Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Việc sử dụng vốn FDI và phát triển đầu tư ra nước ngoài của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.81 KB, 37 trang )

Việc sử dụng vốn FDI và phát triển đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam”.

LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc điểm
1.3. Các hình thức FDI
1.3.1 Phân theo bản chất đầu tư
1.3.2 Phân theo bản chất dòng vốn
1.3.3 Phân theo động cơ của nhà đầu tư
1.4. Những nhân tố thúc đẩy FDI
1.5. Lợi ích của việc thu hút FDI
CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ CƠ CẤU NGUỒN VỐN FDI VÀO VIỆT
NAM
2.1. Sức hút và hạn chế
2.1.1 Sức hút
2.1.2 Hạn chế
2.2. Thực trạng
2.3. Đánh giá và giải pháp thực hiện
Chương 3 KẾT LUẬN
1
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Việc sử dụng vốn FDI và phát triển đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ 21 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn cầu,
một thế giới đầy sôi động của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó đã
thúc đẩy nước ta gia nhập vào các tổ chức quốc tế như: WTO (Tổ
chức thương mại quốc tế), OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương)...một loạt các hợp tác, đối tác được ký kết giữa các quốc
gia tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu buôn
bán giữa các nước trong thời kỳ mở cửa. Đây là yếu tố hình thành
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), một nguồn vốn có vai trò
quan trọng thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá của
các nước đang phát triển. Cho đến nay, FDI đã được nhìn nhận như
là một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Theo đánh giá của một số chuyên gia trên thế giới, Việt Nam là
một trong những địa điểm tuyệt vời để đầu tư. Tình hình chính trị ở
Việt Nam tương đối ổn định, có cơ cấu dân số vàng, nền kinh tế
tăng trưởng khá nhanh và đều đặn. Chính nhờ những ưu điểm trên,
ngày càng có nhiều chương trình đầu tư nước ngoài đổ vào Việt
Nam. Trong đó, đầu tư FDI được Chính phủ Việt Nam đánh giá
cao và cố gắng tập trung thu hút nguồn đầu tư này. Bên cạnh đó,
việc phát hiện ra những vụ bê bối trong các dự án ODA gần đây
bắt đầu làm cho vấn đề sử dụng vốn FDI của Việt Nam cũng dần “
nóng” lên, đặc biệt khi vốn đầu tư FDI lại là một trong số những
nguồn lực quan trọng nhất của đất nước. Trước tình hình đó, để có
thể có được một cái nhìn toàn diện về vấn đề này, nhóm chúng tôi

quyết định chọn nghiên cứu đề tài “ ĐÁNH GIÁ CƠ CẤU
NGUỒN VỐN FDI VÀO VIỆT NAM NĂM 2009,2010 VÀ
NỬA ĐẦU NĂM 2011”
Đây không phải là một đề tài mới mẻ, có rất nhiều chuyên gia
đã nghiên cứu và phân tích vấn đề trước nhóm chúng tôi. Do đó,
trên cơ sở nguồn tư liệu thứ cấp đã có sẵn, tham khảo thêm một số
báo, tạp chí, chúng tôi đã rút ra những kết luận chung, tổng hợp
1
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


thêm ý kiến của các thành viên trong nhóm để hoàn thành bài viết
này. Hy vọng bài viết sẽ đem lại cho các bạn một số kiến thức cần
thiết để có cái nhìn khách quan và toàn diện về nền kinh tế Việt
Nam hiện nay nói chung và việc sử dụng FDI nói riêng.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm. Theo Tổ Chức
Thương Mại Thế giới (WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI- Foreign Direct Investment) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Khi đó,
nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản
được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".

Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF (International Monetary
Fund) lại có một định nghĩa khác về FDI: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài FDI (Foreign Direct Investment) là một công cuộc đầu tư ra
khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct
investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sỡ hữu lâu dài một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ( direct investment enterprise) trong
2
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số
cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về FDI nhưng chung quy lại
có thể hiểu: “Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài
đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm
dành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp
sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.”
1.2. Đặc điểm
− Nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các nhà đầu tư.
− Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu
tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và
hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị,
không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
− Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp 1 tỷ lệ vốn tối thiểu
trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định để giành quyền điều hành
hay tham gia điều hành doanh nghiệp nhận đầu tư ( theo Luật đầu
tư nước ngoài của Việt Nam là tối thiểu 30% vốn pháp định của

dự án).
− Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia, cũng như lợi nhuận
và rủi ro được phân chia theo tỷ lệ đóng góp của các bên trong
vốn điều lệ hoặc vốn pháp định.
− Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất
thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
− Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể
tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm
quản lý… là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không
giải quyết được.
− Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban
đầu của chủ đầu dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình
hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển
3
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận
thu được.
1.3. Các hình thức FDI
1.3.1 Phân theo bản chất đầu tư

