Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI – XU HƯỚNG QUAN TRỌNG đối với các nước ĐANG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.36 KB, 20 trang )

II. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI – XU HƯỚNG QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN:
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
1.1. Định nghĩa về Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
- Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư
từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công
cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý
ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay
được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
1.2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) 11 tháng năm 2012:
Theo Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tính đến ngày 20 tháng 11 năm
2012 cả nước có 980 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 7,25
tỷ USD, bằng 60,4% so với cùng kỳ năm 2011, cụ thể như sau:
* Tình hình hoạt động:
- Vốn thực hiện: Trong 11 tháng đầu năm 2012, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã giải ngân được 10 tỷ USD, bằng 99,5 % so với cùng kỳ năm 2011.
- Tình hình xuất, nhập khẩu: So với cùng kỳ năm 2011 thì xuất khẩu của khu vực ĐTNN
(kể cả dầu khí) đạt 65,61 tỷ USD, tăng 31,8% và chiếm 63,09% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhập khẩu đạt 54,96 tỷ USD, tăng 24,3% và chiếm 52,85% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tính
chung trong 11 tháng năm 2012, khu vực ĐTNN xuất siêu 10,65 tỷ USD.

1


* Tình hình cấp Giấy chứng nhận đầu tư:
- Đến 20/11/2012 cả nước có 980 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
- Có 406 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,92 tỷ
USD, tăng 41,3% so với cùng kỳ năm 2011.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 11 tháng đầu năm 2012, các nhà đầu tư nước


ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 12,18 tỷ USD, bằng 78,6% so với cùng kỳ 2011.
- Theo lĩnh vực đầu tư: Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được
nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 431 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn
cấp mới và tăng thêm là 8,5 tỷ USD, chiếm 69,8% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 11 tháng. Lĩnh
vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 2, đứng thứ 3 là lĩnh vực bán buôn bán lẻ, sửa chữa và
tiếp theo là lĩnh vực thông tin và truyền thông...
- Theo đối tác đầu tư: Tính từ đầu năm 2012 đến nay, đã có 56 quốc gia và vùng lãnh thổ
có dự án đầu tư tại Việt Nam. Đứng đầu là Nhật Bản, tiếp theo là Singapore, Hàn Quốc...
- Theo địa bàn đầu tư: Tính đến thời điểm hiện tại, Bình Dương là địa phương thu hút
nhiều vốn ĐTNN nhất với 2,28 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm chiếm 18,8% tổng
vốn đầu tư. Tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hà Nội...
2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ,
kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ quản lý... Hình thức
đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất
khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố
làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các
hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư
cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và công nghệ).

2


- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định
tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia
điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc
vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quản lý, ra quyết định
càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước
ngoài điều hành.
- Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất
kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức
và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ
vốn góp trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc gia và đa
quốc gia (chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới). Thông thường các chủ
đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp (vì họ có mức vốn góp cao) và
đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ luật
Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách
gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ như:
thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
một lĩnh vực, một ngành nào đó.
- Mặc dự FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ
chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà, bởi nhà
ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong khi đó,

3


hoạt động ODA và ODF (Official Development Foreign) thường dẫn đến tình trạng nợ nước
ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp.

4


3. Lợi ích của thu hút FDI:

- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân
tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều
vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước
ngoài, trong đó có vốn FDI.
- Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: Trong một số trường hợp, vốn cho tăng
trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng".
Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu
hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết
quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng
những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra
cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
- Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia,
không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác
trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao
động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất
toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
- Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: Vì một trong những mục đích của FDI
là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Không chỉ có lao động thông thường,
mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp
vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa
phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan
trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần
trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh hàng năm.
III. TẬP ĐOÀN WALMART LẬP KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ VÀO VIỆT NAM:

5



1. Tổng quan về Walmart:
1.1. Sản phẩm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh:
- WalMart - tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới của Mỹ, được thành lập năm 1962 tại
Rogers, Bang Arkansas của Mỹ;
- Trụ sở chính: Bentonville, Arkansas, Mỹ; người sáng lập là Sam Walton (1918 – 1992);
- Lãnh đạo chủ chốt: H.Lee Scott, tổng giám đốc điều hành; S.Robson Walton, chủ tịch
hội đồng quản trị; Tom Schowe, giám đốc tài chính. Trụ sở chính của Wal-mart tại
Bentonville, Arkansas, US.
- Ngành: kinh doanh bán lẻ;
- Sản phẩm: Chuỗi cửa hàng giảm giá, đại siêu thị và các thị trường lân cận;
- Thị trường của Wal-mart: Mỹ, Mêxicô, Anh, Nhật, Argentia, Braxin, Canađa, Trung
Quốc, Puerto Rico,…Wal-Mart hoạt động với hơn 3.800 cơ sở ở nước Mỹ và hơn 2.600 ở
nước ngoài. Trung bình cứ một siêu của Wal-mart mở ra, giá cả hàng hoá của các siêu thị
khác sẽ phải giảm 10-15%. Khoảng 30% loại mùng mền, giấy toitlet, xà phòng, kem đánh
răng, 20% thức cho các loại vật nuôi và 15-20% đĩa CD, đầu máy Video và đĩa DVD khác...
Việc Wal-Mart giảm giá thực phẩm đã mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Mỹ tối thiểu
50 tỉ USD/năm. Song, điều này không có nghĩa Wal-Mart chịu thiệt hòi. Doanh số và lợi
nhuận trước thuế của người khổng lồ này vẫn bỏ xa các đối thủ “lực lưỡng” khác.
Với hơn 176 triệu lượt khách hàng mỗi tuần viến thăm cửa hàng Wal-Mart trên toàn thế giới,
trong đó ở Mỹ là 127 triệu lượt mỗi tuần.
1.2. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản:
- Theo số liệu của tờ báo Business Insider của Mỹ, trong năm tài chính 2012, Walmart đạt
doanh thu 444 tỷ USD, cao hơn 20 tỷ USD so với GDP của Áo. Nếu Walmart là một quốc
gia, đây sẽ là nền kinh tế lớn thứ 26 trên thế giới.

6


- Walmart hiện có 2,2 triệu nhân viên trên toàn thế giới, đông hơn dân số thành phố
Houston. Riêng tại Mỹ, hãng này có 1,4 triệu nhân viên. Nếu Walmart là một lực lượng quân

sự, đây sẽ là đội quân lớn thứ hai thế giới, sau Trung Quốc.
- Walmart lớn hơn cả các hãng bán lẻ khác, bao gồm Home Depot, Kroger, Target, Sears,
Costco và K-Mart cộng lại.
- Trung bình, mỗi gia đình 4 người tiêu dùng 4.000 USD cho Walmart trong một năm.
Mỗi tuần, Walmart phục vụ hơn 200 triệu khách hàng tại 10.400 cửa hàng ở 27 quốc gia.
- Cứ mỗi 4 USD người Mỹ chi tiêu cho thực phẩm, thì có 1 USD được sử dụng để mua
hàng ở Walmart.
Vào năm 2000, CEO Michael Duke của Walmart đã hưởng mức lương 35 triệu USD. Một
giờ đồng hồ làm việc của Micheal nhận khoản tiền còn lớn hơn cả lương mà một nhân viên
làm việc toàn thời gian tại Walmart nhận được trong cả năm.
1.3. Kế hoạch kinh doanh vào Việt Nam:
- Thị trường dự định: Việt Nam.
- Lý do ban đầu chọn thị trường:
+ Việt Nam là một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng. Thể hiện qua việc Việt Nam ngày
càng trở thành một địa điểm kinh doanh hấp dẫn tại Châu Á với tốc độ tăng trưởng bền vững
và nhu cầu tiêu dùng khá ổn định trong một thời gian dài, và quan trọng nhất là Chính Phủ
luôn có các chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài kịp thời. Thị trường bán lẻ
Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ song vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các
nhà đầu tư nước ngoài do áp lực cạnh tranh chưa lớn, trong khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế
liên tục cao, chính trị ổn định. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất
Châu Á và có mức chi tiêu ngày càng tăng, tăng 75% từ năm 2007 – 2012.

7


+ Việt Nam liên tục được xếp hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ GRDI.
Theo A.T.Kearney (Hãng tư vấn Mỹ), năm 2007, Việt Nam có thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ
4 thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc). Năm 2008, Việt Nam đã vươn lên đứng đầu.
+ Sự bình ổn: chính trị ổn định Việt Nam được xem là quốc gia có thể chế ổn định ít gây
ra các xung đột chính trị hoạt động ngoại giao phát triển mạnh, theo xu hướng tích cực.

- Các đạo luật liên quan: Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung có cả
doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, đã mang lại sự lớn mạnh cho
các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không
phân biệt hình thức sở hữu.
- Theo Báo cáo của Bộ Công Thương, Việt Nam thị trường bán lẻ không chỉ là sân chơi
chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, mà còn trở thành một thị trường hấp dẫn
cho các tập đoàn đa quốc gia.
- Chính sách của Nhà nước: Chính phủ đang đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, góp
phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi như giảm được 2 ngày trong quá trình hoạt động
xuất nhập khẩu, cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 28% xuống còn 25%, áp dụng một
loạt thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng mới, các thủ tục hải quan mới...
- Các yếu tố kinh tế: Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn.
- Tình trạng nền kinh tế: Trong 9 tháng đầu năm 2012, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
ước tính tăng 4.73% so với cùng kỳ năm trước (năm 2011 là 5.77%). Với mức tăng GDP của
riêng quý III đạt 5.35% tăng trưởng 3 tháng này đã có “nhỉnh” hơn tốc đọ tăng GDP Quý I
và Quý II (Quý I tăng 4% Còn quý II tăng 4.66%).
2. Tổng quan về thị trường Việt Nam:
2.1. Phân tích chỉ số tài chính, kinh tế của Việt Nam:
- Tổng sản lượng quốc gia (GDP):

