Thay chậu hoa lan/Kỹ thuật nuôi trồng lan
Việc thay chậu hoa lan là một việc làm cần thiết vì các loại hoa được trồng trong chậu sau
một thời gian thường có nhiều rễ bị thối, giá thể bị mục, rêu bám đầy chậu là môi trường
thích hợp cho các loài sâu bệnh hoạt động. Chậu không còn đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh
trường và phát triển của cây vì thế việc thay chậu phải được tiến hành định kỳ. Biểu hiện
eần phải thay chậu lan là:
Kích thước mất cân đối giữa cây và chậu
+ Giá thể bị hư mục.
+ Rễ bị thối nhiều.
+ Rêu bám đầy chậu.
Định kỳ khoảng 2 năm để thay chậu có thể áp dụng cho hầu hết các loài.
Mùa thay chậu:
Tùy địa phương và vườn lan hiện có, điều kiện về trang thiết bị có được của vườn, loại lan
mà công việc thay chậu có thể tiến hành bất cứ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên tốt hơn
hết là, tiến hành thay chậu vào đầu mùa tăng trưởng của từng loài, kết hợp đồng thời với
nhân giống bằng phương pháp tịch chiết. Nhìn chung đầu mùa mưa rất lý tưởng cho việc
thay chậu của hầu hết các loài.
Các cách thay chậu:
Nêu chậu làm bằng chất liệu tốt, cây không mất cân đối rễ không bị thối việc thay chậu
được tiến hành như sau: Dùng một vòi nước khá mạnh, phun vào giá thể để thổi tróc những
chất mùn lắng đọng ở đây, sau đó dùng kẹp gắp bỏ tất cả những giá thể hiện có trong chậu
như
gạch, than vụn, nhúng chậu vào dung dịch có pha thuốc ngừa rêu. (Vài giọt consan 20
trong 4 lít). Cuối cùng rửa cây và chậu một lần cuối. Đặt chậu vào chỗ thật thoáng, mát và
ẩm, phun dung dịch hocmon thương mại (1 - 2 giọt trong 4 lít) gồm B1 + ANA, một tuần
lễ sau đặt giá thể mới vào chậu.
Có thể đập bỏ chậu cũ, chỉ chừa lại những phần có rễ bám chặt hay ngâm hẳn chậu lan vào
dung dịch thuốc ngừa rêu trong 30 phút sẽ làm cho cây tróc hắn ra khỏi chậu. Sau đó ta cột
chặt cây lan vào chậu mới rồi treo vào chỗ thoáng mát và trình tự tiến hành như đã nói trên.
Nếu chậu là một cây lan nhổ vừa phát triển lớn, có thể bỏ hẳn cây và chậu nhỏ vào trong
một
chậu mới lớn hơn.
Môi trường trồng hoa lan/Kỹ thuật nuôi trồng lan
Loại chất trồng được chọn tùy thuộc điều kiện ngoại cảnh, nhân lực, loài lan Và qui mô
sản xuất. Các chất trồng được sử dụng hiện nay gồm than, gạch, dớn, xơ dừa, rễ lục bình,
vỏ thông. Các chất trồng của lan khác với đất dể trồng cây. Các chất trồng này dùng để cải
thiện độ ẩm và tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng.
+ Than gỗ:
Được dùng với mục đích giữ ẩm. Than là một chất trồng tốt nhất vì không có mầm bệnh,
không bị mục và có khả năng giữ nước, vì thế than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình
bón phân và thải ra dần qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng gở đây là loại
than gỗ rừng Giồng, được nung thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác
(đước) vì hàm lượng NacL trong than cao, dễ làm thết ]an.