Đầu tư phương tiện hoạt động: Là hình thức FDI trong
đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh
doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối
lượng đầu tư vào.


Mua lại và sát nhập: Là hình thức FDI trong đó hai hay
nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào
nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước
nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn
FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới
tăng khối lượng đầu tư vào.
1.3.2 Phân theo tính chất dòng vốn

Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua
cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước
phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết
định quản lý của công ty.

Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng
lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu
tư thêm.

Vốn vay nội bộ hay giao dịch nội bộ: Giữa các chi
nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể
cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
của nhau.
1.3.3 Phân theo động cơ của nhà đầu tư

Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp
nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá
thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn
4
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3


Trang


loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương
hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng
còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài
ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên
chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.

Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận
dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá
nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện
nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản
xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v...

Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm
mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh
dành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các
hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu
vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các
thị trường khu vực và toàn cầu.
1.4. Những nhân tố thúc đẩy FDI

Nhu cầu chu chuyển vốn: Chi phí sản xuất của các nước
thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Vì vậy một nước
thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước
thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ
dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm
nhằm tối đa hóa lợi nhuận


Chu kỳ sản phẩm: Đối với hầu hết các doanh nghiệp
tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì sống của các sản phẩm này
bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai
đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản
phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình
cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở
giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các
5
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết
định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp
chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản
xuất thấp hơn.

Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia: Những
công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ
cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước
ngoài. Họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đầu tư ra các
nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị
trường tiêu thụ tiềm năng...

Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại: Đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột
thương mại song phương. Vd: Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước
Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các

nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối
phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường
đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để
giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu
tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị
trường Bắc Mỹ và châu Âu.

Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: Để có nguồn
nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào
những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Vd: Làn sóng đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên
1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có
mục đích tương tự.
1.5. Lợi ích của việc thu hút FDI

Bổ sung nguồn vốn trong nước: Trong các lý luận về
tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa.
6
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn
từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.

Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: Trong một số
trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động
được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên,

công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính
sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước
có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà
các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng
những khoản chi phí lớn.

Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: Khi thu hút FDI
từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của
công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có
quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân
công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ
hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh
xuất khẩu.

Tăng số lượng việc làm và đào tạo công nhân: Vì một
trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt
được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một
bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực
vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê
mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều
trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu
hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ
lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động
thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ
hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.

Nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang
phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp

7
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng.
Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô
Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm
2006.

Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
VIỆT NAM QUA CÁC NĂM

2.1. Sức hút và hạn chế
2.1.1 Sức hút
Có thể nói trong thời gian vừa qua Việt Nam được đánh giá
là một trong những nước có sức hút lớn đối với FDI. Để tạo được
sức hút lớn như vậy phải kể đến những thuận lợi sau:


Môi trường xã hội và chính trị ổn định:

Sự ổn định về chính trị và xã hội là yêu cầu đầu tiên quan
trọng nhất, quyết định đối với việc thu hút đầu tư. Một quốc gia có
môi trường chính trị ổn định thì các nhà đầu tư mới yêu tâm đầu
tư. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có bạo loạn thì
khó có thể bảo toàn vốn cũng như không thể tiến hành sản xuất
kinh doanh để sinh lời.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, nền
chính trị xã hội của nước ta luôn ổn định. Theo đánh giá của các
8
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


nhà đầu tư thế giới thì Việt Nam được coi là nước có sự ổn định về
chính trị và xã hội đặc biệt cao, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo
và sắc tộc. Đó là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển của
kinh tế đối ngoại, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngoài.


Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực:

Cùng với sự ổn định về chính trị-xã hội ,Việt Nam có đường
lối đối ngoại mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa
hướng về xuất khẩu, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài.
Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế”, nước ta đã chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế theo lộ trình thích hợp và thực hiện đúng các cam
kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song phương. Việt Nam đã
là thành viên thứ 7 của ASEAN (Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông
Nam Á) từ ngày 28/7/1995, gia nhập APEC (Diễn đàn Hợp Tác
kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương) tháng 11/1998, là thành viên
đầu tiên của ASEM (Diễn đàn Hợp Tác Á-Âu), và là thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO) từ ngày
7/11/2006. Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với

hơn 170 nước, quan hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng
lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80 quốc gia. Chính việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều
kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.
 Có

những lợi thế so sánh:

Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi: Nằm ở vị trí trung
tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không và hàng
hải trên thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao
thương buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và đứng thứ 7 trong số 15
quốc gia giàu tài nguyên nhất thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam là
nước có dân số đông nên có lực lượng lao động dồi dào (tính đến
ngày 1/4/2009, dân số nước ta đứng thứ 3 Đông Nam Á và thứ 13
9
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


trên thế giới), lao động Việt Nam cần cù sáng tạo trong công việc,
nhân công giá rẻ. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nền kinh tế đang
phát triển với tốc độ tăng GDP ấn tượng trung bình trên 7% trong
suốt từ năm 1988 đến 2008, chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế 2008 nhưng Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng 5.3% có
dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ, dự đoán tốc độ tăng trưởng là 6.5% .
Với những thuận lợi trên Việt Nam được đánh giá là một
trong những điểm đến thật sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư.

2.1.2 Hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi trên vẫn tồn tại những khó khăn
hạn chế việc thu hút đầu tư vào nước ta.
 Nền

kinh tế thị trường còn sơ khai:
Hơn 20 năm qua nền kinh tế của Việt Nam đã thành công
trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn
rất sơ khai.
Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn
hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng
nhái nhãn hiệu làm rối loạn thị trường…).
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì
vướng về thủ tục. Trong khi nhiều ngân hàng thương mại lại không
thể cho vay nên để dư nợ quá hạn đến mức báo động. Thị trường
chứng khoán đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn thiếu “hàng hoá”
để mua bán và chưa được kiểm soát chặt chẽ.
 Trình độ sơ khai của nền kinh tế thị trường của Việt Nam
chưa đủ đảm bảo cho một môi trường đầu tư thuận lợi, chưa thực
sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sự
yếu kém này đang đặt ra thách thức lớn đối với chính sách thu hút
đầu tư của Việt Nam
10
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang



 Năng

lực của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế:

Mối liên kết lỏng lẻo giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế
nội địa là một điểm yếu của nền kinh tế nước ta. Công nghệ phụ
trợ yếu kém, trong nhiều lĩnh vực, để có thể xuất khẩu được thì cần
nhập khẩu tới 70-80% nguyên liệu từ nước ngoài. Các đối tác Việt
Nam phần lớn tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước mà trình
độ năng lực của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế và yếu
kém. Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh Tế Trung
Ương và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản cho thấy phần lớn các
doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức
trung bình của thế giới từ 2 - 3 thế hệ: 80% - 90% công nghệ nước
ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây
chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị
đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh
nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Các hoạt động R&D (Nghiên cứu và
Phát triển) chưa thực sự được các công ty trong nước quan tâm
một cách thích đáng. Phần lớn chỉ giành một phần kinh phí rất hạn
hẹp (dưới 0.2% doanh thu) cho hoạt động này. Công tác nghiên
cứu thị trường còn rất yếu kém.
Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản
phẩm thấp và không ổn định làm hạn chế năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp nội địa (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn
các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%).
 Với quy mô còn nhỏ bé, lại yếu kém về năng lực tổ chức
sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam chưa trở thành

các đối tác thực sự tin cậy và ngang tầm để các nhà đầu tư tin
tưởng đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Mặc khác làm hạn chế tác dụng
lan tỏa của FDI đối với các doanh nghiệp trong nước, tăng chi phí
kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Đây cũng là khó khăn trở
ngại rất lớn mà chúng ta cần phấn đấu để nhanh chóng vượt qua.
 Hệ

