Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Tài liệu ôn thi công chức môn kiến thức chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.79 KB, 149 trang )

Bài 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC LÀ GÌ?
Đảng ta chỉ rõ: “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật chứ không bằng
đạo lý, pháp luật là thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý
chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân theo
pháp luật và chấp hành đường lối chủ trương của Đảng”.
Điều 12, Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm
1992 ghi: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế Xã hội Chủ Nghĩa… mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Nội dung trên cho ta thấy được phương thức chủ yếu của quản lý Nhà
nước và sự khác nhau giữa nó với các dạng quản lý xã hội khác. Từ đó có thể
hiểu: “Quản lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, để
duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, nhằm thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội và bảo vệ tổ quốc XHCN”.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước gồm:
a) Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Tổ chức là một khoa học về sự
thiết lập các mối quan hệ xã hội, giữa con người, giữa các tập thể, để thực hiện
quá trình quản lý xã hội. Tổ chức được hình thành là do nhu cầu quản lý, nó phải
hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong quản lý Nhà nước, chức năng quản lý
Nhà nước là rất quan trọng, vì không có tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà
nước phải tổ chức như thế nào để hàng chục triệu con người của đất nước, mọi
người đều có vị trí tích cực đối với xã hội.
Điều chỉnh là sự qui định của Nhà nước thể hiện bằng pháp luật và các
quyết định quản lý về nguyên tắc, tiêu chuẩn, biện pháp… nhằm tạo sự phù hợp
giữa chủ thể quản lý, tạo sự cân bằng cân đối các mặt hoạt động của các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người.


b) Sự tác động mang tính quyền lực Nhà nước: Tức là bằng pháp luật và
theo nguyên tắc pháp chế. Quyền lực Nhà nước mang tính quyền lực đơn
phương và tính tổ chức rất cao. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh,
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không cho phép ai dựa vào quyền thế
để làm trái pháp luật với đòi hỏi cần phải nghiêm trị những kẻ phạm pháp ở bất
cứ ở cương vị nào.
Việc quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi các cơ quan và các viên chức
lãnh đạo quản lý Nhà nước không tổ chức và hoạt động điều hành phải căn cứ
luật pháp (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và Văn bản pháp qui); phải làm đúng theo
pháp luật trong qui trình xác định hành vi phạm pháp; phải đảm bảo nguyên tắc
pháp chế và phải kết hợp một cách đúng đắn giữa pháp lý và đạo lý.
1


Muốn tăng cường pháp chế quản lý đất nước bằng pháp luật, phải có 04
điều kiện:
- Phải tuyên truyền giáo dục pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
- Phải tiến hành, một cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các hành
vi vi phạm pháp luật ở bất kỳ cấp nào, ở cương vị nào.
- Phải kết hợp chặt chẽ và đồng bộ ba loại biện pháp hành chính, kinh tế
và giáo dục. Đồng thời pháp luật phải đúng, đủ nghĩa và luật đưa ra phải xuất
phát từ chế độ chính trị, phù hợp với qui luật với hoàn cảnh thực tế của đất nước,
phải có điều kiện thực hiện và phải được kết hợp đúng đắn giữa pháp lý và đạo
lý.
c) Cần có sự phân định giữa Nhà nước quản lý và quản lý Nhà nước, giữa
quản lý Nhà nước và hành chính Nhà nước.
Nói Nhà nước quản lý là ta nói đến chủ thể duy nhất quản lý xã hội toàn
dân, toàn diện bằng pháp luật. Nhà nước không chỉ có hệ thống Chính phủ (chấp
hành hành chính) mà là một bộ máy Nhà nước bao gồm: Lập pháp, hành pháp,
tư pháp và một hệ thống công vụ cưỡng chế. Vì vậy, ta không thể nói Quốc hội,

Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Tòa án, Viện kiểm sát không
làm được chức năng quản lý Nhà nước đối với xã hội. Nhưng hình thức và
phương pháp quản lý của các cơ quan này không như cơ quan hành pháp và
hành chính (Chính phủ).
Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Nhà nước phải thực hiện đúng đắn
quyền lực của mình, quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội bằng pháp luật theo
đường lối, chính sách của Đảng.
- Còn quản lý Nhà nước là dạng quản lý mang tính chất thực hiện quyền
lực Nhà nước. Cho nên giữa quản lý Nhà nước và hành chính Nhà nước không
có sự khác nhau lớn về nội dung, vì rằng hành chính Nhà nước là hoạt động tổ
chức và điều hành để thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý xã hội. Tuy
nhiên, quản lý Nhà nước có khái niệm rộng, vì nó bao gồm sự quản lý của tất cả
các cơ quan Nhà nước đối với xã hội. Còn hành chính Nhà nước là chỉ nói trong
hệ thống hành pháp và hành chính.
II. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Quản lý Nhà nước XHCN có những đặc điểm cơ bản sau đây:
1. Quản lý Nhà nước XHCN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức
rất cao. Mệnh lệnh của Nhà nước mang tính đơn phương. Khách thể quản lý
phải phục tùng chủ thể quản lý một cách nghiêm túc. Nếu không thì phải truy
cứu trách nhiệm và xử lý theo pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng.
2. Quản lý Nhà nước có mục tiêu chiến lược, chương trình và kế hoạch
thực hiện mục tiêu. Đặc điểm này đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước phải có
kế hoạch dài hạn, trung hạng và hàng năm. Có chỉ tiêu định hướng chủ yếu, có
biện pháp cân đối để thực hiện các chỉ tiêu ấy để hoàn thành có hiệu quả các
chương trình mục tiêu chiến lược của Nhà nước.
3. Quản lý Nhà nước có tính chủ động sáng tạo, linh hoạt trong việc điều
hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ
2



