Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận đầu tư trực tiếp nước ngoài của singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.88 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

A. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore:..........................................2
I. Khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài:........................................................................2
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoải của Singapore hiện nay:...........................3
1. Khái quát chung:....................................................................................................3
2. Các lĩnh vực đầu tư:................................................................................................4
III. Chính sách thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) của Singapore
từ năm 1991 đến nay:......................................................................................................6
B. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Singapore tại Việt Nam.Thực trạng đầu tư
trực tiếp của Singapore tại Việt Nam:............................................................................7
I. Quan hệ ngoại giao và nền tảng thương mại giữa hai nước:........................................7
II. Những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam,
nguyên nhân và giải pháp:..............................................................................................9
1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ
Singapore vào Việt Nam:...........................................................................................10
2. Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp từ Singapore:....................................................12

1


A. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore:
I. Khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là
FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ
nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức thương mại Thế giớiđưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ
đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền
quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài


chính khác.Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý
ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường
hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh
công ty”.
FDI là hạng mục đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực thể (đầu tư trực
tiếp) một công dân trong một nền kinh tế có được một sự quan tâm lâu dài trong một
doanh nghiệp (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp) một công dân trong một nền kinh tế khác
hơn so với trực tiếp nhà đầu tư. Sự quan tâm lâu dài ngụ ý sự tồn tại của một mối quan
hệ lâu dài giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp trực tiếp và mức độ ảnh hưởng đáng kể do
nhà đầu tư về quản lý của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp được định
nghĩa là một trong một nhà đầu tư trực tiếp, sở hữu 10% hoặc nhiều hơn cổ phần phổ
thông hoặc quyền biểu quyết (Đối với doanh nghiệp kết hợp) hoặc tương đương (đối
với doanh nghiệp tư cách pháp nhân).
Đầu tư trực tiếp là một khái niệm tài chính và không giống như chi phí vốn về tài sản
cố định. Tài sản của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp được tài trợ bởi địa phương

II. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Singapore hiện nay:
1. Khái quát chung:

2


Cùng với nỗ lực thu hút đầu tư từ nước ngoài, xét thấy Singapore là 1 thị trường
rất nhỏ, các doanh nghiệp Singapore đã phải tìm cách vươn ra thế giới với mục đích
dựa vào thế giới để thúc đẩy nền kinh tế trong nước và quả thật Singapore đã rất thành
công trong thời gian vừa qua.
FDI ra nước ngoài của Singapore đã tăng lên nhanh chóng trong vài thập kỷ
qua, một sự phát triển mạnh mẽ góp phần hội nhập sâu hơn của nền kinh tế này với thế
giới, đặc biệt là Tây Âu và Hoa Kỳ hay các thị trường của các nước nhỏ láng giềng, chi
phí thấp về lao động và đất.

Chứng khoán của Singapore vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 13,2%, lên
đến 359,3 tỷ USD vào cuối năm 2009
Phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức đầu tư vốn chủ sở hữu trực
tiếp (83,6%) với các khoản vay ròng cho các chi nhánh nước ngoài chiếm 16,4% vốn
đầu tư trực tiếp
Tổng
Đầu tư vốn chủ sở hữu trực tiếp
Khoản vay ròng cho các chi nhánh

2008 (tỉ $ )
317.4
259.6
57.7

2009 (tỉ $)
359.3
300.5
58.9

Giá trị đầu tư ra nước ngoài của singapore ở mức rất cao với xu hướng chung là
tăng :
-

Giai đoạn từ 2005-2007, đường giá trị đầu tư ra nước ngoài tăng nhanh từ
406,682 triệu USD đến 652,276 triệu USD
Giai đoạn 2008-2009, do nền kinh tế Singapore phụ thuộc khá lớn vào bên
ngoài vì vậy cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nước này.
Kết quả là giá trị đầu tư ra nước ngoài của Singapore giai đoạn này hầu như
không tăng.