thống pháp luật còn nhiều nhược điểm:
11

Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Tính minh bạch, nhất quán và ổn định của của luật pháp là
nhược điểm lớn nhất, đồng thời cũng là đòi hỏi của nhà đầu tư
nước ngoài. Tình trạng không nhất quán và không ổn định của luật
pháp kéo theo những thay đổi khó lường trước đối với doanh
nghiệp và làm cho một số nhà đầu tư không thể thực hiện được
những dự tính ban đầu của mình.
Sự mâu thuẫn và chồng chéo giữa các luật với nhau, giữa
luật và pháp lệnh, nghị định, thông tư đã làm cho các đối tượng thi
hành luật gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng chính là kẽ hở để
các tổ chức và cá nhân lách luật trong các hoạt động không hợp
pháp.
Tình trạng “phép vua thua lệ làng” là khá phổ biến trong
việc một số cơ quan trung ương và chính quyền địa phương tự ý
ban hành các văn bản trái với luật hoặc không thi hành luật.
Hiện tại thì hệ thống luật của Việt Nam còn nhiều mâu thuẫn

và chưa phù hợp với các cam kết quốc tế đã tham gia. Yêu cầu này
đã được đặt ra cách đây nhiều năm song nhiệm vụ sửa đổi này tiến
hành rất chậm so với tiến độ đặt ra.
Một số nhà đầu tư vào thị trường bất động sản cho biết, cùng
một dự án như nhau, nếu như ở Trung Quốc hay Thái Lan chỉ cần
1-2 năm để hoàn tất, thì Việt Nam tốn gấp đôi thời gian vì thủ tục
hành chính rườm rà, phức tạp.
 Cơ

sở hạ tầng yếu kém:

Cơ sở hạ tầng yếu kém, và quá tải là một trong những yếu tố
làm nản lòng các nhà đầu tư.
Tình trạng mất điện đột ngột, không báo trước, hay nhiều
tuyến đường giao thông huyết mạch thường xuyên bị tắc nghẽn,
hàng hóa bị ách tắc ở cảng…là những điều được phản áng nhiều
lần nhưng vẫn không được cải thiện.

12
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Mặc dù hạ tầng cơ sở đã được cải thiện trong những năm
qua nhưng khả năng sẵn có và chất lượng kết cấu của Việt Nam
vẫn dưới mức trung bình trong khu vực.
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài được phỏng vấn đều chỉ
trích hệ thống vận tải nghèo nàn là một trở ngại lớn trong kinh
doanh. Đồng thời họ còn cho biết, chi phí vận tải của Việt Nam còn

cao hơn nhiều so với bình quân chung trong khu vực và hầu hết
các nước quanh vùng. Chẳng hạn giá vận chuyển một Container
40feet từ Việt Nam đi Nhật Bản là 1500 USD, gấp 2 lần so với
Malaysia, cao hơn 500USD so với Philipin, 600USD so với Ấn
Độ, 200USD so với từ Thái Lan.
Khi giá nguyên liệu biến động khó lường, có thể nhiều nhà
đầu tư sẽ phải định vị lại địa điểm đầu tư gần những thị trường tiêu
thụ chính để giảm chi phí vận chuyển, và khi ấy Việt Nam không
thể tận dụng được một số lợi thế có sẵn của mình.
Do đó mà, việc tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng để giảm
chi phí cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp FDI
nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ để thu hút thêm các dự án
FDI mới mà còn để giữ chân các dự án hiện hữu.
 Tình

trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có kĩ năng, lành nghề
vẫn chưa được khắc phục, thậm chí ngày càng rõ rệt, không chỉ ở
các khu kinh tế mới hình thành mà còn ở cả những trung tâm công
nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương…
Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong thời
gian gần đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự
án Đầu tư nước ngoài (ĐTNN), đặc biệt là các dự án lớn đi vào
triển khai thực hiện.
 Công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được
khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác
quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng
vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp
13
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3