chức lại nền sản xuất xã hội về cuộc sống của con người trên địa bàn của mình
theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền theo nguyên tắc.
4. Quản lý Nhà nước XHCN không có sự phân biệt tuyệt đối về mặt xã
hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Cán bộ quản lý Nhà nước phải sâu
sát với dân, phải có tác phong quần chúng, liên hệ chặt chẽ và lắng nghe ý kiến
của quần chúng. Phải biết làm công tác vận động quần chúng, thu hút rộng rãi
quần chúng, tham gia thực sự rộng rãi vào công việc quản lý Nhà nước và xã
hội. Chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần chúng. Nhưng phải có sự phân
biệt tương đối, nghĩa là không xề xòa, gia đình chủ nghĩa; luộm thuộm trong ăn
mặc; tùy tiện trong nói năng… để đảm bảo tính quyền uy của Nhà nước.
5. Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong tổ chức và hoạt động quản lý
Nhà nước, sự tác động quản lý Nhà nước phải được thực hiện liên tục. Tránh lối
“chiến dịch” hoặc “phong trào”: Các quyết định của Nhà nước phải tương đối ổn
định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng. Các văn bản, giấy tờ của Nhà nước,
của dân phải được giữ gìn, lưu trữ. Đây là đặc điểm rất quan trọng thể hiện tính
trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội, với nhân dân.
III. CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Chủ thể quản lý có thể nói một cách dễ hiểu là “ai quản lý”:
Dưới XHCN xét về mặt xã hội, chủ thể quản lý đất nước nhân dân lao
động Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quản lý không phải là việc riêng của những
người quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của nhân dân”. Nhà nước là người
thay mặt cho dân, là công cụ mạnh mẽ nhất của nhân dân lao động thực hiện
quyền lực chính trị, có hệ thống pháp luật và các công cụ cưỡng chế khác. Do
vậy, về mặt pháp lý, chủ thể quản lý Nhà nước là Nhà nước đối với hệ thống các
cơ quan hành chính Nhà nước và các viên chức lãnh đạo trong các cơ quan đó.
Các cơ quan hành chính Nhà nước gồm 02 loại: Cơ quan thẩm quyền
chung và cơ quan thẩm quyền riêng. Ở nước ta, các cơ quan hành chính gồm có:
* Ở Trung ương:
- Chính phủ

- Các Bộ, Ủy ban Nhà nước
- Các cơ quan khác của Chính phủ
* Ở địa phương:
- Ủy ban nhân dân các cấp
- Các Sở, Ban, thuộc Ủy ban nhân dân
Trong đó, Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan thẩm quyền
chung, các Bộ, Ủy ban Nhà nước, cơ quan khác thuộc Chính phủ, các Sở, Ban
của UBND là cơ quan thẩm quyền riêng.
Viên chức lãnh đạo bao gồm những người được bầu và những người được
bổ nhiệm, có quyền pháp lý và được sử dụng thẩm quyền ấy trong quá trình
quản lý Nhà nước đối với xã hội. Ngoài ra còn có một số người không được bầu,
bổ nhiệm nhưng được giao thẩm quyền và sử dụng thẩm quyền được giao trong
khi thi hành phận sự (Công an, cán bộ thuế, Thanh tra viên…).
Chủ thể quản lý Nhà nước là cơ quan là viên chức lãnh đạo gắn chặt với
thẩm quyền. Tách khỏi thẩm quyền, làm sai thẩm quyền thì không có tư cách
chủ thể quản lý hành chính
3


2. Khách thể quản lý hành vi hoạt động của con người:
Hành vi gắn với con người tạo ra hành vi, chịu trách nhiệm hành vi.
Những con người làm ra của cải vật chất cho xã hội; các tập thể lao động; các tổ
chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học kỹ thuật… hành vi của
chúng là khách thể quản lý rất quan trọng.
Khách thể quản lý được phân thành nhiều loại, từng loại khách thể có đặc
điểm riêng. Phân loại khách thể sẽ giúp cho công tác quản lý Nhà nước xác định
nội dung, hình thức và phương pháp quản lý phù hợp với từng loại khách thể.
Mọi khách thể quản lý đều tự vận động tích cực, có khả năng tự điều
chỉnh, thích nghi với sự thay đổi của điều kiện hoạt động; có khả năng khắc
phục được khó khăn tìm ra lối thoát tạo điều kiện để hoạt động tốt. Công tác

quản lý Nhà nước nhận biết được các tính chất này, đặc biệt phải hiểu đầy đủ
mỗi con người đều luôn luôn có mong muốn, có nhu cầu, đạt được nhu cầu này
lại nảy sinh nhu cầu khác. Hiểu được các mặt của khách thể, công tác quản lý
Nhà nước sẽ tạo được sự vững chắc và ổn định về mặt xã hội, tạo điều kiện cho
khách thể tồn tại và phát triển.
Giữa chủ thể và khách thể trong quản lý Nhà nước có mối liên hệ, thể
hiện:
- Chủ thể quản lý làm nảy sinh sự cộng tác quản lý, còn khách thể thì nảy
sinh ra các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng trực tiếp đáp ứng nhu
cầu của con người.
- Chủ thể quản lý tồn tại chính là vì nhu cầu của xã hội, vì khách thể quản
lý. Không quan tâm đến khách thể thì không có gì để quản lý, như thế chủ thể
quản lý tồn tại và hoạt động không có mục đích.
- Con người vừa là chủ thể, cũng vừa là khách thể quản lý. Nhân dân lao
động ta là chủ thể, vừa là khách thể quản lý.
Bất kỳ một cơ quan nào, một viên chức lãnh đạo nào dù ở cấp cao nhất
cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lý Nhà nước. Chẳng hạn UBND
huyện là chủ thể quản lý cấp xã, nhưng lại là khách thể quản lý của cấp tỉnh và
Trung ương. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ là chủ thể quản lý Nhà nước
cao nhất, nhưng lại là khách thể quản lý của Quốc hội, của Chủ tịch nước và của
nhân dân.
IV. CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC:
Các chức năng của quản lý Nhà nước (các cơ quan hành chính Nhà nước)
đều xuất phát từ chức năng của Nhà nước. Chức năng của Nhà nước về đối nội
và đối ngoại có tính chiến lược, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ điều kiện thực tế
khách quan, phù hợp với các yêu cầu của các qui luật và bản chất chế độ kinh tế
chính trị - xã hội của đất nước.
Các cơ quan quản lý Nhà nước (cơ quan hành chính Nhà nước) cụ thể hóa
chức năng của Nhà nước thành chức năng cụ thể của mình, thực hiện quyền lực
của Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội, các chức năng cơ bản quản lý Nhà

nước gồm có:
1. Chức năng trấn áp:
Sự chống đối của các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, bọn phản cách mạng kể
cả các trung tâm khiêu khích phá hoại quốc tế, thực hiện chức năng này nhằm
4


bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tổ quốc XHCN, bảo đảm an ninh trật tự và
an toàn xã hội.
2. Chức năng tổ chức quản lý kinh tế:
Đây là chức năng cơ bản và đặc thù của quản lý Nhà nước. Điều quan
trọng nhất là phải phân biệt rõ và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế của các cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ, Bộ, Tổng cục, UBND,
Sở…) với chức năng sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Lâu nay
do lẫn lộn giữa hai chức năng này nên có tình trạng các cơ quan hành chính Nhà
nước can thiệp sâu vào hành chính, sản xuất kinh doanh, làm cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh vừa không có quyền tự chủ, vừa bị ràng buộc. Mặt khác, một số
đơn vị kinh tế không coi trọng quản lý Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh
nên sinh ra tùy tiện, coi thường pháp luật, pháp chế, kỷ cương Nhà nước.
3. Chức năng văn hóa giáo dục, thể dục thể thao…
Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng công tác văn hóa, văn học nghệ
thuật; đẩy mạnh văn hóa quần chúng; xây dựng và sử dụng hệ thống thư viện,
câu lạc bộ, nhà văn hóa, viện bảo tàng, nhà truyền thống… quản lý chặt chẽ các
công tác xuất bản, điện ảnh, phát hành sách, báo, phim ảnh; phát triển các thông
tin đại chúng.
Phải nâng cao chất lượng cải cách giáo dục, phát triển nhiều hình thức
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chính qui, không chính qui, tập trung tại chức… cải
tiến chế độ thi cử, cấp văn bằng… đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở miền núi,
vùng xa, vùng sâu, vùng dân tộc…
Phải chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân, xem đó là

tương lai của nồi giống, là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước
ta; là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể; là trách nhiệm và lợi ích
thiết thân của mỗi công dân. Cùng với công tác y tế, công tác thể dục thể thao
góp phần khôi phục và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Phải nâng cao và mở
rộng phong tào thể dục thể thao quần chúng.
4. Chức năng xã hội:
Đây là chính sách về con người mà Nhà nước phải chăm lo bao gồm: vấn
đề kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện
công bằng xã hội chăm lo chính sách bảo trợ xã hội đối với thương bệnh binh,
gia đình liệt sĩ, người về hưu, quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, người
tàn tật, vấn đề gia đình, vấn đề nhà ở, công trình xây dựng… thực hiện đúng
chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Có chính sách đối với công nhân, cán
bộ công chức, công nhân, nông dân, tri thức; nâng cao kinh tế, chính trị, quốc
phòng, xã hội, văn hóa cho các dân tộc, đảm bảo sự bình đẳng đoàn kết giữa các
dân tộc… đối với người Việt nam sinh sống ở nước ngoài, cần tạo điều kiện
thuận lợi để bà con hòa nhập với xã hội sở tại, vừa liện hệ mật thiết, gắn bó với
quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
5. Chức năng bảo vệ tài sản đất nước:
Chức năng bảo vệ sở hữu tài sản của Nhà nước, bảo đảm quyền và tự do
của công dân; lối sống có văn hóa; bảo đảm trật tự kỷ cương an toàn xã hội
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền của con
người trong xã hội.
5


6. Chức năng quốc phòng:
Là chức năng chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, tăng cường cũng cố tình hữu nghị và sự hợp tác quốc tế trong mọi lĩnh
vực, bảo vệ hòa bình thế giới.
Ngoài các chức năng nói chung trên, trong từng các cơ quan hành chính

Nhà nước còn có các chức năng cụ thể.
+ Chức năng tổ chức:
Đây là việc xây dựng mối quan hệ hợp lý và vững chắc giữa con người,
giữa tập thể, giữa các cơ quan Nhà nước với nhau. Mỗi tổ chức được xây dựng
theo mục đích nhất định. Chức năng tổ chức còn là sự thay đổi các mối quan hệ
qua lại. Ở góc độ quản lý Nhà nước, chức năng tổ chức là chức năng quan trọng
nhất, vì Nhà nước quản lý toàn thể nhân dân trong nước và điều chỉnh hàng triệu
mối quan hệ giữa những con người với nhau. Bởi vậy, phải tổ chức như thế nào
để mỗi người công dân đều có vị trí tích cực trong xã hội và chỉ khi đó mỗi
người mới có thể cống hiến nhiều nhất cho xã hội.
+ Chức năng cán bộ:
Con người là thành phần cơ bản chủ thể và khách thể quản lý Nhà nước,
thực chất các công tác quản lý Nhà nước còn là việc con người quản lý con
người. Vì thế việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phân bổ, sử dụng viên chức Nhà
nước là rất quan trọng của quản lý Nhà nước XHCN. Chức năng cán bộ phải do
các cơ quan Nhà nước thực hiện.
+ Chức năng kế hoạch hóa:
Chức năng kế hoạch hóa của quản lý Nhà nước tầm cỡ toàn xã hội, có vị
trí của một trong những chức năng quan trọng nhất của quản lý Nhà nước. Chất
lượng thực hiện của chức năng này quyết định rất lớn đối với chất lượng phát
triển toàn xã hội nói chung bởi vì kế hoạch hóa không chỉ trong lĩnh vực kinh tế
mà còn bao gồm cả lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và cả trong lĩnh vực quản
lý: nó xuyên suốt toàn bộ các bộ phận cơ bản trong hoạt động thực tế quản lý
của Nhà nước cũng như của mỗi một cơ quan Nhà nước. Kế hoạch hóa là sự
biểu hiện khách quan mang tính qui luật của sự phát triển xã hội, là một quá
trình hoạt động nhiều mặt về xây dựng, điều chỉnh, phối hợp, ban hành, thực
hiện, kiểm tra, đánh giá các kế hoạch kinh tế phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo
tính đồng bộ, cân đối, tập trung mục tiêu và có cơ sở pháp lý nhất định. Còn kế
hoạch là một văn bản thể hiện ý định của chúng ta với mục tiêu và biện pháp cụ
thể nhằm thực hiện quá trình kế hoạch hóa vấn đề nào đó.

+ Chức năng điều chỉnh:
Nhà nước là người có chức năng điều chỉnh chủ yếu các quá trình xã hội,
các hành vi và hoạt động của con người trong xã hội, vì Nhà nước có một
phương tiện quan trọng đó là quyền lực của Nhà nước; điều chỉnh chính là sự
xác định về mặt pháp lý đối với các quy tắc, tiêu chuẩn hành động của con
người và các tập thể quản lý Nhà nước đối với khách thể là một trong những vấn
đề quan trọng của quản lý Nhà nước.
+ Chức năng kiểm tra:
Chức năng kiểm tra của quản lý Nhà nước có nội dung là xem xét đánh
giá việc thực hiện các chức năng tổ chức, cán bộ, kế hoạch hóa, điều chỉnh.
6