Sau đó Singapore đã nhanh chóng thoát khỏi khó khăn và trở lại tăng nhanh vào
năm 2009 mặc dù mức tăng chưa cao như những năm trc khủng khoảng. Tốc độ tăng
dần chậm lại đến năm 2009, con số này là 736,491 triệu USD.

2. Các lĩnh vực đầu tư:
a. Phân chia theo lĩnh vực đầu tư:
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Singapore chủ yếu tập trung vào dịch vụ tài
chính và bảo hiểm (49,5% hay 177,9 tỷ USD) và ngành sản xuất (23,4% hay 84,1 tỷ
3


USD), các hoạt động liên quan đến bất động sản (5,6%), bán buôn và bán lẻ (5,5%), và
hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (4,7%).
2008(tỉ $)

2009 (tỉ $)

2009 (%)

317.4

359.3

100

Dịch vụ tài chính và 156.2
bảo hiểm

177.9


49.5

Sản xuất

77.2

84.1

23.4

Hoạt động bất động 17.4
sản

20.2

5.6

Bán buôn và bán lẻ

17.4

19.6

5.5

Công nghệ thông tin

14.7

17.0


4.7

Giao thông vận tải

11.0

9.6

2.7

Tổng

Các doanh nghiệp chính phủ hoặc có liên kết với chính phủ của Singapore đầu
tư lớn trong lĩnh vực bất động sản. Singapore đã chi ra khoản vốn đầu tư 329 triệu
USD vào dự án khách sạn Strategic, khoản vay có thời hạn hai năm với ba lựa chọn gia
hạn một năm. GIC cũng đã mua 50% cổ phần(đối với một số tiền không được tiết lộ)
trong một tòa nhà văn phòng chính ở trung tâm Paris. Phần lớn FDI của Singapore
trong lĩnh vực bất động sản nói chung được tập trung ở châu Á, chủ yếu là Trung
Quốc. Tập đoàn CapitaLand đã mua đến 20% cổ phần trong Tập đoàn Phát triển
Bayshore, Hồng Kông tương đương 58 triệu đô la Mỹ. Năm 2003, Ascendas công bố
mua của tòa nhà Trung tâm Citicorp tại Seoul, thương vụ mua bán đầu tiên của công ty
này tại Hàn Quốc. Ascendas cũng cho biết dự định đầu tư lên đến 500 triệu USD trong
thị trường bất động sản Hàn Quốc trong vài năm tới. Ascendas sở hữu tòa nhà kinh
doanh tại Trung Quốc, Đài Loan, ViệtNam, Philipine, Indonesia và Ấn Độ.

4


b. Phân chia theo khu vực đầu tư:

Châu Á là điểm đến lớn nhất của đầu tư trực tiếp từ Singapore tính đến thời
điểm cuối năm 2009, chiếm 52,8% hay 189,8 tỷ USD của tổng đầu tư nước ngoài của
Singapore. Châu Âu (16,5%) còn Nam và Trung Mỹ và Caribe chiếm 15.1%.
Châu Á: Chứng khoán của Singapore vào đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Châu Á tăng
9,7% lên tới 189,8 tỷ USD vào cuối năm 2009. Trung Quốc (58,1 tỷ USD), Malaysia
(28,7 tỷ USD) và Indonesia (26,3 tỷ USD) là các điểm đến quan trọng của các nhà đầu
tư Singapore.
Singapore đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc tăng từ 53,9 tỷ USD vào cuối năm
2008 đến 58,1 tỷ USD vào cuối năm 2009. Khoảng 55,6% khoản đầu tư của Singapore
vào Trung Quốc là ở lĩnh vực sản xuất, trong khi khoảng 18,4% trong lĩnh vực bất
động sản. Ở Trung Quốc, Singapore đã đầu tư hàng tỷ USD để kinh doanh với những
dự án khổng lồ như xây dựng các khu công nghiệp ở Tô Châu, Sơn Đông, Tứ Xuyên.
Trong đó ở Thượng Hải, Singapore đã liên kết với các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn
Quốc xây dựng nhà ở tại khu phố Đông, là dự án đầu tư lớn nhất của Singapore ở nước
ngoài. Hiện tại, Trung Quốc cũng là nơi mà Singapore bỏ tiền đầu tư ở nước ngoài
nhiều nhất với tổng kim ngạch đến 50 tỷ SGD tính đến cuối năm 2009.
Cũng có một dòng lớn vốn đầu tư trực tiếp từ Singapore đến Hongkong (21,5 tỷ
USD) và Thái Lan (19,5 tỷ USD)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore vào Malaysia chủ yếu là vào lĩnh vực
tài chinh dịch vụ (54,5%) và sản xuất (30,1%). Mặc dù bất đồng chính trị đôi khi xảy
ra giữa Singapore và Malaysia,các nhà đầu tư Singapore, bao gồm cả các công ty liên
kết của chính phủ, vẫn có những hoạt động đầu tư trong ngành phi chính trị nhạy cảm
của nền kinh tế Malaysia.
Sản xuất (37,3%) và dịch vụ tài chính (20,9%) là các lĩnh vực chiếm số lượng
lớn vốn đầu tư trực tiếp của Singapore vào Indonesia
Singapore cũng có những dự án đầu tư lớn tại Ấn Độ, các quan chức Singapore
coi Ấn Độ như là một địa điểm đầu tư ngày càng quan trọng (Thủ tướng Singapore
Goh Chok Tong đã đến thăm Ấn Độ vào tháng 4/2003, công bố bắt đầu cuộc đàm phán
về một thỏa thuận thương mại tự do song phương). Năm 1995, Singapore và Ấn Độ đã
kí Hiệp định xây dựng tại ngoại ô thành phố Bancara 1 khu kinh tế cao cấp quốc tế với

số lượng hàng năm khoảng 600 triệu USD. Bên cạnh đó, Singapore còn nhiều dự án
5


đầu tư khá lớn, xây dựng khách sạn, nhà hàng, nâng cấp sân bay và các hang hàng
không nội địa của Ấn Độ. Cơ quan thương mại hàng đầu của Ấn Độ (FICCI) trong một
bản báo cáo gần đây nhất cho biết đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) của Singapore vào
Ấn Độ năm 2008 tăng 11,69 tỷ RM (=Ringgit Malaysia,=3,3 tỷ USD), cao hơn nhiều
với mức 1 tỷ RM vào năm 2005.
Châu Âu: Chứng khoán của Singapore đầu tư trực tiếp vào Châu Âu đứng ở mức 59.2
tỷ USD vào cuối năm 2009, so với 45,5 tỷ USD một năm trước đó
Anh (41,9 tỷ USD), Thụy Sĩ (4.8 tỷ USD) và Hà Lan (4,6 tỷ USD) là những điểm đến
đầu tư trực tiếp chủ yếu của Singapore ở Châu Âu
Các khu vực khác:
Úc thu hút 23,9 tỷ USD đầu tư trực tiếp của Singapore tính đến cuối năm 2009,
so với 11,8 tỷ năm 2008, chủ yếu vào dịch vụ tài chính (11,5 tỷ USD), thông tin liên
lạc (5,7 tỷ USD). Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Mỹ tính đến cuối năm 2009 là 12
tỷ, chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất (6,8 tỷ USD) và dịch vụ tài chính (3 tỷ USD)

III. Chính sách thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) của
Singapore từ năm 1991 đến nay:
Hỗ trợ vốn thông qua vốn tín dụng ưu đãi: chính phủ sẽ cung cấp một phần tài
chính đầu tư ra nước ngoài, mặt khác giúp các công ty này phát hành cổ phiếu trên thị
trường để huy động thêm vốn, với các xí nghiệp vừa và nhỏ được tài trợ thong qua
Quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài.
Miễn giảm thuế thu nhập công ty cho các công ty ĐTRNN: chính phủ quy định
tất cả các xi nghiệp đầu tư ra nước ngoài mà có được lợi nhuận đều có thể xin miễn
thuế, kể các các xí nghiệp đầu tư vào các nước chưa có Hiệp định bảo hộ với
Singapore vẫn được miễn thuế.
Thành lập Câu lạc bộ đầu tư ra nước ngoài: hiện nay Singapore đã có 48 CLB