8


+ Chỉ số này đo lường giá trị thị trường của hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trên một
quốc gia, không xét đến yếu tố quốc tịch của các công ty sở hữu các nguồn lực.
+ Số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO) công bố ngày 27/9/2012 cho thấy tăng
trưởng Việt Nam trong 9 tháng năm nay ở mức 4,73%, đồng thời cảnh báo nguy cơ tái
lạm phát.
+ Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp hơn mức 5,77% trong năm 2011 và

nền kinh tế hiện tại đang đối mặt với "những khó khăn và thử thách" cần phải vượt qua, bản
báo cáo của GSO cho biết.
- Chỉ số quản lý mua hàng (PMI): Sản lượng sản xuất tiếp tục giảm trong tháng 8/2012
nhưng với tốc độ thấp nhất trong bốn tháng. Trong những phản hồi có suy giảm sản lượng tại
nhà máy, các công ty thường nêu nguyên nhân là do số lượng các đơn đặt hàng mới thấp.
Tương tự với khuynh hướng hoạt động sản xuất, khối lượng công việc mới cũng đã giảm
chậm lại kể từ tháng trước. Đây là lần giảm thứ tư trong vòng bốn tháng với mức độ giảm
nhẹ.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI): Chỉ số PMI Việt Nam còn 49,5 điểm so với mức 50 điểm
vào tháng 3. Đây là dấu hiệu cho thấy điều kiện kinh doanh tổng thể của ngành sản xuất
trong tháng đã xấu đi. Nguyên nhân được cho là do sản lượng sản xuất yếu kém đã triệt tiêu
sự gia tăng của lượng đơn đặt hàng mới.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Tổng cục Thống kê vừa công bố, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 9/2012 đã tăng vọt 2,2% so với tháng trước và tăng 5,13% so với tháng 12 năm
trước. Như vậy, CPI đã tăng 6,48% so với tháng cùng kỳ năm 2011 và bình quân 9 tháng
năm 2012 tăng 9,96%.
- Chỉ số niềm tin người tiêu dùng (CCI): Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam
đã tăng từ 85 điểm (trong tháng 4) lên 109 điểm (tháng 10), trong khi trung bình toàn thế
giới chỉ tăng 9 điểm, đạt mức 86 điểm thì Việt Nam đã tăng đến 24 điểm.
2.2. Cán cân thương mại và những ảnh hưởng tài chính toàn cầu:

9


- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và các nền kinh tế chủ chốt, đặc biệt là của khu vực
EU đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đang có xu hướng thu hẹp đáng kể, thì nhu cầu
nhập khẩu các yếu tố đầu vào sản xuất của các Doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu
sẽ bị giảm.
- Theo nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt cho biết cán cân thương mại
hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2012 của nước ta đã đạt mức thâm hụt thấp kỷ lục khoảng

0,685 tỷ USD và bằng 1,3% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa so với mức nhập siêu cùng kỳ
6,7 tỷ USD trong năm 2011 bằng 15,7% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Do đó, khi ngoại cầu của thị trường thế giới và các nền kinh tế chủ chốt, đặc biệt là của
khu vực đồng Euro đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đang có xu hướng thu hẹp đáng kể
thì nhu cầu nhập khẩu các yếu tố đầu vào sản xuất của các doanh nghiệp trong nước tham gia
xuất khẩu sẽ bị giảm. Ngoài ra, còn có một nguyên nhân nữa là do sức mua thị trường nội địa
cũng đang suy giảm và tâm lý tiết kiệm chi tiêu của dân chúng ngày càng gia tăng nên cầu về
tiêu thụ các hàng hóa ngoại nhập cao cấp cũng có xu hướng giảm, qua đó góp phần hạn chế
bớt kim ngạch nhập khẩu.
2.3. Tại sao chiến lược đầu tư vào Việt Nam là đúng đắn/ không đúng đắn?
Trong những năm trở lại đây, đầu tư nước ngoài từ một số nước vào Việt Nam có xu
hướng gia tăng. Cụ thể Nhật Bản là quốc gia có nhiều doanh nghiệp thành viên của JCCI đã
lên gần 1,3 triệu hội viên, trong đó có tới 99,7% là đơn vị nhỏ và vừa. Đồng thời, Nhật cũng
là nước đầu tiên trong nhóm G7, công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Năm 2011,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đạt 21,2 tỷ USD, trong đó, việc xuất - nhập tương
đương cả hai nước. Tính đến hết tháng 8/2012, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
của Nhật vào Việt Nam đạt 4,3 tỷ USD, đứng đầu trong số 39 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư
vào nước ta, tính cả vốn cấp mới và tăng thêm.
Lý do có sự tăng trưởng này: “bắt nguồn từ thảm họa động đất sóng thần năm ngoái, một
loạt các nhà máy trong nước bị thiệt hại, sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Vì thế, để duy trì
chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp Nhật phải tìm kiếm, xây dựng các nhà máy ở các quốc gia