Trang


ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương nói
chung và thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng.
Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới tuy đã có dấu hiệu vượt qua
khủng hoảng nhưng sự phục hồi diễn ra chậm, vẫn còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Do đó, vẫn còn có nhiều khó khăn, trở ngại đối với
các nhà đầu tư lớn trong việc triển khai các dự án đầu tư ra nước
ngoài.
Tóm lại, kể từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư Nước
ngoài (1987) thì con đường để các nhà đầu tư vào Việt Nam đã
được khai thông. Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định
trong việc thu hút vốn FDI về tổng số vốn đầu tư, số dự án, số
lượng nhà đầu tư. Nguồn vốn FDI này cũng có tác động rất lớn đến
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn
còn tồn tại nhiều nguyên nhân khiến cho môi trường đầu tư trở nên
kém hấp dẫn. Để tăng cường thu hút vốn FDI Việt Nam cần có
những giải pháp đồng bộ và nhất quán.
2.2. Thực trạng
a. Năm 2008:
Trong hơn 20 năm kể từ khi Việt Nam nỗ lực thu hút FDI thì
năm 2008 có thể xem là điểm nhấn đánh dấu thành công lớn nhất.
Những dự án khổng lồ về quy mô vốn liên tục được phá. Điều này
đã tạo nên góc “sáng” trong bức tranh kinh tế Việt thời kỳ khủng
hoảng. Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký thêm
tổng vốn FDI tại Việt Nam đạt hơn 64,1 tỷ USD gấp 3 lần con số
của năm 2007. Số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng
ký với tổng số vốn tăng thêm đạt 37,4 tỷ USD tương đương với
tổng số vốn đăng ký mới trong một năm của đầu những năm 2000

Một con số khác được nhiều người quan tâm là vốn giải ngân
thì trong năm 2008 vốn giải ngân của các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam cũng đạt mức cao kỷ lục nhất là 11.5 tỷ USD tăng 43,2%
so với năm 2007.
14
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


 Cơ

cấu vốn theo lĩnh vực:

Có thể nói năm 2008 là năm lên ngôi của công nghiệp và xây
dựng với 572 dự án có tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD chiếm
54,12% và chiếm 48,85% về số dự án. Lĩnh vực dịch vụ có 554
dự án với tổng số vốn đăng ký 27,4 tỷ USD chiếm 45,4% và
chiếm 47,3 % về số dự án. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâmngư nghiệp.

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bất chấp sự sụp giảm của thị trường nhà đất và sự rút lui
thông qua con đường sang nhượng dự án của các doanh nghiệp
trong nước, dòng vốn FDI trong năm 2008 đổ vào lĩnh vực này vẫn
tăng vọt.
15
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang



Hãy cùng nhau điểm lại một số dự án tiêu biểu của năm:
+ Dự án khu liên hợp thép Cà Ná tại tỉnh Ninh Thuận được
khởi công ngày 23/11 có công suất 14,42 triệu tấn thép/năm, tổng
vốn đầu tư gần 9,8 tỷ USD đã được báo chí dành sự quan tâm khá
đặc biệt. Bởi số vốn đăng ký của riêng dự án này đã gần bằng tổng
số vốn đăng ký của cả năm 2006 (trên 10 tỷ USD), và xấp xỉ một
nửa con số của năm 2007 (20,3 tỷ USD). Nhưng thép Cà Ná không
phải cá biệt. trong năm 2008 có nhiều dự án siêu lớn với quy mô
hàng tỷ USD đổ vào nước ta như:
+ Dự án Công ty TNHH Thép Vinashin - Lion (Malaysia) có
số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD
+ Dự án Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa của Đài
Loan 7,9 tỷ USD.
+ Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) của Nhật
Bản và Kuwait liên doanh 6,2 tỷ USD.
+ Dự án Công ty TNHH New City Việt Nam 4,3 tỷ USD.
+ Dự án Hồ Tràm của Canada trên 4,2 tỷ USD..
 Cơ

cấu nguồn vốn đầu tư theo đối tác:

Năm 2008, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu
tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký
đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu, với 55 dự án, vốn
đăng ký 14,9 tỷ USD, Đài Loan đứng thứ hai, với 132 dự án, vốn
đầu tư 8,64 tỷ USD. Nhật Bản đứng thứ ba, với 105 dự án, vốn
đầu tư 7,28 tỷ USD.
Mặt tích cực là như vậy thế nhưng bên cạnh nó không lúc
nào là không tiềm tàng mặt trái và hậu quả đi kèm:

Thứ nhất là trong 60,271 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, số
vốn điều lệ chỉ có 15,429 tỷ USD, bằng khoảng 25,6%. Phần còn
lại chủ yếu là đi vay. những dự án mà nhà đầu tư chỉ dựa vào giấy
phép hoặc đất được cấp để vay của các tổ chức tài chính, sau đó
16
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


lẩn tránh hoặc không đủ “lực” thực hiện dự án, đã để lại hậu quả
nặng nề cho các ngân hàng không phải hiếm.
Thứ hai, tỷ lệ giải ngân thấp dần đặc biệt là năm 2008. Con
số 11,5 tỷ USD vốn giải ngân trong năm 2008, tuy đã tăng tới
43,2% so với năm 2007 về giá trị tuyệt đối, nhưng chỉ chiếm gần
18% so với tổng vốn đăng ký. So với giai đoạn trước, tỷ lệ này của
thời kỳ 1988-2005 là 50,3%, của năm 2006 còn 33%, và năm 2007
chỉ còn khoảng 23%.
Thứ ba, khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim
ngạch nhập khẩu rất lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp
đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu tăng rất cao trong năm
2008. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt
24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, nhưng khối doanh nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ
USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối này đã chiếm gần
1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008.
Thứ tư, trái với quan điểm nói rõ ràng của Việt Nam mong
muốn hướng đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực để chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo mục tiêu, nguồn vốn FDI năm 2008 xem ra vẫn
nặng về “bất động sản”. Trong năm 2008, lĩnh vực dịch vụ có 554

dự án với tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD. Nếu xét về tỷ lệ đã
chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký. Một
mức tăng khá mạnh mẽ so với thời gian trước đó.
b. Năm 2009:Bước sang năm 2009, dòng vốn tập trung vào
các ngành dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh bất động sản và lĩnh vực
dịch vụ lưu trú và ăn uống. Số dự án cấp mới ngành dịch vụ năm
2009 đạt 498 dự án với 13,2 tỷ USD (tương ứng chiếm 59,3% và
81,2% tổng số dự án cấp mới và vốn FDI), trong khi ngành công
nghiệp chỉ đạt 325 dự án với 3,0 tỷ USD (tương ứng chiếm 38,7%
và 18,3%)
Do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam cũng chậm lại. Theo báo
17
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


cáo của Cục Đầu Tư nước ngoài, thì dòng vốn FDI trong 6 tháng
đầu năm 2009 đã chững lại. Cả nước chỉ có 306 dự án được cấp
giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng kí 4,7 tỷ USD, chỉ
băng 13,3% cùng kì năm ngoái.
Nhưng thay vào đó, đã có 68 dự án đăng ký tăng vốn với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,1 tỷ USD, tăng tới 13,8% so với
cùng kỳ năm trước, có thể nói các dự án này đã “cứu nguy” cho
việc thu hút FDI trong nửa đầu năm 2009.Tính chung cả cấp mới
và tăng vốn, trong 6 tháng đầu năm 2009, các nhà đầu tư nước
ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 8,87 tỷ USD, cũng chỉ bằng
22,6% so với cùng kỳ 2008.
Với con số quan trọng hơn, vốn giải ngân, mặc dù không

“đuổi kịp” con số cùng kỳ năm 2008, nhưng nếu so với vốn đăng
ký, giải ngân FDI 6 tháng đầu năm 2009 không bị bỏ lại quá xa.
Lượng vốn FDI giải ngân trong nửa đầu năm 2009 đã đạt khoảng 4
tỷ USD, bằng 81,6% cùng kỳ năm 2008, trong đó vốn từ nước
ngoài đạt khoảng 3,3 tỷ USD. Vốn giải ngân tuy “khiêm tốn”
nhưng trên thực tế tỷ lệ giải ngân lại cao, chiếm tới 45% tổng vốn
đăng ký.
Một số dự án đáng chú ý trong năm:
+ Đầu năm 2009, PepsiCo đã đưa vào hoạt động nhà máy sản
xuất tại Bình Dương có công suất 50 triệu lit/năm, với kinh phí đầu
tư 30 triệu USD. Và trong tháng 7 sẽ tiếp tục khai trương nhà máy
sản xuất nước uống tại Cần Thơ.
+ Trong một lĩnh vực khác, trong vòng một tháng, 2 đại siêu
thị nước ngoài đã khai trương. Ngày 9/7, Metro mở cửu siêu thị
thứ 9 ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư 20 triệu euro. Ngày 23/7,
BigC cũng khai trương siêu thị thứ 9 ở Huế với kinh phí đầu tư
300 tỷ đồng.
+ Trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, đầu tháng 7,
Prudential đã giúp cải thiện tình hình nguồn vốn FDI tại Việt Nam
18
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