đầu tư hải ngoại cung cấp thông tin về các nước và khu vực có đầu tư của Singapore,
tìm kiếm đối tác mới, tư vấn đầu tư, chia sẻ kinh nghiệm, mở lớp đào tạo, huấn luyện
phục vụ cho việc ĐTRNN. Tháng 1/1993, Singapore còn lập Ủy ban xúc tiến ĐTRNN.
Nhiệm vụ của Ủy ban này là đánh giá khả năng đầu tư của các xí nghiệp và đệ trình lên
chính phủ những kiến nghị có tính khả thi.

6


Chuyển hướng và đa dạng hóa thị trường đầu tư: Ban đầu chú trọng đầu tư vào
Trung Quốc và các nước ASEAN khác, sau đó mở rộng đầu tư sang các nước khác trên
thế giới.
Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, Singapore đẩy mạnh xây dựng những khu mậu dịch
ở các nước ASEAN như Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và đặc biệt chú
trọng tới 2 nước trong khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ. Châu Á là vị trí hàng đầu cho
các công ty Singapore đầu tư ở nước ngoài như đầu tư nước ngoài từ khu vực doanh
nghiệp của Singapore đã tang 12,4% đạt 372 tỷ USD vào cuối năm 2005, Singapore
đầu tư ở châu Á chủ yếu Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Hồng Kông.

B. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Singapore tại Việt Nam.Thực trạng đầu
tư trực tiếp của Singapore tại Việt Nam:
I. Quan hệ ngoại giao và nền tảng thương mại giữa hai nước:
Ngày 1-8-1973: Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã thăm chính thức Singapore từ ngày 16 đến ngày 17-1-1978. Tháng
12-1991, Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore và tháng 9-1992, Đại sứ quán Singapore
tại Hà Nội được thành lập.
Sau khi Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali (7/1992) và trở thành thành viên đầy
đủ của ASEAN tháng 7/1995, quan hệ hai nước chuyển sang một giai đoạn phát triển
mới về chất. Singapore rất coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với Việt Nam và Việt
Nam trở thành một trong những thị trường chính về hợp tác thương mại, đầu tư của

Singapore ở Đông Nam Á.Từ năm 1996 đến nay, Singapore luôn là một trong những
đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Việt Nam.
Hiệp định Kết nối Kinh tế Việt Nam-Singapore được ký kết giữa hai Chính
phủ vào năm 2005 là chương trình hợp tác toàn diện, tập trung vào 6 nội dung cụ thể,
bao gồm tài chính, giáo dục và đào tạo, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và
truyền thông, đầu tư, thương mại và dịch vụ. Chiều 4/7/2011, Hội nghị cấp Bộ trưởng
lần thứ 7 về Kết nối kinh tế Việt Nam-Singapore được tổ chức tại Hà Nội dưới sự chủ
trì của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc và Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp và Thương mại Singapore Lim Hng Kiang.
Về đầu tư, nhìn chung các doanh nghiệp Singapore đầu tư tại Việt Nam thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật Đầu tư tại Việt Nam hòa nhập với cộng đồng. Có thể nói
7


Đầu tư của họ đã thành công tại Việt Nam, đã đóng góp phát triển một số lĩnh vực như
đầu tư kinh doanh bất động sản; dịch vụ lưu trú, ăn uống, công nghiệp chế biến chế
tạo, xây dựng… đây cũng chính là các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp
Singapore vào Việt Nam thời gian qua.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 10 năm kể từ ngày gia nhập ASEAN, các
nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 11,3 tỷ USD.Dẫn đầu
là Singapore, với hơn 360 dự án còn hiệu lực có tổng vốn đăng ký trên 8,1 tỷ USD và
đã thực hiện được gần 3,3 tỷ.
Lũy kế đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có tổng cộng 13.667 dự án còn hiệu lực
với tổng vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%.
Singapore là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD, tiếp
theo là Hàn Quốc, Nhật và Đài Loan. Tp.HCM vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu
hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp theo là Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng
Nai và Bình Dương. ( 30-12-2011)

Một số con số ấn tượng trong năm 2011.