10


khác, trong đó có Việt Nam. Và đặc điểm quan trọng là do Việt Nam có dân số trẻ, lực lượng
lao động dồi dào, việc đào tạo cũng khá tập trung, thị trường hấp dẫn.
Tuy nhiên, nguồn vốn FDI vào Việt Nam nhìn chung lại có xu hướng giảm trong bảy
tháng đầu năm chạm mức 8.3 tỉ đô la, bằng 66.9% so với cùng kì năm 2011. Vậy, những lí
do chính nào ngoài lí do ‘suy thoái kinh tế toàn cầu’ được ‘ưa chuộng’ của chính phủ Việt

Nam khiến giới đầu tư nước ngoài trở nên ngán ngẩm việc đầu tư ở Việt Nam đến vậy?
- Đăng kí nhiều, không sử dụng hết:
+ Thông số FDI được đăng kí tại Việt Nam, thường chênh lệch xa với lượng FDI được
chính thức đưa vào sử dụng vì tốc độ giải ngân yếu kém. Việc đưa vốn đầu tư vào chính thức
sử dụng tại Việt Nam là một thử thách đối với tập đoàn nước ngoài (FIEs) vì các thủ tục giấy
tờ cũng như các điều khoản qui định đầu tư rắc rối, không rõ ràng.
+ Các dự án lên đến hàng tỉ đô la thậm chí sau khi đã hoàn thành các thủ tục, vẫn phải đối
mặt với công đoạn “khó nuốt nhất” của quy trình đầu tư: ‘giải phóng mặt bằng’, được quản
lý bởi các chính quyền địa phương nghèo vốn. Một ví dụ điển hình là dự án hợp tác đầu tư
của tập đoàn thép Tata của Ấn Độ với Tập đoàn thép quốc gia Việt Nam tại tỉnh Hà Tĩnh...
- Lao động rẻ đã lỗi thời: Giới phân tích trên thế giới thống nhất rằng, trước nhu cầu thị
trường toàn cầu ngày càng tinh vi và thâm dụng vốn cũng như tốc độ tăng giá lao động trong
nước nói riêng, thế mạnh này sẽ bị xói mòn rất nhanh. Vì vậy, Việt Nam sẽ khó đón nhận
những làn sóng FDI khổng lồ trong tương lai với đội ngũ lao động kém trình độ, tính chuyên
nghiệp không cao.
- Điện cúp, đường tắc:
Vấn đề cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đúng mức độ đang là vấn
đề gây quan ngại với giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là khi vấn đề mất điện và giao thông
đình trệ có những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

11


Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục kêu ca là
‘chới với’ vì không có điện để sản xuất, nhất là trong thời điểm mùa hè, dẫn đến thiệt hại về
cả năng suất cũng như chi phí sản xuất.
- ‘Ngại’ doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN), bị coi là trở ngại lớn nhất với sự phát triển của khu
vực tư doanh, vốn được cho là nòng cốt và tương lai của nền kinh tế Việt Nam, mà còn là lá
chắn nguồn FDI từ bên ngoài suốt nhiều năm qua.

