác. Đồng thời, Nhà nớc
13


cũng cần có trách nhiệm hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH từ nguồn

ngân sách.
5. Những u điểm và nhợc điểm của BHXH
a. Chế độ BHXH mới thể hiện đợc những u điểm
sau:
- Đối với chế độ trợ cấp ốm đau quy định thêm thời gian hởng trợ cấp đối với những ngời lao động thuộc các ngành nghề
hoặc công việc nặng nhọc, độc hại;
- Đối với chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp: Điều lệ quy định rõ ngời sử dụng lao động phải chịu
mọi khoản chi phí về sơ cứu, cấp cứu, điều trị, tiền lơng
trong thời gian chữa bệnh phải chịu bồi thờng nếu ngời lao
động bị tàn phế hoặc bị chết. Đồng thời ngời sử dụng lao
động phải có trách nhiệm bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ
sau khi ngời lao động đã đợc điều trị khỏi;
- Đối với chế độ hu trí: Điều lệ BHXH quy định rõ hơn các
trờng hợp cha đủ tuổi đời cũng đợc hởng lơng hu hàng tháng.
Quy định này nhằm giải quyết tình hình thực tế thờng xảy
ra có nhiều trờng hợp tuy cha hết tuổi lao động nhng vì sức
khoẻ suy giảm mà không thể tiếp tục làm việc đợc;
- Đối với chế độ tử tuất: Điều lệ đã quy định mức tiền mai
táng đợc nâng lên bằng 8 tháng tiền lơng tối thiểu.
Nhìn chung, chính sách BHXH mới phù hợp với thực tiễn, phù
hợp với đờng lối đổi mới về kinh tế chính trị của Nhà nớc, ngày
càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nó trong hệ
thống các chính sách của Đảng và Nhà nớc.

14


b. Những điều còn hạn chế:
- Theo nh quy định tại Bộ luật Lao động và Điều lệ BHXH,

thì hiện nay mới chỉ có hơn 60% lao động thuộc diện BHXH
bắt buộc đợc đăng ký tham gia BHXH còn lại gần 40% cha
tham gia;
- Tiền thu từ sự đóng góp của ngời lao động và ngời sử
dụng lao động còn bị thất thu lớn so với quy định;
- Tổ chức BHXH Việt Nam: Biên chế đông nhng thiếu
đồng bộ và trình độ, chất lợng còn hạn chế. Sự phối hợp giữa
tổ chức BHXH Việt Nam với các cơ quan quản lý Nhà nớc ở
Trung ơng và địa phơng còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt là
trong việc phối hợp kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách
BHXH;
- Do việc quán triệt, tuyên truyền rộng khắp về chính sách
BHXH mới cha kịp thời nên nhận thức của ngời sử dụng lao
động và ngời lao động về chính sách BHXH cha đầy đủ dẫn
đến việc thực hiện chính sách còn thiếu sót trong nộp và thực
hiện các chế độ BHXH cho ngời lao động;
- Hiện nay, Nhà nớc đang quản lý và thực hiện các chính
sách BHXH nhng cũng còn một số vớng mắc vì còn phải xử lý
những tồn tại theo các chính sách quy định trớc đây, vừa phải
thực hiện các quy định mới;
- Cha tổ chức đợc hình thức BHXH tự nguyện nh luật
định;
- Cha có luật BHXH để điều chỉnh các mối quan hệ phát
sinh trong BHXH;

15


- Đối tợng tham gia chính sách BHXH của nớc ta hiện nay còn
rất hạn chế trong khi số lợng đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh

phát triển mạnh trong những năm gần đây.

16


C. Kết luận

Nói tóm lại phát triển Bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu công bằng Bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách bảo
đảm xã hội là một định hớng chiến lợc của Đảng và Nhà nớc,
hoàn toàn phù hợp với xu hớng hiện nay ở nớc ta, là nhiệm vụ của
từng ngời dân trong việc tham gia đóng góp, đồng thời cũng
là quyền lợi của họ trong việc hởng thụ các nguồn lợi do quỹ Bảo
hiểm xã hội đem lại. Việc Nhà nớc tiếp tục tạo điều kiện thuận
lợi cả về cơ chế, chính sách, trong đó có chính sách, cơ chế
tài chính để thúc đẩy Bảo hiểm xã hội phát triển ngành càng
vững mạnh, có thể hoạt động độc lập với ngân sách Nhà nớc là
một việc làm cần thiết và lâu dài, cần thiết phải có sự hỗ trợ
của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, đoàn thể
và xã hội trong phạm vi cả nớc.

17



×