Năm 2011 là năm đầy khó khăn và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam,
trong đó có việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), do những ảnh hưởng
trực tiếp từ các tiêu cực cử thế giới như khủng hoảng nợ công châu Âu ngày càng lan
rộng, mất cân bằng trong khu vực tài khóa tại các nước đang phát triển dẫn đến dòng
FDI thế giới, cộng với những hạn chế của nội tại nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên,
khu vực FDI vẫn đạt được những kết quả tương đối khả quan, đặc biệt với những con
số ấn tượng từ Singapore.
Nhìn chung các doanh nghiệp Singapore đầu tư tại Việt Nam thực hiện nghiêm
chỉnh pháp luật Đầu tư tại Việt Nam hòa nhập với cộng đồng và có thể nói Đầu tư của
họ đã thành công tại Việt Nam, đã đóng góp vào phát triển một số lĩnh vực như đầu tư
kinh doanh bất động sản; dịch vụ lưu trú, ăn uống, công nghiệp chế biến chế tạo, xây
dựng… đây cũng chính là các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp Singapore
vào Việt Nam thời gian qua.






Kinh doanh BĐS (50 dự án với vốn đăng ký trên 7,6 tỷ USD)
CN Chế biến, Chế tạo (329 dự án với vốn đăng ký trên 6,0 tỷ USD)
Xây dựng (80 dự án với vốn đăng ký trên 3,5 tỷ USD)
Nghệ thuật và giải trí (12 dự án với vốn đăng ký trên 1,7 tỷ USD)
Dịch vụ lưu trú và ăn uống (25 dự án với vốn đăng ký trên 1,7 tỷ USD)
8


 Vận tải kho bãi (60 dự án với vốn đăng ký trên 707 triệu USD)
 Y tế và trợ giúp xã hội (11 dự án với số vốn đăng ký 537 triệu USD)
Đặc biệt là một số dự án nổi bật trong lĩnh vực bất động sản DN Singapore gặt

hái được thành công ở Việt Nam.
 Điển hình các dự án trong lĩnh vực Phát triển hạ tầng đô thị và công nghiệp dịch
vụ có thể điểm đến như Dự án VSIP hoạt động từ 1995. Dự án Khu công nghiệp
Việt Nam Singapore (VSIP) tại thành phố Hải Phòng khởi công tháng 1 năm
2010. VSIP đầu tư 04 dự án tại Bình Dương, Bắc Ninh và Hải Phòng với tổng
diện tích đất 4,845 ha.VSIP cũng đã mở rộng phạm vi đầu tư vào miền Miền
Trung, đầu tư vào Nhà ở - Công nghiệp - Dịch vụ thương mại cũng như các
ngành dịch vụ phức tạp như dự án để thu hút các ngành công nghiệp nhẹ, các dự
án phát triển của đô thị-dân cư.
 Các dự án nhà ở của CapitaLand, Tập đoàn Keppel Land đã đầu tư ở Việt Nam
12 năm với vốn đầu tư tính đến nay khoảng 3,2 tỷ USD, 16 dự án. Hiện nay
Keppel Land đang tiếp tục triển khai đầu tư nhiều dự án có quy mô khá lớn ở
TP.HCM như các trung tâm mua sắm, khách sạn, căn hộ cho thuê chuẩn quốc tế,
dự án nhà ở The Estella, Waterfront Condominium…
Các dự án, lĩnh vực Việt Nam đang kêu gọi thu hút đầu tư nước ngoài như điện
tử, công nghệ thông tin, các dự án công nghiệp dịch vụ có tỷ suất sinh lời cao như
khách sạn, du lịch, bất động sản, các dự án chế biến nông thủy sản… đều là những lĩnh
vực DN Singapore có thế mạnh.