Kiểm tra là mối quan hệ ngược của quản lý, kiểm tra không chỉ tìm kiếm thiếu
sót, phát hiện chỗ yếu kém mà còn chỉ ra nguyên nhân, đề ra phương hướng và
biện pháp khắc phục chúng. Phê bình trở nên vô nghĩa nếu trong kiểm tra không
tìm đúng nguyên nhân thiếu sót.
Các chức năng được hình thành trong tác nghiệp quản lý của các cơ quan
và đặc điểm hành chính Nhà nước là chức năng bảo đảm vật tư kỹ thuật, chức
năng tài chính, chức năng lao động và tiền lương, chức năng định mức kinh tế
kỹ thuật, chức năng phổ biến kinh nghiệm công tác… mỗi một viên chức làm
việc trong một cơ quan thuộc hệ thống quản lý Nhà nước phải nghiên cứu cụ thể
các chức năng của cơ quan mình và thực hiện có hiệu quả.
V. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC XHCN:
Khi đề cập vấn đề quản lý Nhà nước, điều cần nắm vững trước tiên là các
nguyên tắc của nó.
Nguyên tắc quản lý Nhà nước là tư tưởng chỉ đạo, là hành động của tổ
chức và hoạt động quản lý Nhà nước.
Nguyên tắc quản lý Nhà nước không phải do một cơ quan nào, một người
nào tự ý đặt ra mà nó được hình thành trên cơ sở quy luật khách quan, trên kết

quả nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội, trên bản chất chế độ chính
trị trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể.
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước gồm có:
1. Nguyên tắc nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo
Đảng ta xác định mối quan hệ nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng
lãnh đạo thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng chức năng của Nhà nước là thể chế hóa quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ và
trách nhiệm của nhân dân lao động thành pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động quản lý Nhà nước trước hết coi trọng
vai trò làm chủ của nhân dân, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt nam. Các Nghị quyết của Đại hội Đảng, các Ban chấp hành trung ương, của
Bộ chính trị, Ban Bí thư… luôn luôn là nguồn quan trọng nhất để ban hành các
Quyết định quản lý Nhà nước; đồng thời trong hoạt động của mình, quản lý Nhà
nước phải tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt
động quản lý Nhà nước một mặt phải bảo đảm quyền dân chủ thực sự của nhân
dân lao động trong việc tham gia quản lý Nhà nước, mặt khác phải tạo điều kiện
để nhân dân lao động hoàn thành các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra đem lại
lợi ích cho xã hội, cho đất nước và cho bản thân họ.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng
nhất chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức và sinh hoạt nội bộ và phong cách làm
việc của chúng ta.
Để thực hiện được nguyên tắc này chúng ta cần nắm vững một số vấn đề
chủ yếu sau đây:
- Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là Nhà nước
dân chủ khác hẳn với Nhà nước tư sản, Nhà nước lấy dân làm gốc, cho nên việc
phát huy dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là vấn
đề cơ bản được thực hiện đầy đủ trong tổ chức và hoạt động quản lý của Nhà
7



nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII ghi rõ: “Thực
hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính
trị: (văn kiện Đại hội, trang 90).
- Nhà nước phải giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản trong
tay Trung ương (Chính phủ, các Bộ) đồng thời phải giao quyền hạn và trách
nhiệm giải quyết cho các địa phương, các ngành, tức là thực hiện phân cấp quản
lý, giải quyết được sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức quản lý điều hành để thực
hiện luật và các văn bản pháp qui của Trung ương cho các cấp, các ngành.
- Trong tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước, hai mặt tập trung và dân
chủ là một thể thống nhất, không đối lập nhau, không hạn chế nhau.
- Đảng và Nhà nước ta đang ra sức khắc phục bệnh tập trung quan liêu,
đồng thời chống rất mạnh bệnh tự do, tùy tiện, phân tán cục bộ địa phương, vô
tổ chức, vô kỷ luật, kỷ cương.
3. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ (đặc biệt trên lĩnh vực quản lý kinh tế)
- Nhà nước ta là một thể thống nhất. Bộ máy Nhà nước được tổ chức hoạt
động theo các cấp hành chính Nhà nước và theo qui định là cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Đó là quản lý lãnh thổ
của chính quyền địa phương.
- Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế, kỹ thuật đều nằm trên một địa bàn
lãnh thổ nhất định. Đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ), đồng thời nó
cũng phải chịu sự quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số
mặt theo qui định. Hai mặt đó tạo nên sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành
với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung. Đó là căn cứ và lý
do của nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và
vùng lãnh thổ.
Nguyên tắc này đỏi hỏi phải quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ
phải phối hợp, gắn bó nhau trên các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, có
trách nhiệm chung trong việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước của ngành cũng

như của lãnh thổ, có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của từng bên và cả hai
bên theo luật định.
4. Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước
về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh của các tổ chức kinh tế:
Nguyên tắc đòi hỏi các cơ quan hành chính Nhà nước không được can
thiệp sâu vào nghiệp vụ kinh doanh, phải tôn trọng tính tự lập và tự chủ của các
đơn vị kinh doanh; đồng thời cũng đòi hỏi các đơn vị kinh doanh trong việc thực
hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, chấp nhận cạnh tranh, mở cửa… phải tuân theo pháp
luật và chịu sự điều tiết bằng pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước.
5. Nguyên tắc pháp chế XHCN:
Nguyên tắc này đòi hỏi có tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước phải
dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước; nguyên tắc này không cho phép các cơ
quan Nhà nước thực hiện việc quản lý Nhà nước một cách chủ quan, tùy tiện mà
phải dựa vào pháp luật của Nhà nước, để thực hiện nguyên tắc này phải có 03
8


điều kiện: xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật; giáo dục pháp luật cho toàn dân;
phải xử lý một cách nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh,
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật… bất cứ với ai vi phạm pháp luật đều
đưa ra xử lý theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ. Không làm theo
kiểu phong kiến: “Dân thì chịu hành pháp, quan thì xử theo lễ”… cấm bao che
cho hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào.
6. Nguyên tắc công khai:
Tổ chức hoạt động quản lý Nhà nước phải công khai cho dân biết trên báo
chí, đài phát thanh, truyền hình…
Phải chú ý đến dư luận xã hội, từ đó mà điều chỉnh kịp thời các quyết định
quản lý Nhà nước, thực hiện phương châm dân biết, dân làm, dân kiểm tra.

Ngoài 6 nguyên tắc cơ bản nói trên, tổ chức hoạt động và quản lý Nhà
nước còn có các nguyên tắc như: nguyên tắc tập trung và thống nhất của hệ
thống, nguyên tắc hai chiều trực thuộc, nguyên tắc trực thuộc thẳng, nguyên tắc
lãnh đạo tập thể…

9


Bài 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC VÀ
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚC
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC:
Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII đã chỉ ra
rằng Nhà nước ta được nhân dân trao quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân
dân quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và khả
năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý đời sống xã hội bằng pháp luật. Xây
dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chánh thông suốt từ Trung ương
đến cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực và hiệu lực. Đó là một phương hướng chỉ
đạo hết sức cơ bản. Đảng, Quốc hội, Chính phủ cũng như tất cả các cơ quan Nhà
nước và toàn thể nhân dân rất quan tâm đến vấn đề nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nước trong tình hình hiện nay.
Vậy hiệu lực quản lý Nhà nước là gì? Trước khi nói khái niệm hiệu lực
quản lý Nhà nước, chúng ta cần phải nhận thức rằng, xét về góc độ quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội phải có đủ 3 yếu tố chủ yếu: Quyền lực, năng lực và hiệu
lực. Ba lực này có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó quyền lực là yếu tố xuất
phát bao gồm hệ thống pháp luật và nguyên tắc pháp chế nghiêm minh, là sự bảo
đảm tính ổn định vững chắc của hiệu lực. Còn năng lực quản lý được thể hiên
bằng quyết định quản lý Nhà nước đúng đắn có ảnh hưởng đến hiệu lực. Như
vậy, chúng ta có thể thấy hiệu lực quản lý Nhà nước là sự thể hiện cụ thể quyền
lực và năng lực của Nhà nước.