Các doanh nghiệp này, bị các nhà đầu tư lên án là với số vốn lớn mạnh đã ra sức thao
túng vị trí ‘đầu tàu của ngành’, chiếm thế độc quyền bằng cách mở rộng đa ngành để tạo khó
khăn cho việc thâm nhập thị trường của các tập đoàn nước ngoài, ảnh hưởng đến mức FDI
tiềm năng đổ vào Việt Nam những năm qua.
- Lạm phát: nỗi ám ảnh kinh hoàng. Lạm phát trong năm 2012 đã giảm xuống mức đáng
kể, thế nhưng những dư âm và hậu quả của mức lạm phát lên đến 23% của năm 2011 vẫn
còn tồn đọng trong nền kinh tế hiện tại và tâm lí các nhà đầu tư.
Một phần nguyên nhân cho tình trạng suy giảm lượng FDI trong năm 2012, đó là các
biến động tâm lý của nhà đầu tư trong thời điểm một năm trước đó.
Nguồn FDI vào ngành bất động sản trong cũng giảm xuống rõ rệt trước một thời gian dài
chứng kiến sự sụp đổ của ngành này cùng những món nợ xấu còn tồn đọng ở thời điểm hiện
tại.
2.4. Môi trường pháp lý và thể chế về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
- Xu hướng quốc tế hoá đã và đang tác động trực tiếp đến tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam với những điều kiện thuận lợi sẵn có đang có gắng phát huy các nguồn lực trong
nước đồng thời tận dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, từng bước cải
thiện tình hình kinh tế - xã hội để hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế. Một trong
những biện pháp có thể huy động các nguồn lực từ bên ngoài là thu hút vốn đầu tư trực tiếp

12


nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên khi đầu tư vốn vào một quốc gia khác như Việt Nam thì
các nhà đầu tư nước ngoài không thể không quan tâm đến môi trường đầu tư tại Việt Nam vì
nó là cơ sở để đảm bảo quyền sở hữu tài sản tư nhân và khả năng tìm kiếm lợi nhuận, việc
tạo một môi trường đầu tư thuận lợi là một điều tiên quyết để có thể thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài một cách hiệu quả nhất. Môi trường đầu tư tại Việt Nam đã được các tổ chức
quốc tế đánh giá cao. Theo Tổng công ty Tài chính quốc tế (IFC) thì Việt Nam đứng thứ
78/183 trong số những nước có môi trường đầu tư tốt nhất, Việt Nam đã thực hiện tốt các
quy định kinh doanh với với 11 điểm tiến triển từ năm 2006, đứng thứ hai sau Trung Quốc

trong khu vực Đông Á - Châu Á Thái Bình Dương”. Nguồn: www.saga.vn.
- Tại Việt Nam Luật đầu tư nước ngoài đã được thông qua và ban hành từ năm 1987 cho
đến nay đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhiều lần cùng với việc ban hành hệ thống các
văn bản dưới luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đã tạo nên một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hệ thống này luôn vận
động và không ngừng hoàn thiện, kịp thời từng bước đáp ứng sự đòi hỏi thực tiễn vận động
của các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hệ thống pháp luật đầu tư của Việt Nam đã có
nhiều ưu điểm như: thông thoáng, cởi mở và khá phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
- Tuy nhiên môi trường pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cũng còn tồn
tại nhiều điểm hạn chế, bất cập với sự phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế
quốc tế như: Hệ thống quản lý về đầu tư nước ngoài còn chồng chéo, thủ tục pháp lý còn
rườm rà, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư dễ dàng đầu tư vào Việt Nam, pháp
luật về đầu tư còn chưa minh bạch, cụ thể và rõ ràng, các chính sách về khuyến khích cho
đầu tư nước ngoài còn chung chung và chưa cụ thể, vì vậy các nhà đầu tư chưa xác định
được lợi nhuận mang lại khi đầu tư vốn vào Việt Nam, vì vậy trong thời gian tới, chính phủ
cần tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư theo hướng minh bạch hoá và thuận lợi hơn cho
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.5. Phân tích rủi ro quốc gia và những tác động của nó tới hoạt động tài chính của
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài:

13


Khi muốn đầu tư vào bất cứ một quốc gia nào thì ngoài việc xem xét các yếu tố về môi
trường pháp lý về đầu tư của nước đó có thuận lợi và thông thoáng hay không thì một trong
những yếu tố quan trọng mà các nhà đầu tư nước ngoài cần đặc biệt quan tâm, đó là rủi ro
quốc gia của đất nước đó, vì rủi ro quốc gia sẽ là nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính của
doanh nghiệp đó. Chúng ta có thể phân tích cụ thể sự tác động của từng yếu tố này tới các
hoạt động tài chính của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:

* Sự tác động của các yếu tố chính trị:
+ Tác động của các yếu tố chiến tranh, nội chiến, hay tấn công khủng bố: khi xẩy ra các
sự kiện chính trị trên thì do rủi ro là rất cao, các công ty nước ngoài sẽ có thể bị mất vốn và
tài sản do nhà máy, văn phòng bị phá huỷ do chiến tranh tàn phá, ngoài ra sự xung đột sắc
tộc do nội chiến lại có thể kéo dài và không xác định được ngày chấm dứt, do vậy ảnh hưởng
đến việc các nhà đầu tư nước ngoài không thể thực hiện được các hợp đồng đã ký kết hoặc
không thể giao hàng do bị đình trệ do chiến tranh gây ra, làm cho vốn bị ứ đọng và không có
khả năng sinh lời cao.
+ Tác động của các yếu tố xẩy ra bãi công lớn trong một ngành công nghiệp: Tác động
của những cuộc bãi công lớn sẽ làm cho các nhà máy, doanh nghiệp bị ảnh hưởng do sản
xuất bị đình trệ do công nhân không làm việc trong một thời gian dài với số lượng lớn lao
động, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị thiệt hại do không đáp ứng được các đơn hàng để xuất
khẩu, làm ảnh hưởng đến uy tín với khách hàng, đặc biệt sẽ làm cho chi phí lao động tăng
cao do phải đáp ứng các yêu cầu về lương, thưởng, điều kiện làm việc cho người lao động, vì
vậy hiệu quả tài chính doanh nghiệp sẽ giảm sút.
+ Tác động của khủng hoảng chính trị do bê bối trong nước: Khi có sự bê bối trong nước
xẩy ra thì tầm ảnh hưởng của nó là rất lớn vì lúc này nó ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của
các đối tác nước ngoài với thị trường tại nước sở tại, có thể dẫn đến tẩy chay hàng hoá nước
đó tại các quốc gia khác do sự mất uy tín của người tiêu dùng, vì vậy ảnh hưởng về tài chính
đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng sẽ xẩy ra do thị phần giảm.

14


+ Tác động của thay đổi chính sách luật pháp nước sở tại: Mối quốc gia khác nhau cũng
sẽ có hệ thống luật pháp về đầu tư khác nhau sẽ tác động trực tiếp hiệu quả tài chính của các
doanh nghiệp khác nhau, khi pháp luật nước sở tại có những chính sách tạo điều kiện cho
doanh nghiệp như ưu đãi thuế quan, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài được phép
chuyển tiền về cho các công ty mẹ tại quốc gia khác hay chính sách đối sử công bằng giữa
các công ty trong nước và nước ngoài thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ hoạt động mà

không chịu tác động tiêu cực do hệ thống pháp luật nước sở tại, tuy nhiên khi chính phủ các
nước sở tại có sự thay đổi pháp luật như thay đổi mức thuế xuất nhập khẩu, hạn chế việc
chuyển tiền ra nước ngoài bằng ngoại tệ, hoặc việc các doanh nghiệp nhập khẩu khó thanh
toán cho nhà xuất khẩu tiền bằng hàng… sẽ làm cho các chi phí phát sinh do tăng chi phí
thuế, làm lợi nhuận giảm, đồng thời sẽ khó khăn trong việc chủ động nguồn tài chính và mất
đi các cơ hội đầu tư do các công ty thường bị phụ thuộc vào tài chính của các công ty mẹ tại
nước ngoài.
- Tác động của tỷ lệ tham nhũng, quan liêu của nước sở tại: Tỷ lệ tham nhũng, quan liêu
của các chính phủ tại các nước sở tại sẽ tỷ lệ nghịch với hiệu quả tài chính của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài thể hiện thông qua việc khi tỷ lệ tham nhũng quan liêu tăng cao thì
dẫn đến hành vi tiêu cực làm trì trệ đến các quá trình cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp,
doanh nghiệp sẽ mất các cơ hội đầu tư và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, doanh
nghiệp do bị trì trệ sản xuất và dẫn đến bị ứ đọng vốn và khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
mặt khác sẽ làm cho chi phí giao dịch của doanh nghiệp sẽ tăng cao do phải chịu nhiều các
chi phí phát sinh, do đó làm cho lợi nhuận công ty giảm sút.
- Chính sách quản lý tiền tệ của hệ thống ngân hàng: Chính sách quản lý tiền tệ của các
ngân hàng nước sở tại như áp dụng các chính sách quản lý ngoại hối, chính sách tỷ giá của
đồng nội tệ, tỷ lệ dự trữ ngoại tệ… cũng sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của công
ty do chênh lệch tỷ gía áp dụng và cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Sự tác động của các yếu tố khác: Ngoài ra còn có các yếu tố khác ảnh hưởng đến đầu tư
nước ngoài như thói quen tiêu dùng của người dân nước sở tại; sự thay đổi của khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh...