II. Những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt
Nam, nguyên nhân và giải pháp:
Nhìn từ một góc độ khác, chúng ta sẽ bắt gặp những hạt sạn trong việc đầu tư
trực tiếp của Singapore sang Việt Nam. Nếu những hạt sạn này không được giải quyết
triệt để thì cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động đầu tư, làm giảm hiệu quả
của dòng vốn đầu tư.
Công tác xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch thu hút vốn đầu tư của
Singapore còn chậm, thiếu cụ thể, chất lượng chưa cao. Các dự án đầu tư của
Singapore thường tập trung chủ yếu vào các địa phương có cơ sở hạ tầng tốt như Hà
Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh..., các khu công nghiệp đã thành lập do thiếu kết cấu hạ
9



tầng kinh tế-xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore. Nhiều khu công
nghiệp ở miền Bắc và miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp.
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài của Singapore có một số bất hợp lý, hiệu quả của
khu vực đầu tư chưa cao. Đầu tư nước ngoài của Singapore thường tập trung nhiều vào
các địa phương có điều kiện thuận lợi và những ngành có dự kiến có thể thu lợi nhuận
nhanh, các dự án nuôi trồng và chế biến nông sản, cơ khí chế tạo còn rất hạn chế.
Những năm gần đây, xuất khẩu ở khu vực đầu tư của các doanh nghiệp Singapore tăng
nhanh. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng gia công, lắp ráp điện
tử, giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới không cao, chưa
vững chắc. Nhiều nhà đầu tư Singapore sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy
phép là sản xuất hàng hoá phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Nhưng trong thực tế, doanh
nghiệp Singapore đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đã lấy lý do gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của khủng hoảng cũng như một số điều kiện
bất khả kháng từ bên ngoài…để hướng sản xuất của họ vào thị trường Việt Nam.
Quan hệ giữa phương thức góp vốn và lợi ích của các đối tác Singapore.
Về phương thức và thực trạng thực hiện góp vốnlà việc góp vốn của bên Việt Nam
thường được thực hiện một lần ngay khi dự án bắt đầu triển khai xây dựng cơ bản,
trong khi đó việc góp vốn của đối tác Singapore thường thực hiện rải rác trong một
thời gian dài...Như vậy, có những thời kỳ tỷ lệ góp vốn thực tế của bên Việt Nam cao
hơn phía Singapore, nhưng theo quy định vì lợi ích mà hai bên được hưởng cũng như
vị thế trong điều hành hoạt động của liên doanh lại theo tỷ lệ thuận với phần vốn pháp
định đã được ghi trong giấy phép đầu tư. Điều này một mặt gây thua thiệt cho bên Việt
Nam cả về kinh tế lẫn quyền điều hành liên doanh, mặt khác, làm mất đi yếu tố kinh tế
để ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài thực hiện việc góp vốn đầy đủ và đúng tiến
độ.

1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ
Singapore vào Việt Nam:

a. Thuận lợi:
Trong bối cảnh kinh tế hai nước có nhiều chuyển biến tích cực, Việt Nam và
Singapore càng có điều kiện tăng cường hợp tác.Vì vậy, lãnh đạo cấp cao Việt Nam hết
sức quan tâm và tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư của Singapore tại Việt Nam,
đặc biệt trong các lĩnh vực Singapore có thế mạnh. Việt Nam cũng mong muốn tiếp tục
đẩy mạnh hợp tác thương mại với Singapore, mong Singapore hỗ trợ Việt Nam tiếp thị
hàng xuất khẩu và kết nối với thị trường thế giới.
10


