Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội thị xã sầm sơn thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.36 KB, 67 trang )

1

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

Mở đầu:
BHXH là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, thực
hiện tốt chính sách BHXH sẽ góp phần đảm bảo ASXH. Để thực hiện được chính
sách này cần phải có một quỹ tài chính BHXH. Quỹ này được hình thành từ các
nguồn: từ sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, từ sự hỗ trợ của Nhà nước và từ các
nguồn thu hợp pháp khác, được quản lý tập trung, thống nhất. Quỹ BHXH vững
mạnh sẽ làm tăng khả năng hoạt động cho hệ thống BHXH, tăng khả năng chi trả
cho các đối tượng. Trong thực tế hiện nay, nhu cầu BHXH ngày càng tăng cao kéo
theo đó là tình trạng chi trả các chế độ cho NLĐ ngày càng tăng lên nhưng nhưng
nguồn thu BHXH đang có xu hướng không đáp ứng được nhu cầu đó, khiến cho
Quỹ BHXH có nguy cơ bị thâm hụt, thu không đủ bù chi. Vì vậy, cấp thiết cần phải
có những giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng nói trên và vấn đề nâng cao hiệu
quả thu BHXH là một vấn đề bức bách hiện nay.
Trong thời gian thực tập tại BHXH Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá, em nhận
thấy công tác thu bên cạnh đã đạt được những kết quả thiết thực song vẫn tồn tại
những hạn chế nhất định như: công tác thông tin tuyên truyền chưa được chú trọng,
trong công tác thu nộp còn chậm trễ,…làm cho hoạt động thu quỹ tại BHXH Thị xã
Sầm Sơn chưa đạt được hiệu quả tốt nhất.
Nhận thức được vấn đề trên, em đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH tại BHXH thị xã Sầm Sơn –
Thanh Hoá” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp, nhằm xem xét và nghiên cứu thực
trạng thu nộp quỹ BHXH Thị xã Sầm Sơn trong giai đoạn 2004 – 2008 để đóng góp
một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại cơ quan BHXH Thị xã
Sầm Sơn.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:


Chương I: Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH
Chương II: Thực trạng công tác thu BHXH tại BHXH Thị xã Sầm Sơn

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


2

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH tại
BHXH Thị xã Sầm Sơn.
Trong quá trình thực tập em đã nhận được sự giúp đỡ của các cán bộ cơ quan
BHXH Thị xã Sầm Sơn và sự hướng dẫn của cô giáo Th.s Nguyễn Thị Chính. Mặc
dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và nhận thức chưa được đầy
đủ nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được
sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo để bài viết của em đ ược hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


3


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC THU BẢO
HIỂM XÃ HỘI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI:
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của BHXH:
Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải được đáp ứng các nhu cầu tối
thiểu: ăn, mặc, ở, nhưng để thoả mãn được các nhu cầu này con người cần phải lao
động, tạo ra những sản phẩm cần thiết đáp ứng cho các nhu cầu đó. Trong suốt cuộc
đời, mọi hoạt động của con người không phải lúc nào cũng suôn sẻ, họ có thể gặp
phải những khó khăn hay những rủi ro trong cuộc sống, làm mất khả năng lao động,
giảm hoặc mất thu nhập. Đặc biệt khi nền sản xuất hàng hoá phát triển, cùng với
quá trình công nghiệp hoá đã tạo điều kiện cho Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển
mạnh mẽ, đội ngũ công nhân lao động làm thuê cũng tăng lên; cuộc sống của họ
chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập do việc làm thuê đem lại. Tuy nhiên, NLĐ lại bị
giới chủ bóc lột hết sức nặng nề và đối xử không công bằng: giờ làm việc kéo dài,
cường độ lao động rất cao, tiền công lại bị trả rất thấp, thu nhập không đủ để đảm
bảo những nhu cầu cần thiết, khiến họ thường xuyên phải đối mặt với các hiện
tượng: ốm đau, tai nạn lao động. Đứng trước tình hình đó giai cấp công nhân đã liên
kết lại với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau tạo lập các quỹ cứu trợ người ốm,
người bị tai nạn; lập các tổ chức tương tế và vận động mọi người tham gia. Đây
chính là mầm mống đầu tiên cho sự ra đời của một hệ thống BHXH.
Kể từ đó hệ thống BHXH trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển
sau:
-Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần
đầu tiên tại Cộng hoà liên bang Đức

-Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức và Bỉ
-Năm 1883 Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


4

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

-Năm 1894 và năm 1896 Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đầu tiên về
các tổ chức tương tế
-Năm 1935, Mỹ ban hành đạo luật đầu tiên về ASXH, trong đó BHXH là hạt
nhân
-Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc Tuyên ngôn nhân quyền,
trong đó có đoạn: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên xã hội có quyền
hưởng BHXH”
-Ngày 25/06/1952 Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước102 –
Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
-Ngày 07/06/1967 Công ước 128 ra đời nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền
tuất
Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Nhà
nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện chính sách BHXH:
-Sắc lệnh số 54/SL ngày 01/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức
về hưu;
-Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/06/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công

chức;
-Sắc lệnh 76/SL ngày 20/05/1950 ấn định cụ thể hơn việc trợ cấp hưu trí, thai
sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức;
-Sắc lệnh 29/SL ngày 12/03/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 ấn
định chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công
nhân sảm xuất.
Tuy nhiên phải đến năm 1961, chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức
Nhà nước mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập một Quỹ BHXH thống nhất
toàn quốc sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH kèm
theo Nghị định 218/CP ngày 27/11/1961với 6 loại trợ cấp (ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất).
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII công cuộc đổi mới đất nước đi
vào chiều sâu, trong đó việc đổi mới BHXH cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


5

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

hội trở thành một yêu cầu bức bách. Việc đổi mới được đánh dấu bằng việc tách
một bộ phận cấu thành của BHXH - chế độ chăm sóc y tế thành một quỹ độc lập:
BHYT (Nghị định 299/HĐBT). Ngày 22/06/1993 Chính phủ ban hành Nghị định
43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn
diện.