+ Gạch:
Gạch trồng lan tốt phải nung thật già, nhằm mục đích ngăn chặn rêu mọc. Gạch ngói tốt
hơn gạch thẻ vì có độ cong nên chất trồng luôn luôn có độ thoáng thích hợp. Ngoài ra bề
mặt rễ bám cũng rộng hơn; nên rễ không phải mọc chồng chất lên nhau, cây sẽ phát triển
tốt hơn nhưng nhược điểm của gạch là nặng nên không thích hợp cho việc trồng bằng dây
treo.
+ Dớn
Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc
nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở dĩ dớn được chọn vì không bao giờ đóng
rêu nhưng hút ẩm tốt. Tuy nhiên, nếu chất trồng toàn dớn thì không có độ thoáng.
Có 2 loại dớn:
- Dớn sợi: là loại dớn già, hóa mộc. (Có dạng từng sợi được ưa chuộng để trồng lan ở
thành phố).
- Dớn vụn: là phần còn lại của cây dớn sau khi đã lấy loại dớn sợi loại dớn vụn là nhưng
phần non của thân cây dớn - loại này sử dụng trồng lan rất tốt ở vùng lạnh vì độ hút ẩm
cao, thiếu thoáng khí, nên nhiệt độ trong chậu cao hơn bên ngoài , do đó dớn tạo một độ
ẩm nhất định thuận lợi cho sự phát triển của rễ. Trái lại do điều kiện sinh thái ở thành phố
có khác, nên các nhà vườn trồng lan tuyệt đối không nên dùng loại dớn vụn, vì nhiệt độ
cao và ẩm độ tháp, nên phải tưới nước nhiều, dớn vụn bị bít dễ làm thối rễ lan. Ngoài ra,
diều kiện nóng ẩm rất thuận lợi, cho một số loại côn trùng và nấm bệnh chọn dớn làm mục
tiêu cắn phá.
+ Xơ dừa:
Đây là chất trồng rất cần nếu sản xuất lan đại trà trên qui mô lớn. Xơ dừa có khuyết điểm
dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục, nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên xơ dừa được
trồng thành băng trên vạt tre. Nếu dùng xơ dừa trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt
nhất là tạo điều kiện ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Đối với chất trồng này phải phun
thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên. Tuy nhiên xơ dừa lại là môi trường rất tốt cho đa số
các loài lan thuộc giống Dendrobium.
+ Rễ lục bình:
Cậy lục bình sống lan tràn mạnh mẽ ở khắp ao hồ, sông rạch trong cả nước, nên rất dễ
kiếm, thuận lợi trong việc nuôi trồng hoa lan. Rễ lục bình có dộ hút ẩm cao, có nhiều đạm,
giúp cây ra rễ và tăng trưởng rất mạnh trong thời gian đầu, nhưng dễ bị mục rã nên mắc
các khuyết điểm như xơ dừa và dớn vụn.
+ Vỏ cây:
Ở Việt Nam, có nhiều loại cây eo vỏ để trồng lan rất tốt tùy nhiên, nên chọn loại cây nào
có vỏ lâu mục, vì vỏ cây cũng thuộc một' trong số những chất trồng mau hủy hoại . Cây lan
được trồng bằng vỏ cây thời gian đầu phát triển rất tốt. Sau 1 năm vỏ bị phân hủy thành
mùn, gây úng nước, thối rễ và cũng là môi trường thích hợp cho sự xuất hiện một số loài
sâu cẩn phá rễ. Vì vậy với chất trồng bằng vỏ cây, cây lan phải được thay chậu luôn. Trong
các loại vỏ cây sau: vú sữa, sao, me, trai, thông... thì vỏ thông là loại vỏ cây được ưa
chuộng nhất, vì vỏ thông có chứa resin nên eo tính sát khuẩn cao, lâu mục, không đóng rêu,
ít có mầm bệnh các nấm hại. Vỏ thông có thể được lấy từ cây Thông 2 lá (Pinus merkusii)
hoặc cây thông 3 lá (Pinus khasya) có nhiều ở Bảo Lộc và Đà Lạt.