Vậy, hiệu lực quản lý Nhà nước là sự tác động của các chủ thể quản lý
Nhà nước lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người bằng
quyền lực Nhà nước, để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội theo tính chất mệnh lệnh
đơn phương của Nhà nước và sự tuân thủ chấp hành pháp luật của mọi khách thể
quản lý một cách nghiêm minh. Duy trì được trật tự xã hội, kỷ cương Nhà nước
trong toàn bộ đời sống xã hội.
Một cách khác, gọn hơn và dễ hiểu hơn hiệu lực quản lý Nhà nước là tổng
thể của các hiệu lực pháp luật (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh), các hiệu lực văn
bản pháp qui (Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Chính
phủ là các cơ quan hành chính Nhà nước các ngành, các cấp có thẩm quyền, các
Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên Bộ); Hiệu lực của các điều lệ, quy chế, kế
hoạch… được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và toàn dân chấp hành
thực hiện hết sức nghiêm minh.
Trong thời gian qua, nhất là từ Đại hội Đảng lần thứ VI, qua các kỳ họp
của Quốc hội Khóa VIII và các Nghị quyết quản lý điều hành của Chính phủ, đất
nước có sự đổi mới rõ rệt, đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu quan trọng,
trong đó nổi lên là những thành tích về đổi mới quản lý kinh tế, bước đầu thực
hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân. Trên một khía
cạnh nhất định, sự quản lý Nhà nước ta đã có hiệu lực. Tuy nhiên, nhìn toàn
diện, đặc biệt là vấn đề tuân thủ pháp luật, pháp chế, trật tự kỷ cương xã hội còn
nhiều phức tạp và nhiều yếu kém.
10


II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp đã được Quốc hội và Chính phủ thể chế hóa thành văn bản
Luật và văn bản Pháp qui để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước ở nước ta
trong thời gian tới.

Ở đây chỉ trình bày các phương hướng và biện pháp chủ yếu:
1. Căn cứ vào cương lĩnh chính trị, chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội mà đặt ra cơ chế về chính sách quản lý. Cơ chế và chính sách phải
đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ và nhất quán, trong đó được nổi lên hàng đầu là cơ
chế, chính sách về quản lý kinh tế và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
2. Phải xây dựng mới, sửa chữa và bổ sung luật để có một hệ thống pháp
luật đầy đủ, hợp lý, chính xác, đúng với điều kiện kinh tế - xã hội.
3. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân phải trên cơ sở pháp luật, làm đúng pháp luật và giữ gìn nghiêm minh
nguyên tắc pháp chế.
4. Các cơ quan hành chính Nhà nước phải có quyết định thể hiện thành
hình thức văn bản pháp qui có căn cứ khoa học, có tính quần chúng, tính chính
trị và tính khả thi.
5. Phải giáo dục pháp luật, pháp chế cho toàn dân. Phải xử lý nghiêm
minh những ai vi phạm pháp luật dù ờ bất cứ cương vị nào.
6. Phải bồi dưỡng gấp rút, đào tạo chính quy một đội ngũ công chức Nhà
nước có đủ phẩm chất, kiến thức và năng lực.
7. Tiếp tục dân chủ hóa, tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân trong mọi
mặt đời sống xã hội. Tiếp tục nâng cao dân trí, chống mọi biểu hiện tiêu cực xã
hội, thực hiện công bằng xã hội.
III. HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC:
1. Một vài nhận thức về hiệu quả nói chung:
a) Hiệu quả là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận và thực
tiễn, là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lượng hoạt động quản lý kinh tế - xã
hội. Trong hoạt động quản lý có một số người hiểu đồng nhất khái niệm kết quả
và hiệu quả hoặc cho rằng năng suất cao, có chất lượng tốt là hiệu quả rồi. Thực
tế không phải hoàn toàn như vậy, năng suất cao, có chất lượng tốt là những chỉ
tiêu chất lượng rất quan trọng, tạo ra một khối lượng giá trị sử dụng lớn làm thỏa
mãn được nhu cầu về vật chất và tinh thần cho xã hội, những năng suất cao, chất
lượng tốt chưa chắc đã hiệu quả.

Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng khoa học và tiến bộ kỹ
thuật, cải tiến biện pháp quản lý… để tạo ra một số kết quả hoạt động (sản xuất,
công tác, dịch vụ…) sao cho kết quả đạt được tối đa còn chi phí cho kết quả đó
ở mức tối thiểu (tiết kiệm nhất).
Như vậy, có thể nói: Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả và chi phí, với
điều kiện là kết quả đạt tối đa còn chi phí tối thiểu.
Trong quá trình so sánh, hiệu quả chỉ có thể đạt được ở các trường hợp
sau:
- Kết quả tăng lên, chi phí cũng tăng nhưng chậm hơn
11


- Kết quả tăng nhưng chi phí vẫn giữ nguyên (không đủ).
- Kết quả tăng, chi phí giảm.
- Kết quả giữ nguyên, chi phí giảm.
- Kết quả giảm, chi phí giảm nhanh hơn.
Tất cả các trường hợp này đều dẫn đến kết luận là muốn có hiệu quả phải
đạt được kết quả cuối cùng nhiều hơn, chi phí tương đối ít hơn. Từ đó cũng có
thể nói: Hiệu quả lao động là sự tiết kiệm lao động xã hội gồm có lao động quá
khứ và lao động sống.
b) Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả:
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả lao động là chỉ tiêu dùng làm thước đo, dựa
vào đó mà ta so sánh để đánh giá hiệu quả hoạt động giữa các thời kỳ, các khu
vực hoặc các phương án.
Trong hoạt động thực tế, tiêu chuẩn đánh giá có hai mặt biểu hiện:
- Biểu hiện bằng định lượng: Đó là chỉ tiêu được tính bằng các đơn vị đo
lường cụ thể (hiện vật, tiền, thời gian lao động).
Chẳng hạn:
+ Trong lĩnh vực sản xuất vật chất để so sánh hiệu quả hoạt động giữa các
đơn vị, Nhà nước thường dùng chỉ tiêu (chỉ tiêu lên một số chỉ tiêu của một vài