Việc cải cách đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp quy được ban
hành từ năm 1995:
-Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về Điều lệ BHXH;
-Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về thành lập BHXH Việt
Nam;
-Quyết định 606/1995/QĐ – TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính
phủ và việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam;
-Nghị định số 93/1998/NĐ – CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số Điều lệ BHXH;
-Luật BHXH được Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/06/2006
thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 quy định chi tiết về chế độ, chính sách,
quyền và trách nhiệm của NLĐ, NSDLĐ, cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia
BHXH,…Kể từ đây, Luật BHXH đã trở thành lang pháp lý hoàn chỉnh nhất cho
hoạt động của hệ hống BHXH, chính vì vậy quyền lợi của NLĐ cũng được đảm bảo
nhất.
Trên đây là một số mốc quan trọng trong việc thực hiện BHXH. Có thể nhận
thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta coi BHXH là một trong những chính sách xã hội
hàng đầu nên luôn cố gắng hoàn thiện hê thống BHXH một cách tốt nhất cho phù
hợp với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn phát triển.
1.1.2. Khái niệm, bản chất và vai trò của BHXH:
1.1.2.1. Khái niệm BHXH:
BHXH ra đời và phát triển khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở
Châu Âu, chính vì vậy có thể nói, BHXH có một lịch sử khá lâu đời, có nhiều thay
đổi về chất với nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48



6

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

giới. BHXH nhằm bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và
gia đình họ trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm,…làm giảm
hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, do tính chất lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái
niệm BHXH cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và cho đến nay, BHXH vẫn
là vấn đề còn nhiều tranh luận.
Theo khái niệm mà ILO đưa ra thì BHXH được hiểu là: “sự tổ chức bảo đảm
bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không
được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần
đảm bảo an toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an
toàn xã hội”.
Theo Luật BHXH của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì
“BHXH là sự đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm
hoặc bị mất thu nhập do ốm đau, thai sản. tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH”.
Từ các giác độ khác cũng có những khái niệm khác nhau về BHXH, như:
-Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ NLĐ, sử dụng
tiền đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và được sự bảo hộ, tài trợ của Nhà nước, nhằm trợ
cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc
mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động
theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết.
-Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính
giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.

-Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống vật chất cho NLĐ khi họ không may gặp phải những “rủi ro xã hội”,
nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Có thể nhận thấy rằng, dù đứng ở giác độ nào thì, BHXH đều được hiểu với
ba khía cạnh chủ yếu sau:

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


7

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

- BHXH hình thành và phát triển do nhu cầu của đời sống xã hội, nhất là khi
nền sản xuất hàng hoá hình thành. Trong lao động sản xuất, con người một mặt sẽ
gặp được những điều kiện thụận lợi để phát triển, nhưng song song với nó lại là
những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro xã hội” làm giảm hoặc mất thu nhập
của họ. Những sự kiện hay những “rủi ro xã hội” bằng cách này hay cách khác đều
đe doạ đến “an toàn kinh tế” của NLĐ và gia đình họ. Vì vậy, cần phải có những
biện pháp để chống lại sự đe doạ này, một trong những biện pháp đó là BHXH. Nói
cách khác, BHXH ra đời nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ và gia đình họ trước
những rủi ro, những sự kiện không thuận lợi.
- Mục đích của BHXH là thông qua các trợ cấp BHXH, bù đắp hoặc thay thế
thu nhập cho NLĐ và gia đình họ trước những rủi ro hay sự kiện làm cho NLĐ bị
giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc sức lao động không được sử dụng, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

- Lịch sử phát triển của BHXH đã chỉ ra rằng: có một số cách thức tổ chức
thực hiện để bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập từ nghề nghiệp, như: NLĐ cùng giúp đỡ nhau, Nhà nước thực hiện thông qua
ngân sách và hình thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung thông qua sự đóng góp
của các bên tham gia.
1.1.2.2. Bản chất của BHXH:
- BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát
triển của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện
ra đời và phát triển. Vì vậy, có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản
ánh sự phát triển của một nền kinh tế: một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống
nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế
càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở
rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú hơn.
- Mối quan hệ bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và
diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH – bên BHXH – bên được BHXH. Bên
tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của pháp