Lãnh đạo các tập đoàn kinh tế của Singapore đánh giá ở khu vực Đông Nam Á,
đầu tư tại Việt Nam có tiềm năng và đem lại hiệu quả cao do có môi trường đầu tư
thuận lợi, hệ thống luật pháp về kinh tế đang được hoàn thiện. Các doanh nghiệp cũng
hoan nghênh những tiến bộ nhanh của Việt Nam trong cải cách thủ tục hành chính,
giảm chi phí doanh nghiệp, đồng thời cam kết tích cực triển khai các dự án hiện đang
đầu tư tại Việt Nam.
Không chỉ có việc hỗ trợ và phối hợp các doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam,
CP Việt Nam tiếp tục thực hiện các công tác xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam sang Singapore trong thời gian tới. Diễn đàn này cũng là cơ hội để kết nối các
doanh nghiệp để rồi từ đó các doanh nghiệp VN sẽ kết nối sang Singapore để tìm các
cơ hội hợp tác, đầu tư ra nước ngoài.

b. Khó khăn:
Gần 25 năm đã qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời vào
tháng 12 năm 1987. Thành tựu nhiều, nhưng không phải là không có những hạn chế
trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đối với các nhà đầu tư Singapore, các DN Singapore hiện nay còn thiếu rất
nhiều thông tin về Việt Nam, DN hai nước cũng chưa kết nối được nhiều với nhau.
Việt Nam cũng mới chỉ có khoảng 20 DN đầu tư làm ăn ở Singapore với số vốn
khoảng hơn 100 triệu USD.

Ngoài các lĩnh vực kể trên, Singapore còn có một số thế mạnh khác như dịch vụ
tài chính - Ngân hàng - bảo hiểm; đào tạo; bán buôn, bán lẻ; thông tin và truyền
thông… Tuy nhiên hiện nay các lĩnh vực này vẫn chưa được đầu tư thích đáng vào Việt
Nam, do các doanh nghiệp Singapore chưa tìm thấy các dự án phù hợp với năng lực và
mục tiêu của họ tại Việt Nam.Hướng khắc phục là đẩy mạnh hoạt động XTĐT có hiệu
quả trên cơ sở chọn lọc đúng dự án, đúng các Nhà đầu tư đủ năng lực về tài chính và
Công nghệ trong các lĩnh vực mà Singapore có thế mạnh và Việt Nam đang cần.
Luật đầu tư của Việt Nam vẫn chưa thực sự hoàn thiện và cơ chế hành chính tuy
cải cách vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà
Nguồn nhân lực Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía các DN bên
Singapore

11


Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu đồng
bộ và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước. Tính ổn định của luật
pháp, chính sách chưa cao; một số luật pháp, chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư
nước ngoài thay đổi nhiều, một số trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của
nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Việc thực
thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm; thủ tục hành chính các cấp, nhất là thủ tục sau
giấy phép, chậm được cải tiến; hiện tượng sánh nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng;
thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, phiền hà. Những việc trên đã làm biến dạng chính
sách, làm xấu thêm môi trường đầu tư.

2. Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp từ Singapore:
Theo kết quả điều tra gần đây cho thấy có 1 số nhân tố được các nhà đầu tư tại
Việt Nam đánh giá là rất quan trọng.

Theo các nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam là nhân tố quan trọng nhất khi

đầu tư tại Việt Nam. Đối với từng nhà đầu tư cụ thể, như Singapo, tầm quan trọng
tương đối của các nhân tố được đề cập có thể khác nhau, thay đổi tùy theo lĩnh vực đầu
tư, mà Việt Nam cần có những chính sách cũng như biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy
nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nói hung và từ Singapo nói riêng.