lĩnh vực).
+ Để đánh giá hiệu quả của các đơn vị sản xuất kinh doanh, ta thường
dùng chỉ tiêu tỷ suất lãi trên một đồng vốn.
Đối với đánh giá hiệu quả hoạt động xã hội (văn hóa, giáo dục, y tế, thể
dục thể thao…) người ta thường dùng các chỉ tiêu so sánh kết quả và chi phí
giữa các thời kỳ.
Chẳng hạn:
+ Số lần đi xem văn nghệ của một người dân trong năm.
+ Số người đến tuổi đi học được đi học trên 1.000 dân.
+ Số bác sĩ hoặc số giường trên 1.000 dân.
+ Số đơn vị thể thao trên 10.000 dân v.v…
- Mặc định tính hiệu quả:
Đó là những chỉ tiêu có thể lượng hóa hoặc không thể lượng hóa, có ý
nghĩa phục vụ đường lối, mục tiêu chính trị, phục vụ xã hội, đời sống dân cư.
Chẳng hạn: Việc xây dựng công trình phục vụ nhân dân miền núi, các
vùng dân tộc ít người… để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
thì dù có lỗ, phải bù lỗ thì không được nói là không hiệu quả mà chính là có hiệu
quả cao xét về mặt định tính.
Hoặc để tạo nên sự cân đối tự chủ và đồng bộ của nền kinh tế quốc dân,
Nhà nước có nhiều việc phải làm, phải đầu tư, cho dù thời gian đầu không có lãi,
nhưng vẫn phải làm.
Đây là vấn đề rất có ý nghĩa về định tính của chỉ tiêu hiệu quả. Hoặc vì
công việc an ninh quốc gia, việc khắc phục khẩn trương một sự việc như: Bão
lụt, hỏa hoạn để đem lại sự ổn định thì không nên chỉ nghĩ về chi phí lớn mà cho
rằng không có hiệu quả…
2. Hiệu quả quản lý Nhà nước là gì?
12


a) Trước khi nói đến hiệu quả quản lý là gì, chúng ta nên đề cập một số

vấn đề mang tính đặc thù của công chức quản lý Nhà nước.
- Công tác quản lý Nhà nước hình thành, tồn tại và phát triển không phải
chỉ do bản thân Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước, các viên chức lãnh
đạo hình thành và tồn tại không phải vì bản thân bộ máy Nhà nước. Tất cả cái đó
hoạt động chính trị hình thành, tồn tại và phát triển là nhu cầu của xã hội, vì
cuộc sống của tất cả mội người trong xã hội. Thật vậy, mọi hoạt động của cơ
quan Nhà nước, của người lãnh đạo, một quyết định quản lý, một biện pháp tổ
chức thực hiện được coi là có hiệu quả đối với xã hội chỉ khi nào hoạt động ấy,
quyết định và biện pháp ấy đạt được mục đích xây dựng, cải tạo một quá trình,
đem lại lợi ích thiết thực làm thay đổi cuộc sống của mỗi người trong xã hội.
Đây là một quan niệm có ý nghĩa lý luận và thực tế quan trọng.
- Công tác quản lý Nhà nước không trực tiếp sáng tạo các sản phẩm vật
chất và tinh thần nhưng sự tác động quản lý của Nhà nước (thể hiện trên văn bản
luật và dưới luật) ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tốt và không tốt, nhanh
chậm, hoặc giẫm chân tại chỗ của các ngành, các đơn vị, các địa phương và cơ
sở trong mọi lĩnh vực sản xuất và không sản xuất của xã hội. Do đó, công tác
quản lý Nhà nước phải lấy việc phục vụ xã hội để đánh giá hiệu quả hoạt động
của mình.
- Quản lý Nhà nước là hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là
tính chính trị của quản lý Nhà nước và là quyền lợi chính trị của nhân dân.
- Tính toàn diện, tính đa dạng, tính tương đối ổn định của hoạt động quản
lý Nhà nước nhằm chỉ ở một mặt nào, một lĩnh vực nào mà phải đề cập đến mọi
khía cạnh hoạt động của đời sống xã hội, tất nhiên trong đó vấn đề kinh tế là nền
tảng.
- Với ý nghĩa trên, chúng ta có thể nói:
“Hiệu quả quản lý Nhà nước là kết quả của sự tác động của các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội để đảm bảo
các nhu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế và đời sống mạnh mẽ và đúng
hướng, đảm bảo các nhu cầu phát triển văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, phục

vụ công cộng, đảm bảo quốc phòng, trật tự an ninh, pháp luật, pháp chế, kỷ luật,
kỷ cương xã hội… Trong từng thời kỳ nhất định. Nếu không đáp ứng được các
nhu cầu đó thì không thể nói là hoạt động quản lý Nhà nước có hiệu quả”.
b) Căn cứ để đánh giá hiệu quả quản lý Nhà nước:
- Căn cứ thứ nhất: Hiệu quả xã hội nói chung:
Kết quả của việc thực hiện các mục tiêu, chương trình và nhiệm vụ quản
lý Nhà nước thông qua việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước trong từng thời kỳ
nhất định có tính đến việc chi phí để thực hiện kế hoạch đó theo tinh thần kế
hoạch thì hoàn toàn tốt, chi phí thì ít (tiết kiệm). nội dung chủ yếu là:
Việc tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đi lên CNXH
trong chặng đường tiếp theo bao gồm:
+ Về chính trị: Củng cố vững chắc Nhà nước XHCN, trên nền tảng liên
minh giai cấp công, nông và tầng lớp trí thức XHCN: Phát huy quyền làm chủ
13


của nhân dân lao động, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù bên trong, bên
ngoài, tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế.
+ Về kinh tế: cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí
then chốt, các thành phần kinh tế khác vẫn tồn tại lâu dài và hoạt động theo pháp
luật của Nhà nước, sản xuất nhiều hàng hóa, bảo đảm được tiêu dùng cơ bản của
xã hội và có tích lũy.
+ Về mặt xã hội: Xây dựng từng bước một xã hội lành mạnh, quan hệ
giữa người với người tốt đẹp, công bằng; xây dựng nền văn hóa mới để từng
bước chiếm lĩnh mặt trận tư tưởng, văn hóa XHCN trong toàn xã hội.
Hiệu quả cao nhất của quản lý Nhà nước là việc thực hiện các chương
trình mục tiêu, trong từng thời kỳ để thực hiện chiến lược kinh tế xã hội. Mức độ
hiệu quả nhiều hay ít là tùy thuộc vào kết quả thực hiện có liên hệ đến chi phí
tiết kiệm hay lãng phí.