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

luật, gồm: NLĐ, hoặc NSDLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. NLĐ tham gia BHXH để
bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông NLĐ; NSDLĐ có

trách nhiệm đóng góp BHXH cho NLĐ mà mình thuê mướn. Bên BHXH là bên
nhận tiền đóng góp BHXH của các bên tham gia. Bên BHXH thường là một cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là bên nhận các
loại trợ cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do
các loại sự kiện, rủi ro được bảo hiểm gây ra. Bên được BHXH là: NLĐ và gia đình
họ.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nghiên trái với chủ quan của con người như: ốm
đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp,... hoặc có thể là những trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,..Các rủi ro đó có thể xảy ra cả trong
hoặc ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi của NLĐ khi gặp phải rủi ro sẽ được
thay thế hoặc bù đắp một phần từ nguồn quỹ tài chính tập trung do các bên tham gia
cùng đóng góp và được Nhà nước hỗ trợ một phần.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, Nhà nước hỗ
trợ khi có sự thâm hụt (thu không đủ chi), chính vì vậy mà chính sách BHXH nằm
trong hệ thống chung của chính sách về kinh tế – xã hội và là một trong những bộ
phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của quốc gia.
-Mục tiêu của BHXH là thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ khi rủi
ro xảy ra. Mục tiêu này đã được ILO đề ra như sau:
+ Đền bù cho NLĐ những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo những nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu dân cư và các nhu cầu đặc biệt
khác của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con
người và đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn

Dương Thị Hằng


Lớp: BHXH 48


9

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên
của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các
quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển
của con người”
1.1.2.3. Vai trò của BHXH:
- Đối với Người lao động:
BHXH đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần đảm bảo cuộc sống
ổn định cho NLĐ và gia đình họ, khi mà những tủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm đau,
tai nạn, thai sản …làm giảm hoặc mất sức lao động ảnh hưởng đến thu nhập của
NLĐ. Bởi lẽ, khi NLĐ gặp những rủi ro ảnh hưởng đến thu nhập, BHXH sẽ thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất đi cho NLĐ và gia đình họ với mức
hưởng, thời điểm hưởng, thời gian hưởng theo đúng quy định của Nhà nước trong
từng chế độ. Mức trợ cấp này không phải là hoàn toàn mức thu nhập mà NLĐ đã
mất hay bị giảm đi những nhưng nó đã phần nào cung cấp cho NLĐ một khoản tiền
nhất định để trang trải những nhu cầu thiết yếu cho bản thân và gia đình. Chính do
sự thay thế và bù đắp một phần thu nhập này của BHXH đã giúp NLĐ cảm thấy yêu
nghề, yêu công việc của mình hơn; là sợi dây ràng buộc giúp họ hăng say lao động
sản xuất hơn, gắn hết NSDLĐ và NLĐ lại gần nhau hơn, từ đó góp phần nâng cao
năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội và tăng chất lượng cuộc sống của chính
NLĐ.
-Đối với Người sử dụng lao động:

Thực tế trong quá trình lao động sản xuất, giữa NLĐ và NSDLĐ luôn xảy ra
những xung đột nhất định về tiền lương, tiền công, thời gian lao động…và khi
những rủi ro xảy ra, nếu có không có sự trợ giúp của BHXH thì dễ dẫn đến những
xung đột và tranh chấp giữa hai giới chủ - thợ. Vì vậy, BHXH góp phần điều hoà,
hạn chế những mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ, tạo ra môi trường làm việc ổn
định cho NLĐ và tạo sự ổn định trong công tác quản lý cho NSDLĐ. Từ đó nâng
cao khả năng sản xuất của doanh nghiệp.

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


10

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

Hơn nữa NSDLĐ muốn ổn định phát triển sản xuất kinh doanh chẳng những
phải đầu tư vào máy móc, trang thết bị,…mà còn phải chăm lo đến đời sống của
NLĐ mà họ thuê mướn. Nhưng trong cuộc sống, luôn tiềm ẩn những rủi ro có thể
xảy ra bất cứ lúc nào đối với NLĐ, và khi đó NSDLĐ sẽ không có người làm thuê
cho mình, do đó quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ bị gián đoạn rồi dẫn đến năng
suất giảm và cuối cùng là giảm thu nhập của NSDLĐ. Nhưng khi có sự tham gia
của BHXH, có sự trợ giúp về mặt tài chính thì NLĐ nhanh chóng được phục hồi
những thiệt hại xảy ra, nhanh chóng quay lại với công việc, góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh.
-Đối với Nhà nước:
+ BHXH là một bộ phận quan trọng giúp Ngân sách Nhà nước giảm chi đến

mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn trong cuộc sống của NLĐ và gia
đình họ khi gặp phải những rủi ro.
+ BHXH góp phần giữ vững an ninh, chính trị trong nước, ổn định trật tự xã
hội: BHXH giúp điều hoà, hạn chế những mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ, đồng
thời tạo ra môi trường làm việc thuận lợi cho NLĐ. Bởi lẽ, nếu những mâu thuẫn
giữa NLĐ và NSDLĐ chưa được giải quyết thì có thể dẫn tới những cuộc đình
công, thậm chí là những cuộc bãi công, đến lúc đó, quá trình sản xuất bị ngừng trệ,
không có sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội; bên cạnh đó, Chính phủ
còn phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như: giữ vững an toàn xã hội, đảm bảo các
nhu cầu của người dân…
+ Quỹ BHXH chẳng những dùng để chi trả trợ cấp cho NLĐ khi gặp phải rủi
ro mà còn là một nguồn tài chính lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước. Nguồn
quỹ nhàn rỗi có thể được đem đầu tư vào các công trình công cộng của quốc gia.
Như vậy, một mặt nó giúp thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác sẽ giúp tăng tr ưởng
quỹ do phần lãi do đầu tư mang lại.
1.1.3. Những nguyên tắc hoạt động và quan điểm cơ bản về BHXH:
1.1.3.1. Những nguyên tắc hoạt động của BHXH:

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


11

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

- Mọi NLĐ trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc

mất việc làm đều có quyền hưởng BHXH.
Quyền được hưởng BHXH là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền
con người: được hưởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ này
gắn với các trường hợp NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm do đó giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Về nguyên lý thì mọi trường hợp như
thế, NLĐ phải được hưởng BHXH, nhưng giữa nguyên lý với thực tiễn luôn luôn có
một khoảng cách khá xa. Khoảng cách đó do các điều kiện kinh tế - xã hội quy
định. Bởi vậy, trên giác độ điều hành vĩ mô, cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn phát triển để tổ chức và hoàn thiện
dần việc thực hiện BHXH đối với NLĐ.
-Nhà nước và NSDLĐ có trách nhiệm phải BHXH đối với NLĐ, NLĐ cũng
phải có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó, Nhà nước
có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Với
vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời
cũng có mọi công cụ để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, cũng có những kết quả bất lợi xảy ra, những kết quả bất lợi này trực
tiếp hoặc gián tiếp sẽ tạo ra những rủi ro cho NLĐ. Khi xảy ra những tình trạng như
vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nước phải chi Ngân sách để giúp đỡ NLĐ dưới
những hình thức khác. Nhưng khi có sự tham gia của BHXH, Nhà nước chỉ phài chi
một khoản tiền nhỏ nhưng vẫn đảm bảo được cuộc sống cho NLĐ.
Đối với NSDLĐ, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự như trên nhưng chỉ
trong phạm vi một số doanh nghiệp, ở đó NLĐ và NSDLĐ có một mối quan hệ chặt
chẽ. BHXH sẽ giúp cho NLĐ có một cuộc sống ổn định hơn và NSDLĐ có kết quả
sản xuất kinh doanh tốt nhất.
Đối với NLĐ, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và không hoàn
toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết là do lỗi của bản thân. Vì thế,
nếu muốn được BHXH tức là muốn được nhiều người hỗ trợ cho mình, là dàn trải

Dương Thị Hằng


Lớp: BHXH 48


12

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước
hết đã. Điều đó có nghĩa là bản thân NLĐ phải có trách nhiệm tham gia BHXH để
tự bảo hiểm cho mình.
-BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành Quỹ
BHXH độc lập và tập trung.
Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm của các bên tham gia vào BHXH đó là việc
đóng phí BHXH. Nhờ có sự đóng góp mà phương thức riêng có của BHXH là dàn
trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều
dọc và chiều ngang. Hơn nữa, nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa
trách nhiệm và quyền lợi, góp phần hạn chế những hiện tượng nhiễu trong hệ thống
hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có liên quan .
-Phải lấy số đông bù số ít:
Cách làm riêng của BHXH là mọi người đóng góp cho bên nhận BHXH (cơ
quan BHXH chuyên nghiệp) tồn tích dần thành một quỹ tài chính độc lập và tập
trung dùng để chi trả trợ cấp cho NLĐ khi và chỉ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
theo các chế độ xác định. Như vậy, trong số đông người tham gia đóng góp BHXH
chỉ những NLĐ mới được hưởng trợ cấp. Trong những NLĐ, chỉ những NLĐ bị ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già có đủ điều kiện cần thiết mới thực sự
được hưởng trợ cấp. Vì thế số tiền họ nhận được từ trợ cấp lớn hơn rất nhều so với
số tiền mà họ đã đóng góp.
-Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu

cầu BHXH.
Trong BHXH, cả ba bên tham gia, NSDLĐ, NLĐ, Nhà nước đều nhận được
nhiều lợi ích, nhưng những lợi ích nhận được không phải luôn luôn như nhau, thống
nhất với nhau, mà trái lại có lợi ích có lúc mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, trong nghiên
cứu xây dựng các thiết chế hoặc trong điều hành BHXH cụ thể cần phải tìm ra
những giải pháp để kết hợp hài hoà những lợi ích lâu dài của NLĐ.
Để có thể chi trả trợ cấp BHXH cho NLĐ thì cần phải có Quỹ BHXH độc
lập và tập trung. Nguồn cơ bản để hình thành nên quỹ này là đóng góp của các bên

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


13

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

tham gia BHXH và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Muốn phát triển BHXH cần phải
tăng trưởng Quỹ BHXH. Vì vậy, cần phải tích cực tìm kiếm tăng các nguồn thu
khác để bổ sung như: đầu tư phần nhàn rỗi tương đối của Quỹ, hợp tác quốc tế về
BHXH,…
-Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đi làm, nhưng thấp
nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Tiền lương là khoản tiền NSDLĐ trả cho NLĐ khi họ thực hiện công việc
nhất định. Khi bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất
định hoặc không làm việc mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH
và trợ cấp đó không thể bằng hoặc cao hơn tiền lương do lao động tạo ra được. Còn

nếu cố tình trả trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một NLĐ nào phải
cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ cố gắng
ốm đau, thai sản,… để nhận được trợ cấp. Như vậy mức trợ cấp BHXH phải thấp
hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm
của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống hàng ngày.
-Kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện.
Cho đến nay, ở nước ta việc tham gia BHXH vẫn chưa trở thành tập quán,
hơn nữa trong BHXH lợi ích của các bên tham gia và lợi ích trước mắt với lợi ích
lâu dài của NLĐ vẫn có những mâu thuẫn. Bởi vậy, cần có sự kết hợp giữa bắt buộc
với tự nguyện trong việc tham gia BHXH. Sự bắt buộc nên thực hiện đối với các
bên tham gia ở khu vực có quan hệ lao động và mức thu nhập cơ bản. Đối với
những người có nhu cầu BHXH ở mức cao hoặc với những NLĐ độc lập thì nên để
họ tham gia tư nguỵện.
-Phải bảo đảm tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải
phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính thống nhất
trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những
mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời, cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có
thể năng động trong hoạt động để có thể bù đắp, bổ sung những ưu điểm lẫn nhau.