Tuy nhiên vỏ thông cũng rất bí bít, nên cần có lớp than độn dưới đáy chậu cho thông
thóang
Achimo muốn post bài "môi trường trồng lan" từ trang web netcenter cho các bạn mới đọc
và rút kinh nghiệm.[:)] Môi trường trồng hoa lan 'Môi trường trồng hoa lan'; Loại chất
trồng được chọn tùy thuộc điều kiện ngoại cảnh, nhân lực, loài lan và qui mô sản xuất. Các
chất trồng được sử dụng hiện nay gồm than, gạch, dớn, xơ dừa, rễ lục bình, vỏ thông. Các
chất trồng của lan khác với đất dể trồng cây. Các chất trồng này dùng để cải thiện độ ẩm và
tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng. + Than gỗ: Được dùng với mục đích giữ ẩm.
Than là một chất trồng tốt nhất vì không có mầm bệnh, không bị mục và có khả năng giữ
nước, vì thế than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và thải ra dần qua sức hút
rất mạnh của rễ lan. Than được dùng ở đây là loại than gỗ rừng Giồng, được nung thật
chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (đước) vì hàm lượng Nacl trong than
cao, dễ làm chết lan. + Gạch: Gạch trồng lan tốt phải nung thật già, nhằm mục đích ngăn
chặn rêu mọc. Gạch ngói tốt hơn gạch thẻ vì có độ cong nên chất trồng luôn luôn có độ
thoáng thích hợp. Ngoài ra bề mặt rễ bám cũng rộng hơn; nên rễ không phải mọc chồng
chất lên nhau, cây sẽ phát triển tốt hơn nhưng nhược điểm của gạch là nặng nên không
thích hợp cho việc trồng bằng dây treo. + Dớn Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ
(Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở
dĩ dớn được chọn vì không bao giờ đóng rêu nhưng hút ẩm tốt. Tuy nhiên, nếu chất trồng
toàn dớn thì không có độ thoáng. Có 2 loại dớn: - Dớn sợi: là loại dớn già, hóa mộc. (Có
dạng từng sợi được ưa chuộng để trồng lan ở thành phố). - Dớn vụn: là phần còn lại của
cây dớn sau khi đã lấy loại dớn sợi loại dớn vụn là nhưng phần non của thân cây dớn - loại
này sử dụng trồng lan rất tốt ở vùng lạnh vì độ hút ẩm cao, thiếu thoáng khí, nên nhiệt độ
trong chậu cao hơn bên ngoài , do đó dớn tạo một độ ẩm nhất định thuận lợi cho sự phát
triển của rễ. Trái lại do điều kiện sinh thái ở thành phố có khác, nên các nhà vườn trồng lan
tuyệt đối không nên dùng loại dớn vụn, vì nhiệt độ cao và ẩm độ tháp, nên phải tưới nước
nhiều, dớn vụn bị bít dễ làm thối rễ lan. Ngoài ra, diều kiện nóng ẩm rất thuận lợi, cho một
số loại côn trùng và nấm bệnh chọn dớn làm mục tiêu cắn phá. + Xơ dừa: Đây là chất trồng
rất cần nếu sản xuất lan đại trà trên qui mô lớn. Xơ dừa có khuyết điểm dễ mọc rêu, không
thoáng, dễ mục, nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên xơ dừa được trồng thành băng trên
vạt tre. Nếu dùng xơ dừa trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện ẩm
độ bên ngoài hơn là trong chậu. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh
thường xuyên. Tuy nhiên xơ dừa lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống
Dendrobium. + Rễ lục bình: Cậy lục bình sống lan tràn mạnh mẽ ở khắp ao hồ, sông rạch
trong cả nước, nên rất dễ kiếm, thuận lợi trong việc nuôi trồng hoa lan. Rễ lục bình có dộ
hút ẩm cao, có nhiều đạm, giúp cây ra rễ và tăng trưởng rất mạnh trong thời gian đầu,
nhưng dễ bị mục rã nên mắc các khuyết điểm như xơ dừa và dớn vụn. + Vỏ cây: Ở Việt
Nam, có nhiều loại cây eo vỏ để trồng lan rất tốt tùy nhiên, nên chọn loại cây nào có vỏ lâu
mục, vì vỏ cây cũng thuộc một' trong số những chất trồng mau hủy hoại . Cây lan được
trồng bằng vỏ cây thời gian đầu phát triển rất tốt. Sau 1 năm vỏ bị phân hủy thành mùn,
gây úng nước, thối rễ và cũng là môi trường thích hợp cho sự xuất hiện một số loài sâu cẩn
phá rễ. Vì vậy với chất trồng bằng vỏ cây, cây lan phải được thay chậu luôn. Trong các loại
vỏ cây sau: vú sữa, sao, me, trai, thông... thì vỏ thông là loại vỏ cây được ưa chuộng nhất,
vì vỏ thông có chứa resin nên eo tính sát khuẩn cao, lâu mục, không đóng rêu, ít có mầm
bệnh các nấm hại. Vỏ thông có thể được lấy từ cây Thông 2 lá (Pinus merkusii) hoặc cây
thông 3 lá (Pinus khasya) có nhiều ở Bảo Lộc và Đà Lạt. Tuy nhiên vỏ thông cũng rất bí
bít, nên cần có lớp than độn dưới đáy chậu cho thông thoáng. (Theo svc.vn) Việc gì cũng
khó khi nó chưa thành thói quen khi...... nó đã thành thói quen rồi thì nó sẽ không
khó..........!!! ^--^ (Hồ Chí Minh)
Nhiều người lầm tưởng rằng cây Phong Lan chỉ cần có khí trời và nước là có thể sống và
phát triển được. Thật ra, cây Phong lan cũng như tất cả các loại cây trồng khác đều phải có
đầy đủ chất dinh dưỡng và kích thích tố. Nhìn chung, một cây Phong lan (cả lan rừng lẫn
lan cấy mô) đều cần rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi bật các nguyên tố da lượng như N
(Đạm), P (Lân) và K (Kali) và các nguyên tô vi lượng như Fe (Sắt), Cu (Đồng), Ma (Ma
ngan), Bo (Bo), Mo (Molibden)...
Ngoài ra Phong lan cũng cần phải có đầy đủ các nguyên tố bổ sung như Ca (Calci), Mg
(ma giê), S (sunphua)... Mỗi một loại nguyên tố đều có giá trị dinh dưỡng riêng của nó,
không thể thiếu được.
Ví dụ, đạm cần cho việc đảm bảo Protein và Nuleoprotein trong tế bào, giúp cho sự tăng
trưởng của cây (nhất là ở lá) và sự hô hấp. Cây Phong lan thiếu đạm sẽ cằn cỗi, yếu, không
xanh tươi và lá nhỏ, hơi vàng. Còn lân rất cần cho sự quang hợp, giúp cho việc tăng cường
sự chuyển hóa năng lượng trong cơ thể, làm cây chóng ra rễ, nẩy mầm khỏe và sớm có
hoa.
Thiếu lân, cây Phong lan sẽ kém tăng trương, cây nhỏ, sức đề kháng kém, lá xanh pha tím,
rễ ít, chậm ra hoa. Còn Kali đảm bảo sự vận chuyển nước và các chát dinh dưỡng trong
cây, luân lưu sự điều hòa như quang hợp, phân hóa tế bào, làm cho cây dự trữ được chất
dinh dtfơng. Nếu thiếu Ka li, cây ngừng phát triển, khô dần, lá úa vàng dễ rụng.