- Căn cứ thứ hai: Hiệu quả xã hội riêng.
Đó là hiệu quả hoạt động của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương
và hiệu quả xã hội chung.
- Căn cứ thứ ba: Hiệu quả xã hội cụ thể.
Đánh giá việc tổ chức và hoạt động cụ thể của một cơ quan quản lý Nhà
nước thông qua các yếu tố sau đây:
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan gọn, nhẹ, hoạt động có hiệu quả.
+ Cán bộ công chức trước hết là người lãnh đạo, có năng lực và có uy tín
đối với xã hội, từng người làm việc có hiệu quả.
+ Thời gian đầu tư để giải quyết các tình huống nhanh nhạy, kịp thời, chi
phí tiết kiệm.
+ Kết quả của việc ra và việc tổ chức thực hiện qui định quản lý Nhà nước
mang lại lợi ích thiết thực.
+ Tính pháp chế, tính kỷ luật và trách nhiệm trong cơ quan và cán bộ công
chức Nhà nước được tuân thủ nghiêm minh.
+ Tính dân chủ, công bằng, đoàn kết nội bộ được bảo đảm
+ Việc sử dụng quyền lực Nhà nước tác động đến các quá trình xã hội và
con người được nhân dân tin và làm theo.
IV. NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC:
1. Vài nét tình hình: Trong thời gian qua nhất là sau khi có Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VII và thứ VIII, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở
nước ta diễn ra một quá trình đổi mới mạnh mẽ. Nhà nước đã thể chế hóa các
đường lối chủ trương và biện pháp lớn mà Đảng đã đề ra thành văn bản luật và
dưới luật và tổ chức thực hiện, đã bước đầu có thành tựu rất quan trọng.
- Về kinh tế, chúng ta đã bắt đầu đổi mới cơ bản về cơ cấu, về cơ chế và
đã đem lại kết quả rõ rệt. Chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy
mọi năng lực sản xuất hiện có, tạo điều kiện cho mọi công dân quyền sản xuất
kinh doanh theo phương pháp luật đã bắt đầu có hiệu quả. Kinh tế quốc doanh
đã và đang được củng cố để nhanh chóng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả, tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

14


- Trong nông nghiệp với cơ chế “khoán mười” đã tạo ra một động lực mới
trong sản xuất, tạo sự gắn bó giữa người nông dân với đồng ruộng, đưa lại hiệu
quả sản xuất nông nghiệp.
- Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp để chuyển từ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng kinh tế đối ngoại, làm
cho dân giàu nước mạnh tạo định hướng tiến lên CNXH, đã làm cho đời sống
của nhân dân ta từng bước ngày càng cao lên.
Tuy nhiên, đến nay đất nước vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt về
kinh tế - xã hội.
- Bộ máy Nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nặng nề, chồng chéo, lề lối và tác
phong làm việc vẫn còn quan liêu, chưa sát với thực tế, tệ nạn tham nhũng, ức
hiếp quần chúng trong một số cán bộ quản lý Nhà nước vẫn chưa được khắc
phục. Năng lực tổ chức thực hiện cơ quan và người lãnh đạo ở nhiều cấp, trình
độ quản lý điều hành ở cơ sở còn yếu.
Đội ngũ cán bộ chưa mạnh, chưa gương mẫu, một bộ phận bị sa sút phẩm
chất thoái hóa biến chất.
- Các nguyên tắc, tính pháp luật pháp chế, kỷ luật kỷ cương Nhà nước còn
quá lỏng lẻo. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa rõ ràng làm cho
hiệu lực Nhà nước chưa cao, quyền làm chủ của nhân dân chưa được bảo đảm.
- Đời sống của nhân dân lao động tuy có khá lên nhưng chưa đồng đều.
Cán bộ công chức Nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn. Đời sống văn hóa chưa
lành mạnh, các chính sách xã hội được thực hiện còn quá ít.
2. Phải làm gì để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
a) Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong công tác quản lý
Nhà nước.
- Phải nhìn thẳng vào cuộc sống, xem cái gì đang cản trở quyền làm chủ

của nhân dân lao động.
- Những hành động gây khó khăn cho dân (đi lại, học hành, công tác, bắt
bớ, giam, tha trái phép…) phải được chấm dứt.
- Những hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ của công dân về các mặt kinh
tế, chính trị, xã hội của một số cán bộ nhân viên Nhà nước phải được xử lý
nghiêm khắc, giải quyết triệt để tệ quan liêu tham nhũng.
- Phát huy tài năng, sức lực, tiền của người dân để họ tham gia vào công
việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tập
thể lao động, các tổ chức xã hội khác để họ tham gia vào công việc quản lý Nhà
nước.
- Coi trọng và giải quyết đến nơi đến chốn, đúng pháp luật và kiến nghị,
đơn từ, khiếu tố, khiếu nại của nhân dân, bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của
nhân dân.
b) Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác quản lý Nhà nước theo phương hướng Đảng là người lãnh đạo, còn
người tổ chức thực hiện điều hành cụ thể chính là Nhà nước. Cương quyết xóa
bỏ lối bao biện làm thay chính quyền của cấp ủy Đảng và lối dựa dẫm ỷ lại của
15


các cơ quan chính quyền để Đảng phát huy vai trò lãnh đạo, Nhà nước phát huy
hiệu lực điều hành quản lý xã hội.
c) Cải cách bộ máy Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đặc biệt
là cơ chế quản lý kinh tế.
- Giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có
hiệu lực. Qui định cụ thể chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý Nhà nước từ Trung ương, địa phương và cơ sở.
- Phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng sản
xuất kinh doanh ở các cấp ngành và đơn vị.

d) Xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật và tăng cường pháp chế.
Thể chế hóa đúng đắn, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng thành văn
bản của Nhà nước.
đ) Giải quyết vấn đề cán bộ nhất là người lãnh đạo theo Nghị quyết của
Đảng: Muốn nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội có một
đội ngũ cán bộ giỏi, có năng lực, có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và đạo
đức cách mạng.
e) Các cơ quan quản lý Nhà nước phải đổi mới phong cách làm việc, thực
hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao. Xóa bỏ lối làm việc quan
liêu, giấy tờ, vô kỷ luật, vô trách nhiệm, lề mề, gây phiền hà cho nhân dân, tăng
cường kỷ luật kỷ cương Nhà nước.
f) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm
minh theo kết quả kiểm tra, thanh tra.