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


14

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính


-BHXH phải được phát trển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.3.2. Những quan điểm cơ bản về BHXH:
- Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách ASXH.
Mục đích chính của chính sách này là đảm bảo cuộc sống cho NLĐ và gia
đình họ khi NLĐ bị giảm hoặc mất thu nhập khi bị giảm hoặc mất khả năng lao
động. Ở nước ta, chính sách BHXH nằm trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng
và Nhà nước, thực chất đây là một trong những loạt chính sách đối với NLĐ nhằm
đáp ứng một trong những quyền hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc
làm, an toàn lao động, an toàn xã hội,… Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ
văn minh, tiềm lực, sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của một quốc
gia. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là một động lực to lớn phát
huy khả năng sáng tạo của NLĐ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
-NSDLĐ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho NLĐ.
NSDLĐ thực chất là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuê mướn lao
động, họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào Quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hịên
các chế độ BHXH cho NLĐ theo đúng Luật pháp quy định.
-NLĐ bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt
nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp,…
Điều này có nghĩa là mọi NLĐ đều có quyền hưởng BHXH theo đúng như
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc; đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng
góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của NLĐ đối với
BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội.
-Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Tình trạng mất khả năng lao động;
+ Tiền lương lúc đi làm;
+ Tuổi thọ bình quân của NLĐ;


Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


15

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên về nguyên tắc, thì mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền
lương lúc đang đi làm nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho
NLĐ.
Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên
tắc phân phối lại Quỹ BHXH cho những NLĐ tham gia BHXH.
-Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH và tổ chức bộ máy thực
hiện chính sách BHXH.
Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành của chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố ổn định, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, cho nên vai trò của Nhà
nước rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước,
nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ
sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định
chính sách, đảm bảo vật chất đến xét trợ cấp …vì vậy, Nhà nước cần phải quản lý
quy trình này hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ như: pháp luật, bộ máy tổ
chức. Nhưng nhìn chung, việc quản lý BHXH ở các nước nều được giao cho một cơ

quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
1.1.4. Quỹ Bảo hiểm xã hội:
1.1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH:
- Khái niệm Quỹ BHXH:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập Quỹ BHXH là dùng để
chi trả cho NLĐ, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể
của Quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do
đó có thể bao gồm cả: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
- Quỹ BHXH có đặc điểm sau đây:

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


16

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

+ Quỹ BHXH là nguồn quỹ dài hạn cho nên nếu được đầu tư có hiệu quả thì
suất sinh lợi sẽ rất lớn.
+ Quỹ BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH. Bởi vậy, việc sử dụng và
quản lý nguồn quỹ này có những đặc thù riêng so với các nguồn quỹ khác trong nền
kinh tế xã hội.
+ Quỹ BHXH nằm trong khâu tài chính trung gian của một hệ thống tài chính
quốc gia và nguồn quỹ này ngày càng lớn theo đà phát triển kinh tế - xã hội của
từng nước.

1.1.4.2. Nguồn hình thành Quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được hình thành chỉ yếu từ những nguồn sau:
- Người sử dụng lao động;
- Người lao động;
- Sự hỗ trợ từ Nhà nước;
- Các nguồn thu khác (như lãi do đầu tư phần nhàn rỗi, quyên góp, ủng hộ từ
các tổ chức cá nhân…).
Ở nước ta quy định đóng góp vào BHXH qua các thời kỳ như sau:
Từ năm 1962 đến năm 1997, Quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn:
các xí nghiệp sản xuất vật chất chỉ đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần
còn lại do Ngân sách Nhà nước đài thọ.
Từ năm 1998 đến trước năm 2007, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp
15% vào quỹ. Tiếp theo đó, khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị tr ường,
Chính phủ đã ban hành rộng rãi Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993 và Điều lệ
BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, quy định
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- NSDLĐ đóng góp 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham
gia BHXH trong đơn vị; trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất, 5%
để chi trả các chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- NLĐ đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng để chi các chế độ hưu trí và tử
tuất;