Hiện nay, do việc nuôi trồng Phong lan đã đi vào sản xuất công nghiệp, do đó rất nhiều cơ
sở sản xuất đã pha sẵn các dung dịch dinh dưỡng để bón cho cây, trong đó chủ đạo gồm 3
nguyên tố chủ yếu N, P, K với các nguyên tố vi lượng bổ sung thích hợp. Phong lan sau
khi được đưa ra khỏi chai cấy mô sẽ phát triển quả 4 giai đoạn với 4 chế độ dinh dưỡng
khác nhau:
- Phong lan dưới 3 tháng tuổi, phân bón chủ yếu là đạm, còn lân và kali cũng dùng, nhưng
rất loãng. Cụ thể Phong lan 2 tháng dùng 3 g đạm pha trong 10 lít nước và tưới mỗi tuần 1
lần... Phong lan 3 tháng, dùng 5 g đạm trong 10 lít nước và tưới 10 ngày 1 lần (có thể pha
loãng bằng một nửa và tưới sát ngày hơn).
- Phong lan từ 4 tháng đến 10 tháng tuổi, dùng cả 3 loại nguyên tố, với công thức N = 3, P
= 1, K : 1. cụ thể là: 10g N + 3g P + 3g K pha trong 10 lít nước và cứ 15 ngày tưới 1 lần
(có thể pha loãng một nửa và tưới 1 tuần 1 lần).
- Phong lan từ 10 tháng đến 16 tháng tuổi, dùng cả 3 nguyên tố như nhau (N = 2, P = 2, K
= 2) cụ thể là : 6g N + 6g P + 6g K, pha trong 10 lít nước, 15 ngày tưới 1 lần (có thể pha
loãng một nửa và một tuần tưới một lần), kết hợp pha thêm nguyên tố vi lượng.
- Phong lan từ 16 tháng tuổi trở lên, cho đến khi ra hoa, dùng công thức N = 1, P = 2, K =
3. Cụ thể là 5g N, 10g P, 15g K pha chung trong 10 lít nước, nửa tháng tưới 1 lần (có thể
pha loãng một nửa và tưới tuần 1 lần) dùng nhiều nguyên tố vi lượng hơn.
Về nguồn phân vô cơ này, có thể dùng các loại cho phù hợp với Phong lan như N nên dùng
(NH4)2SO4 21% N (Sulphat amnonium, hơi chua, Phong lan dễ tiếp thu. Về P nên dùng
[CaH4(PO4)2CaSO4 (Super lân) 20% P2O5 dễ tan nên Phong lan hấp thu được ngay. Về
K nên dùng SO4K2 (sulphat Kali). Còn các nguyên tố khác như Ca thì dùng Ca(NO3)2
(không nên dùng vôi trắng); Mg thì dùng MgSO4 hay MgHPO4; Fe nên dùng sắt tam
FeCl3; còn Cu nên dùng đồng nhị CuCl2; Zn có thể dùng cả ZnCl2 Và ZnSO4; Cũng như
Ma dùng cả MnCl2 và MnSO4. Ngoài ra, có thể pha thêm một ít các vitamin (loại C và B)
các chất kích thích tố như 2,4 D, Giberalin, Citokinin...
Khi Phong lan đã trưởng thành (nhất là các loài Phong lan rừng giai đoạn sinh trưởng khá
dài) có thể dùng các loại phân hữu cơ. Thông dụng có thể dùng nước tiểu (pha thật loãng
1/20 và mỗi tuần tưới 2 lần), phân các loài động vật (phân bò, lợn...) ngâm trong nước cho
thật mục, lọc lấy nước rồi tưới cho cây (1 phần phân hòa với 30 phần nước). phân chuồng
rất giàu các chất N, P, K cùng với các nguyên tố vi lượng cần thiết, nó rất thích hợp cho
các loài Phong lan trồng ở luống (trong đó phân bò và phân lợn, được xem là thích hợp
nhất). Phân bò tươi có tác dụng ủ mát và kích thích rễ Phong lan phát triển, nếu để hoại sẽ
mất đi nhiều chất cần cho cây.