16


Bài 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình.
Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động

trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
I. ĐẢNG CỘNG SẢN
Thực tế, từ khi thành lập năm 1930 đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã
tổ chức và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Năm
1945, Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng tháng 8 chấm dứt
ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (là nước CHXHCN Việt Nam ngày nay). Năm 1954, sau 9 năm lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thắng lợi, Đảng đã giành sự kiểm soát
hành chính trên một nửa nước Việt Nam. Từ năm 1954 đến 1975 Đảng cộng sản
đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ mới ở miền Bắc, thực hiện cuộc kháng
chiến chống xâm lược Mỹ trên cả nước và giải phóng hoàn toàn miền Nam năm
1975, thống nhất đất nước năm 1976. Năm 1986 Đảng cộng sản đã khởi xướng
và lãnh đạo công cuộc Đổi mới đạt được nhiều thắng lợi to lớn, sau 10 năm đã
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, bước vào thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ
quan quyền lực cao nhất là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại hội bầu ra Ban
chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị và Tổng
Bí thư. Trước đây chức vụ cao nhất trong Đảng là Chủ tịch Đảng (do Chủ tịch
Hồ Chí Minh đảm nhận). Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam là
ông Trần Phú. Tổng Bí thư hiện nay (khóa XI) là ông Nguyễn Phú Trọng. Mọi
công dân Việt Nam nếu tự nguyện gia nhập Đảng cộng sản và nếu tổ chức Đảng
thấy có đủ tiêu chuẩn thì sẽ làm lễ kết nạp. Tuy nhiên, người Đảng viên mới đó
phải trải qua một thời kỳ thử thách, ít nhất là một năm, mới có quyền biểu quyết,
bầu cử và ứng cử trong Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam đã trải qua 11 lần đại
hội. Đại hội XI diễn ra vào tháng 01 năm 2011. Hiện nay Đảng có hơn 3,6 triệu
đảng viên.
17



II. HỆ THỐNG NHÀ NƯỚC:
1. Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn:
Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội
thành lập;
3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định,
sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm
vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới
hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội,

Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng
đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của
Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên
Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân và Hiến pháp;
8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn;
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ;
thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố
18


trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ
quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
11. Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại
giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và
danh hiệu vinh dự nhà nước;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng
khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa

bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế
khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
15. Quyết định trưng cầu ý dân.
b) Nhiệm kỳ của Quốc hội:
Điều 71 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội
là năm năm.
Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải
được bầu xong.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài
nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài
nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường
hợp có chiến tranh.
Điều 83 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội họp công khai. Trong
trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội, Quốc hội quyết định họp kín.
Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu
tập kỳ họp Quốc hội.
c) Đại biểu Quốc hội: Là công dân Việt Nam, từ 21 tuổi trở lên, có phẩm
chất, trình độ, năng lực, được cử tri tín nhiệm bầu ra.
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân
ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri;
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội,
các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri

về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử
19


tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ
việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp
và pháp luật.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án
luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh
án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng
Kiểm toán nhà nước.
d) Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội: Là đại biểu Quốc hội do Quốc
hội bầu ra vào kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với
các đại biểu Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Chủ tịch Quốc hội.
e) Ủy ban thường vụ Quốc hội: Điều 73 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch
Quốc hội và các Ủy viên.
Số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành
viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.
Ủy ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Ủy ban thường vụ

Quốc hội.
Nhiệm vụ và quyền hạn:
Ðiều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội;
2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh;
3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà
nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
4. Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại
kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

20


5. Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc
hội;
6. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu
cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước;
7. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến

pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó
làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân;
8. Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
9. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc
hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
10. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình
trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
11. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
12. Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền
của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
13. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
Ðể thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội giao cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và Văn phòng Quốc
hội chuẩn bị các vấn đề trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định.
g) Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội gồm: Ủy ban Pháp
luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính - Ngân sách; Ủy ban
Quốc phòng và An ninh; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên Thiếu niên và
Nhi đồng; Ủy ban về Các vấn đề Xã hội; Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi
trường; Ủy ban Đối ngoại.
2. Chủ tịch nước:
Điều 86 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước là người đứng đầu
Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối
ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn:
Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:

1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc
hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được
thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết
tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội
quyết định tại kỳ họp gần nhất;
21


2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính
phủ;
3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết
của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố
quyết định đại xá;
4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà
nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc
tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp
tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động
viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban

thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp
trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử,
triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu
lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.
b) Nhiệm kỳ:
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội
hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá
mới bầu ra Chủ tịch nước.
c) Giúp việc Chủ tịch nước có: Phó Chủ tịch nước, Hội đồng Quốc phòng
và An ninh, Văn phòng Chủ tịch nước.
+ Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó
Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch
nước uỷ nhiệm thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ.
+ Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các
Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch
nước trình Quốc hội phê chuẩn.
Hội đồng Quốc phòng và An ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết
định theo đa số.
22


Hội đồng Quốc phòng và An ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng
chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để
bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội

giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân
dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
3. Chính phủ:
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn:
Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự
án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc
hội;
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên
cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo
vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ;
thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán
bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công

tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm
tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật
định;
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người,
quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy
quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm
dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình
23


Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ
quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình.
b) Nhiệm kỳ:
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới
thành lập Chính phủ.
c) Thành viên Chính phủ:
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính
phủ do Quốc hội quyết định.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu
trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của
Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo
sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt,
một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt
Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước
Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân
công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập
thể về hoạt động của Chính phủ.
4. Toà án nhân dân tối cao:
Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân tối cao là cơ
quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ
trường hợp do luật định.
Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm
áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Theo Điều 105 Hiến pháp năm 2013: Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án
nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm
phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định.
5. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện
kiểm sát khác do luật định.
24



Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Theo Điều 108 Hiến pháp năm 2013: Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
6. Tổ chức bộ máy cấp địa phương:
a) Hội đồng nhân dân:
- Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Hội đồng nhân dân huyện.
- Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận.
- Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.
b) Ủy ban nhân dân:
- Tỉnh và cấp tương đương: gồm các sở, các ủy ban, các cơ quan khác
thuộc Ủy ban nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân.
- Huyện và cấp tương đương: gồm các phòng, ban, các cơ quan khác
thuộc Ủy ban nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân.
- Xã và cấp tương đương: các ban và văn phòng.
c) Toà án nhân dân địa phương:
- Toà án tỉnh và cấp tương đương.
- Toà án nhân dân huyện.
d) Viện kiểm sát nhân dân địa phương: Gồm cấp tỉnh và huyện.
III. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng
lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ
chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước
tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.
IV. CÔNG ĐOÀN
Điều 10 Hiến pháp năm 2013 quy định: Công đoàn Việt Nam là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan
25


×