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


17

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


THS. Nguyễn Thị Chính

- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH
cho NLĐ;
- Các nguồn khác.
Từ ngày 01/01/2007, khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành, vẫn dựa trên cơ
sở trên, nhưng Quỹ BHXH đã được phân chia thành các quỹ thành phần: Quỹ
BHXH bắt buộc, Quỹ BHXH tự nguyện và Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Nguồn hình
thành Quỹ vẫn dựa trên cơ sở đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, hỗ trợ của Nhà nước, và
nguồn thu khác, song có một số điểm mới về quy định mức đóng, như sau:
+ Đối với NLĐ: Những người làm việc theo hợp đồng lao động không xác
định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công
chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an; sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương
như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân đóng 5% tiền lương tháng vào
quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ hai năm 1lần đóng thêm 1% cho đến
khi đủ 8%. Như vậy, từ năm 2007 đến năm hết năm 2009 mức đóng là 5%, từ năm 2010
đến hết năm 2011 mức đóng là 6%, từ năm 2012 đến hết năm 2013 mức đóng là 7% và từ
2014 trở đi mức đóng là 8%.
+ Đối với NSDLĐ: hàng tháng đóng góp 3% vào Quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào
Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghệp; 11% vào Quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở
đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức 14%. Như vậy, mức đóng của
NSDLĐ tăng thêm 3% đến năm 2014 đạt mức 18% quỹ tiền lương, tiền công hàng tháng
đóng BHXH của người lao động. Đối với NLĐ sử dụng lao động là hạ sĩ quan, binh sĩ
quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn thì phải
đóng theo mức 16% nhưng từ năm 2010 trở đi hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi
đạt 22%.
1.1.4.3. Mục đích sử dụng Quỹ BHXH:

Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH;

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH;
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong 3 nội dung chi nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn
nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc
vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH.
Khoản chi thứ hai trong BHXH là chi cho sự nghiệp quản lý BHXH. Đây là
nguồn chi không lớn so với chi trợ cấp cho các chế độ nhưng nó cũng là một khoản
chi đang có xu hướng ngày càng gia tăng, bởi vì: các chế độ BHXH ngày càng được
mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của NLĐ, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ
BHXH ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cho cán bộ, công chức, viên chức ngày
càng lớn. Mặt khác, điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về
điều kiện làm việc ngày càng tăng, vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ bản, mua
sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng dẫn đến chi cho sự nghiệp
quản lý BHXH tăng lên.
Quỹ BHXH được quản lý theo cơ chế cân bằng thu chi, phần quỹ nhàn rỗi
được đem đi đầu tư nhưng phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, đảm bảo khả

năng thanh toán thường xuyên.
1.1.5. Hệ thống các chế độ BHXH:
Các chế độ BHXH là hệ thống các quy định về mức hưởng của từng chế độ, điều
kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng cho NLĐ khi họ gặp phải rủi ro trong từng
chế độ.
Theo Công ước 102 kí kết tại Giơnevơ tháng 6/1952 của Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) đã xác định rõ, BHXH bao gồm có 9 chế độ sau đây:
-

Chế độ chăm sóc y tế

-

Chế độ trợ cấp ốm đau

-

Chế độ trợ cấp thất nghiệp

-

Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

-

Chế độ trợ cấp tuổi già

-

Chế độ trợ cấp gia đình


Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

-

Chế độ trợ cấp sinh đẻ

-

Chế độ trợ cấp khi tàn phế

-

Chế độ trợ cấp cho người còn sống.

THS. Nguyễn Thị Chính

Chín chế độ trên đã hình thành nên hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện
của mỗi nước mà có sự áp dụng khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9
chế độ trên, trong đó phải có ít nhất 1 trong 5 chế độ là: chế độ trợ cấp thất nghiệp; chế độ
trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghệp; chế độ trợ cấp tuổi già; chế độ trợ cấp khi tàn
phế và chế độ trợ cấp cho người còn sống.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Luật BHXH thì có 5 chế độ BHXH được áp dụng, đó

là:
- Chế độ ốm đau
- Chế độ thai sản
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
Bên cạnh đó, là sự cho ra đời của Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2009 là một loại hình Bảo hiểm mới hoàn toàn, bao gồm 3 chế độ sau đây:
- Trợ cấp thất nghiệp
- Hỗ trợ học nghề
- Hỗ trợ tìm việc làm
1.2. CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI:
1.2.1. Vai trò của công tác thu Bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính tập trung, độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà
nước, dùng để chi trả trợ cấp các chế độ và đảm bảo họat động cho hệ thống BHXH. Vì
thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành một khâu quan trọng, quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH.
- Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên, đa dạng của ngành BHXH
nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất.

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


20

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính


- Thu đóng BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa
phương cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở quy định của pháp
luật về việc thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ đóng
góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh được tình trạng nợ đọng từ các cơ
quan, đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó đảm bảo công bằng trong việc triển khai
thực hiện chính sách BHXH nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng.
- Để chính sách BHXH được thực hiện thuận lợi thì công tác thu BHXH phải được
thực hiện như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cũng như thực hiện chính
sách BHXH.
Bởi lẽ đây là đầu vào, nguồn hình thành cơ bản nhất trong việc tạo lập Quỹ
BHXH, đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với những người tham gia BHXH
thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy công tác thu BHXH đòi hỏi độ chính xác cao, thực
hiện thường xuyên, liên tục và kéo dài trong nhiều năm; có sự biến động về mức đóng và
số lượng người tham gia.
1.2.2. Cơ sở và nguyên tắc thu BHXH:
1.2.2.1. Cơ sở thu BHXH:
- Dựa vào chính sách BHXH:
Là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để triển khai BHXH thông qua chính sách
BHXH, mỗi nước đưa ra định hướng phát triển BHXH. Toàn bộ các cơ quan ban
ngành liên quan sẽ thực hiện thống nhất nhiệm vụ của mình theo định hướng của
chính sách BHXH. Việc thu BHXH ở mỗi nước như phương thức mức đóng ra sao
đều dựa vào chính sách BHXH của nước đó. Chính vì vậy mà mức đóng của NL Đ
tại các nước khác nhau là bởi chính sách BHXH ở mỗi nước quy định mức đóng
khác nhau. Quy định tham gia đóng BHXH và dưới hình thức nào cũng được các
nước quyết định tuỳ theo điều kiện cụ thể của đất nước.
-Dựa vào văn bản pháp quy:
Từ chính sách BHXH các cấp các ngành có thẩm quyền lại soạn thảo các văn
bản pháp quy hướng dẫn thi hành chính sách BHXH của Nhà nước. Chính sách
BHXH mang tính định hướng, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành lại là cụ thể


Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


21

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

hóa của chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Sau khi ban hành các văn bản pháp
quy thì các cấp ngành có liên quan phải thực hiện các điều khoản được ghi trên văn
bản này.
-Dưạ vào thực tế:
Việc ban hành chính sách BHXH cũng như các văn bản pháp quy khác
không thể thiếu được việc dựa vào thực tế để ban hành cho phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội – chính trị của từng quốc gia. Mỗi quốc gia đều xác định BHXH là
xương sống của hệ thống ASXH của quốc gia. Việc ban hành chính sách BHXH
phải dựa trên thu nhập của NLĐ, mức sống, tuổi thọ, điều kiện làm việc.
1.2.2.2. Nguyên tắc thu BHXH:
Căn cứ vào pháp luật và các văn bản dưới luật thì thu BHXH phải đảm bảo
nguyên tắc là đúng đối tượng và đúng mức thu, đồng thời phải đảm bảo tính công
bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn thu đúng, thu đủ phải đảm bảo các
nguyên tắc sau đây:
- Các cơ quan, doanh nghiệp đóng BHXH phải dựa trên quỹ lương. Quỹ
lương này bao gồm toàn bộ phần lương cứng và phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ
lương này phải chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia BHXH.
- Quyết toán thu thường được thực hiện vào cuối quý, cuối năm, nhưng trong

năm đó số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy việc
quyết toán BHXH phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không phải là dựa
vào mức bình quân.
- Công tác thu BHXH phải được thực hiện trực tiếp, hạn chế tối đa các khoản
thu để hưởng hoa hồng.
- Về nguyên tắc cơ quan BHXH thực hiện quyết toán theo từng tháng, từng
quý, từng năm, nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu BHXH phải ăn
khớp với nhau và phải thực sự cân đối: giữa NLĐ, NSDLĐ, loại hình doanh nghiệp,
loại hình thu để thực hện việc thu BHXH một cách tốt nhất.

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


22

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

Ngoài việc thu đúng của NLĐ, NSDLĐ, BHXH phải lập kế hoạch và lập dự
toán trước phần Ngân sách nhà nước cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm sau đó
mới được quyết toán.
Lãi đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi, về nguyên tắc phải được bù đắp vào Quỹ để
bảo toàn và tăng trưởng Quỹ, phần trích ra chi cho các mục đích khác như: chi cho
khen thưởng, chi quản lý và những khoản chi khác tuân theo quy định của pháp luật.
Các khoản tài trợ của các tổ chức, của quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của
những người tham gia phải được hạch toán riêng; các khoản nợ đòi được phải được
tính với lãi suất.

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH:
Công tác thu BHXH là một khâu quan trọng, đảm bảo cân đối quỹ BHXH.
Để quỹ BHXH được cân đối ổn định và lâu dài, làm tốt công tác thu là một trong
những biện pháp cơ bản nhất. Song, bản thân công tác thu BHXH lại phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố:
-Chính sách tiền lương:
Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung và công tác thu
BHXH nói riêng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền
đề và cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, điều này càng đặc biệt đúng với
trường hợp của Việt Nam, bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH của
chúng ta hiện nay là phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như
vậy khi Nhà nước nâng lương tối thiểu lên điều đó cũng đồng nghĩa với việc mức
đóng BHXH cũng tăng lên và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên.
-Lực lượng lao động:
NLĐ là đối tượng tham gia BHXH, là những người trong độ tuổi lao động, là
những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Nếu một quốc gia có dân số “già”
tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số, sẽ dẫn tới
việc mất cân đối quỹ, do số người tham gia đóng góp Quỹ BHXH ngày càng giảm
trong đó những người hưởng BHXH lại tăng lên, đặc biệt là chế độ hưu trí.
-Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người:

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


23

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


THS. Nguyễn Thị Chính

Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phản ánh tình trạng tiêu dùng, tiết kiệm,
đầu tư của một quốc gia; nên nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định
thì đời sống của người dân cũng dần cao lên, tình hình sản xuất kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp cũng gặp nhiều thuận lợi, vì thế khả năng NSDLĐ tham gia
BHXH cho NLĐ của mình cũng tăng lên. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững phản ánh có nhiều NLĐ có thu nhập cao thông qua quá trình lao
động, đây là điều kiện để NLĐ tham gia BHXH. Tất cả những yếu tố trên tác động
tích cực làm tăng thu BHXH.
-Mức độ chi trả các chế độ:
Mức độ chi trả các chế độ phụ thuộc vào: số lượng chế độ được áp dụng, số
lượng người hưởng chế độ BHXH, tỷ lệ hưởng BHXH. ILO khuyến nghị các quốc
gia tham gia phê chẩn Công ước 102 về BHXH phải áp dụng 3 trong 9 chế độ
BHXH, trong đó phải áp dụng ít nhất 1 trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp tàn tật, trợ cấp người nuôi dưỡng. Nếu một
quốc gia triển khai và áp dụng nhiều chế độ thì số thu BHXH ngày càng lớn. Tỷ lệ
hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả các chế độ càng lớn, đòi hỏi thu BHXH
ngày càng cao hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH.
1.2.4. Nội dung cơ bản của công tác thu BHXH:
1.2.4.1. Nguồn thu BHXH:
Thông thường quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn thu sau đây:
-Thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH. Đây là nguồn thu chủ
yếu và quan trọng nhất trong Quỹ BHXH của bất kỳ một quốc gia nào, nó là cơ sở
chủ yếu để hình thành nên Quỹ BHXH, tạo ta nguồn tài chính để thực hiện các chế
độ BHXH, nhưng quá trình quản lý đóng góp của những người tham gia BHXH
cũng phức tạp nhất.
Nguồn thu này được hình thành từ:
+ Người lao động: NLĐ tham gia đóng góp vào Quỹ BHXH trên cơ sở tiền
lương; tuỳ theo từng điều kiện của mỗi quốc gia mà quy định phần đóng góp này


Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


24

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

nhưng đều dựa trên cơ sở tiền lương để tính toán số tiền NLĐ phải đóng góp vào
Quỹ BHXH.
+ Người sử dụng lao động: NSDLĐ tham gia đóng góp BHXH cho NLĐ
trong đơn vị của mình; phần đóng góp này dựa trên tổng quỹ lương.
-Thu từ Ngân sách Nhà nước chủ yếu để đảm bảo cho hoạt động của hệ
thống BHXH được diễn ra đều đặn, bình thường, tránh những xáo trộn lớn trong
việc thực hiện BHXH. Việc hỗ trợ của Nhà nước là một hoạt động thường xuyên và
liên tục.
-Thu từ lãi đầu tư của hoạt động đầu tư Quỹ BHXH nhàn rỗi vào các chương
trình kinh tế - xã hội, các chương trình đầu tư khác đem lại hiệu quả. Phần lãi đầu tư
này sẽ được bổ sung vào Quỹ BHXH.
-Ngoài các nguồn thu trên, còn có những khoản thu khác nhưng không lớn và
không ổn định, như: hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài, từ những hoạt động từ thiện,
từ việc thanh lý các tài sản cố định,…Nguồn thu này thường chiếm một tỷ trong rất
nhỏ trong nguồn thu BHXH.
1.2.4.2. Phân cấp thu BHXH:
Mục đích của việc phân cấp thu đóng BHXH là để nâng cao trách nhiệm của
cán bộ, nhân viên làm công tác thu phân theo địa bàn hành chính, đồng thời phân bổ

khối lượng công việc đồng đều giữa các đơn vị các cấp (tránh tình trạng nơi thi ùn
tắc, nơi không có việc để làm) và tạo điều kiện cho đơn vị, đối tượng tham gia đăng
ký đóng BHXH phù hợp với điều kiện quản lý thủ công như hiện nay.
Phân cấp quản lý thu BHXH là một khâu nhằm thực hiện tốt công tác quản lý
đối tượng tham gia BHXH. Cần phải tiến hành phân cấp quản lý, phân công cụ thể
từng đơn vị, từng bộ phận, từng cá nhân để quản lý, theo dõi và đôn đốc thu BHXH
đến từng cá nhân tham gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản
lý sẽ làm cho việc thu BHXH được dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tượng thu thiếu,
bỏ qua không thu,…
Ở Việt Nam,theo quy định tại Quyết định 902/QĐ – BHXH ngày 26/06/2007
của BHXH Việt Nam việc thực hiện phân cấp thu BHXH được thực hiện như sau:

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


25

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

THS. Nguyễn Thị Chính

-Cơ quan BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là
BHXH huyện): Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH,
cấp thể BHYT đối với NSDLĐ, NLĐ theo phân cấp quản lý.
Nhiệm vụ thu BHXH ở BHXH cấp huyện do Giám đốc trực tiếp giao cho
từng cán bộ, công chức sao cho thuận lợi trong việc thu đóng BHXH. BHXH huyện
phải thực hiện việc báo cáo tình hình thu BHXH: báo cáo tháng trước ngày 22 hàng
tháng; báo cáo quý trước ngày 20 đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm

sau.
-Cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH
tỉnh):
+ Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để thực hiện việc phân cấp quản lý
thu BHXH, BHYT cho phù hợp với chức năng và nhiệm vụ.
+ Xây dựng, quản lý dữ liệu liên quan đến NLĐ tham gia BHXH, BHYT trên
địa bàn tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu
BHXH, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu
BHXH, BHYT với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và lập “Biên bản
thẩm định số liệu thu BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu 12-TBH).
BHXH tỉnh phải thực hiện thực hiện việc báo cáo thông tin: báo cáo tháng
trước 25 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày cuối tháng đầu quý sau; báo cáo năm
trước ngày 15/02 năm sau.
-Cơ quan BHXH Việt Nam: chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực
hiện công tác quản lý thu BHXH, cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT trong toàn ngành
BHXH bao gồm cả BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu
Chính phủ. Xác định mức lãi suất bình quân năm của hoạt động đầu tư quỹ và thông
báo cho BHXH tỉnh.
-Cơ quan BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính
phủ: trực tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH cho NLĐ đối với NLĐ do Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý; xây dựng kế hoạch thu BHXH và báo

Dương Thị Hằng

Lớp: BHXH 48


×