15


* Các giải pháp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài giảm thiểu rủi ro quốc gia khi
quyết định đầu tư vào Việt Nam:
Việt Nam là nước có môi trường kinh tế chính trị ổn định, xét về góc độ rủi ro quốc gia là
đất nước có tỷ lệ rủi ro về thay đổi và bất ổn chính trị là thấp trong khu vực châu Á - Thái

Bình Dương, tuy nhiên rủi ro còn tiềm ẩn do chính sách, thể chế của hệ thống hành chính
còn quan liêu và chưa được hoàn thiện. “Theo báo cáo của hội nghị đánh giá Doing Business
2011( DB 2011) Việt Nam thực hiện chưa tốt các chỉ số bảo vệ nhà đầu tư: xếp hạng bảo vệ
nhà đầu tư là 173rd/183( 2.7/10 điểm). Nhờ nỗ lực không ngừng của mình trong cải cách thuế
của Việt Nam xếp hạng về thuế chi trả đã được cải thiện 22 bậc lên vị trí 124/183. Tuy nhiên
đây vẫn là một kết quả chưa tốt, đó là kết quả của sự quan liêu trong các thủ tục hành chính:
doanh nghiệp cần phải thực hiện khoảng 32 lần thanh toán và mất 941 giờ để nộp thuế”
-Nguồn: www.saga.vn. Do vậy để giảm thiểu các rủi ro và tăng hiệu quả đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, thì các doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau đây:
+ Cập nhật thông tin về các yếu tố rủi ro về chính trị - văn hoá - xã hội của Việt Nam
thông qua nhiều kênh thông tin như các bảng công bố, xếp hạng của tổ chức xếp hạng tín
dụng doanh nghiệp của các tổ chức xếp hạng có uy tín trên thế giới như: Standard and
Poor’s, hay các bảng công bố phân tích của các tổ chức kinh tế thế giới như: Word Bank,
IMF… cũng như các thông tin chính thống của các cơ quan kinh tế tại Việt Nam như Phòng
Thương Mại và công nghiệp Việt Nam, Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư…
+ Thực hiện viếng thăm và bổ sung các thông tin từ các doanh nghiệp nước ngoài đã hoạt
động lâu năm tại Việt Nam để thu thập những thông tin về khó khăn, thuận lợi về các yếu tố
rủi ro quốc gia tại Việt Nam mà các công ty này đã trải nghiệm và đánh giá, từ đó có thể tiên
lượng được những rủi ro này.
+ Ngoài ra doanh nghiệp có thể thuê các công ty tư vấn quốc tế về quản trị có uy tín tại
thị trường Việt Nam như: Mc Kensey, Deloitte… để có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong các
việc cung cấp thông tin bổ sung và đánh giá các rủi ro quốc gia đem lại.

16


+ Sau khi đã xác định danh mục các yếu tố rủi ro quốc gia chủ yếu, các công ty cần phải
xây dựng bảng đánh giá rủi ro tại Việt Nam qua việc phân chia các rủi ro cụ thể qua giá trị và
tỷ trọng của từng yếu tố rủi ro chi tiết, sau đó nhân các giá trị yếu tố với tỷ trọng tương ứng
để lấy giá trị tổng của các yếu tố, qua đó sẽ đánh giá về rủi ro quốc gia tại Việt Nam là thấp

hay cao? Do vậy có thể định lượng được những yếu tố rủi ro và quyết định đầu tư vàoViệt
Nam hay không? đồng thời sẽ lường trước những rủi ro gặp phải để giải quyết vấn đề này tốt
hơn.
2.6. Những điều cần bổ sung của thị trường Tài chính của Việt Nam:
* Thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam:
- Thị trường Tài chính của Việt Nam là một thị trường mới phát triển trong vòng hơn 10
năm trở lại đây do vậy thị trường Tài chính của Việt Nam nhìn chung còn sơ khai và chưa
đồng bộ, những nội dung cơ bản còn cần được bổ sung của thị trường Tài chính Việt Nam
hiện nay như sau:
+ Chưa có sự liên lạc giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán vì khi lãi suất của
thị trường tiền tệ tăng lên và thị trường tiền tệ nóng lên sẽ làm cho thị trường chứng khoán
cũng sôi động, trong khi nền kinh tế của Việt Nam thực hiện thu hút vốn thông qua các ngân
hàng thương mại là chủ yếu, hoạt động trên thị trường chứng khoán cũng chưa được chú
trọng do các nhà đầu tư mất lòng tin và không mặn mà với thị trường chứng khoán cũng đã
phần nào làm giảm hiệu quả hoạt động của toàn bộ thị trường tài chính Việt Nam.
+ Cơ chế tác động và can thiệp lên thị trường tiền tệ chưa được ngân hàng trung ương tác
động một cách rõ nét và linh hoạt như thông qua tác động tới lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
tỷ lệ tái chiết khấu tới các ngân hàng thương mại, vì vậy cũng đã làm cho thị trường tiền tệ
của Việt Nam chưa phát huy được hiệu quả cao phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước.
+ Hệ thống báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung là chưa minh
bạch và rõ ràng, do vậy hệ thống các chỉ số tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam niêm

17


yết trên thị trường chứng khoán thường phản ánh không đúng về tình hình tài chính của
doanh nghiệp, dẫn đến mất lòng tin của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán.
+ Các dòng tiền trong xã hội chưa được chính phủ kiểm soát chặt chẽ, thói quen dùng
tiền mặt của Việt Nam cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc kiểm soát thu nhập và dòng tiền
của người dân, vì vậy nguy cơ tiềm ẩn rủi ro về hệ thống là rất lớn.