12


a. Giải pháp từ phía nhà nước:
 Tăng cường giao lưu văn hóa giữa hai nước, đẩy mạnh các chương trình du lịch văn
hóa. Quan hệ hữu nghị về văn hóa là cơ sở để phát triển quan hệ thương mại. Thông
qua quảng bá văn hóa đưa hình ảnh Việt Nam và con người đến với đất nước
Singapore nói chung và giới đầu tư Singapore nói riêng.
 Tăng cường thành lập những diễn đàn, kênh thông tin dành cho các nhà đầu tư của
cả 2 nước muốn hợp tác kinh doanh với nhau. Đây là nơi các nhà đầu tư có thể tìm
thấy đối tác phù hợp và các doanh nghiệp trong nước có thể quảng bá hình ảnh, kêu
gọi đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất.
 Đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện cơ chế thị trường, tăng cường hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực sự được quốc tế nói chung,
Singapore nói riêng thừa nhận là nền kinh tế thị trường, tạo dựng niềm tin với các nhà
đầu tư, mở ra cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp.
 Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho
vốn đầu tư phát huy hết tiềm năng, hoạt động một cách hiệu quả. Chất lượng cơ sở hạ
tầng và trình độ công nghệ hóa có ảnh hưởng rất quan trọng đến dòng vốn FDI, một hệ
thống cơ sở hoàn chỉnh (bao gồm cả hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng
không, mạng lưới cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tiện ích
khác ) là điều mong muốn đối với mọ nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến
các dịch vụ hỗ trợ cần thiết khác như hệ thống ngân hàng, các công ty kiểm toán, tư
vấn… cũng như hiệu quả hoạt động của các cơ sở công nghiệp địa phương, sự có mặt
của các ngành công nghiệp hỗ trợ, sự tồn tại các đối tác tin cậy để các công ty nước

ngoài có thể liên doanh, là những yêu tố quan trọng cần trú trọng hơn nữa.
 Xây dựng hệ thống chính sách mềm dẻo, hấp dẫn, khuyến khích đầu tư từ
Singapore. Bảo đảm một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định,
một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong
khu vực. Luật hoá, nâng lên mức các quy định của Luật, các chính sách, quyết định của
Chính phủ đã được kiểm nghiệm qua thực tế.Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và
chính sách đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện nguyên tắc không hồi tố để giữ vững
lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư SIngapore. Xử lí linh hoạt trong các trường hợp
đầu tư từ Singapore.
 Phát triển đội ngũ lao động có trình độ. Cần có chính sách đầu tư thích hợp để đầu
tư phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hợp tác đầu tư với nước ngoài ở các địa
phương như việc đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo nghề nhằm đảm bảo cung cấp một
đội ngũ lao động tại chỗ có chất lượng cao.

13


b. Giải pháp từ doanh nghiệp:
 Năng động trong việc tìm kiếm thông tin, nắm bắt cơ hội, chuẩn bị các dự án tốt
nhằm kêu gọi đầu tư thay vì ngồi chờ họ tự tìm đến. Lợi nhuận luôn là động lực của
mỗi hoạt động kinh tế. Khi các doanh nghiệp Việt Nam có thể chứng tỏ dự án của mình
là tốt và đem lại lợi nhuận thì việc thu hút vốn đầu tư đơn giản hơn rất nhiều.
 Có chính sách thu hút nhân tài, bồi dưỡng năng lực của nhân viên. Đây là bước
chuẩn bị cho nguồn nhân lực trong nước có thể thích ứng được với yêu cầu của nhà
đầu tư nước ngoài khi tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có
Singapo đầu tư vào Việt Nam là để khai thác các tiềm năng và lợi thế về chi phí, trong
đó có chi phí về lao động. Việt Nam có lợi thế chi phí lao động thấp là cơ hội để thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, khi giá lao động tăng lên, hoặc trình độ lao
động không đáp ứng được nhu cầu của dự án đầu tư, sẽ làm tăng chi phí đào tạo lao
động từ nhà đầu tư gây ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong nước trở nên kém hấp

dẫn.
 Vẫn còn nhiều thách thức với Việt Nam trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài,
như sản phẩm ít có giá trị gia tăng, kênh phân phối không đồng bộ, khung pháp lý chưa
hoàn chỉnh, thiếu nhân sự cao cấp… Đặc biệt, các báo cáo hoạt động tài chính của
doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu minh bạch, khiến các doanh nghiệp nước ngoài,
doanh nghiệp kiều bào rất khó tìm đối tác khi vào Việt Nam làm ăn. Do vậy để thuc
đẩy cơ hội hợp tác giữa 2 bên, các doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu và minh
bạch thông tin doanh nghiệp trong hồ sơ dự án để tạo niềm tin cho nhà đầu tư
Singapore.

14



×