+ Chưa có một hệ thống kết nối thị trường tài chính trong nước và các thị trường tài chính
quốc tế do vậy chưa thực hiện niêm yết cổ phiếu chéo cũng như các hợp tác cụ thể về thị
trường trái phiếu với các thị trường khác nhau.
+ Nợ xấu của các tổ chức tín dụng của Việt Nam là khá cao, trong khi phần lớn vốn vay
được đầu tư vào thị trường bất động sản bị đóng băng do không có tính thanh khoản cao, dẫn
đến thị trường vốn của Việt Nam bị ứ đọng vốn, cung tiền khan, làm chậm khả năng quay
vòng vốn của thị trường tiền tệ và giảm hiệu quả của cả hệ thống tài chính quốc gia.
* Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thị trường tài chính Việt Nam và tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp trong thời gian tới:
- Ngân hàng nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, bảo đảm
tính thanh khoản và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại, thiết lập chặt chẽ chính
sách quản lý ngoại hối, quản lý có hiệu quả các thị trường bất động sản, chứng khoán, vàng
và ngoại hối.
- Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và tái cơ cấu lại các doanh nghiệp, đặc biệt là
các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, rà soát đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước, kiên quyết thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp mà nhà nước không cần chi phối, thực hiện công khai kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước.
- Thực hiện tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhằm ổn định và phát triển sản xuất
như hỗ trợ doanh nghiệp về mở rộng, khai thác tốt thị trường, thực chính sách hạn chế nhập
siêu các mặt hàng không thiết yếu để khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Thực hiện

18


các gói hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp (giảm lãi suất, thuế, tín dụng …), có các biện pháp
kích cầu thị trường kịp thời (Tăng lương tối thiểu, giảm giá một số mặt hàng…) sẽ góp phần
tạo cho ra sự nóng lên của thị trường và tăng hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp.
3. Tập đoàn Walmart có nên đầu tư vào Việt Nam hay không?
Qua những nội dung phân tích và đánh giá về môi trường đầu tư của Việt Nam ở trên,

mặc dù Việt Nam vẫn chưa có một hành lang pháp lý và một môi trường thật sự hoàn hảo và
hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên Việt Nam vẫn luôn được coi
là thị trường có môi trường chính trị - xã hội ổn định và có nhiều tiềm năng để đầu tư, nếu
tình hình kinh tế vĩ mô được ổn định thì Việt Nam sẽ là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu
tư nước ngoài với lợi thế của thị trường năng động và đầy tiềm năng chưa được khai thác,
trên thực tế về tình hình đầu tư nước ngoài là tương đối khả quan và đã thu hút được rất
nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong
10 tháng năm 2012 kể cả vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt 10,48 tỷ USD, bằng
75,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tuy lượng vốn đăng ký đã giảm sâu, nhưng vốn đầu tư thực
hiện đạt tương đương với cùng kỳ năm trước ( bằng 98,9%). Đây là tín hiệu khả quan để cả
năm có thể đạt sấp sỉ 11 tỷ USD” (Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư).
Dựa trên những phân tích về sự thuận lợi, khó khăn và thực trạng của môi trường đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, chúng tôi xin đưa ra sự tư vấn cho tập đoàn Warlmart nên đầu tư
vào thị trường Việt Nam dựa trên việc lập kế hoạch và xây dựng các chiến lược kinh doanh
ngắn hạn và dài hạn để đầu tư có hiệu quả tài chính cao nhất tại thị trường này.
KẾT LUẬN
Có thể nói, bên cạnh những dấu hiệu tích cực mà nền kinh tế Việt Nam đang thể hiện,
cộng với bức tranh đang dần sáng của nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam có nhiều thuận lợi để
các nhà đầu tư lớn đầu tư vào. Mối lo ngại nhất của các nhà đầu tư là sự bất ổn liên quan đến
chính trị, vì vấn đề chính trị ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế thì cả hai yếu tố này của Việt Nam
đều được đảm bảo. Mặc dù sức mạnh nội tại của nền kinh tế (hệ thống tài chính ngân hàng)
lẫn những động lực bên ngoài để kích thích sự tăng trưởng (dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

19


ngoài) vào Việt Nam đều đang đối mặt với không ít trở ngại nhưng Việt Nam vẫn là một địa
chỉ tin cậy và đầu tư hấp dẫn cho Warlmart nói riêng và các doanh nghiệp đầu tư FDI nói
chung.


20



×