bằng việc nâng vốn điều lệ từ 370 tỷ đồng lên 615 tỷ đồng. bên
cạnh đó HSBC cũng khai trương chi nhánh tại Bình Dương vào
ngày 1/7, với cam kết sẽ phát triển dài hạn tại thị trường Việt Nam.
HSBC hiện là ngân hàng lớn nhất và tốt nhất tại Việt Nam.
Đến cuối năm 2009, mặc dù khủng hoảng toàn cầu, song Việt

Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài với kế hoạch
là 20 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 30% của năm 2008 nhưng con số
21,48 tỷ USD trong cả năm 2009 vẫn là kết quả đáng khích lệ. Vốn
thực hiện cũng đạt khá, ước đạt 10 tỷ USD bằng 87% so với năm
2008
Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức kỷ lục 71,7 tỉ
USD, số dự án có quy mô vốn đăng ký trên 1 tỉ USD là 11 dự án,
mức vốn đăng ký bình quân một dự án khoảng 65 triệu USD thì
năm 2009, số lượng dự án quy mô trên 1 tỉ USD đã giảm 50%, chỉ
còn 5 dự án, quy mô bình quân 1 dự án cũng chỉ bằng 1/3 của năm
2008, khoảng 25 triệu USD/dự án. Điều này dường như phản ánh
sự thận trọng hơn của các nhà đầu tư khi quyết định đăng ký đầu
tư.
 Cơ

cấu vốn FDI theo lĩnh vực:

Trong đó, dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm số vốn lớn nhất,
với gần 8,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,608
tỷ USD. Tiêu biểu có các dự án lớn như Khu du lịch sinh thái bãi
19
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


biển rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty TNHH thành phố mới
Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai và dự án Công ty TNHH một
thành viên Galileo Investment Group Việt Nam. Các dự án này có
tổng vốn đăng ký lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và 1,68 tỷ

USD.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô lớn thứ 3
với 2,969 tỷ USD vốn đăng ký (theo bảng xếp hạng dự án của Cục
đầu tư nước ngoài).
 Cơ

cấu vốn FDI theo đối tác:

Trong tổng số 43 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam, Hoa Kỳ là nước đầu tư lớn nhất, chiếm 45,6% tổng vốn đầu
tư vào Việt Nam, kế đến là Cayman Islands, Samoa, Hàn Quốc.

20
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


c. Năm 2010:
Theo IMF, năm 2010 nền kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhanh
chóng theo hình chữ V và có thể đạt mức tăng trưởng chung 3,9%
trong năm 2010 (sau khi suy giảm 0,8% trong năm 2009).
Cuối năm 2009, do cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn thế
giới nên một số dự án FDI đã được cấp phép tại Việt Nam bị ảnh
hưởng bởi nguồn vốn từ công ty mẹ. Tuy nhiên, sau một thời gian
tạm ngưng triển khai các dự án đã bắt đầu khởi động trở lại. Tình
hình khả quan được thể hiện rõ trong 6 tháng đầu năm nay. Theo
Cục Đầu tư Nước ngoài , tình hình giải ngân vốn FDI trong 6
tháng đầu năm đạt 5,4 tỷ USD, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ
năm 2009. Bình quân mỗi tháng giải ngân vốn FDI của Việt Nam

đạt khoảng 900 triệu USD.
Tập đoàn Uni-President (Đài Loan) là một ví dụ, sau mấy
tháng trì hoãn, đầu năm 2010 Tập đoàn Uni-President đã khởi
công cụm các nhà máy bột mì, mì ăn liền, thức ăn chăn nuôi thủy
sản và gia súc trên diện tích 13ha tại Khu công nghiệp Điện NamĐiện Ngọc (Quảng Nam). Dự án có tổng vốn đầu tư 140 triệu
USD, dự kiến sẽ đi vào sản xuất vào đầu năm 2011 và cung ứng
cho thị trường trong nước và xuất khẩu 400.000 tấn sản phẩm, tạo
việc làm cho hơn 1.000 lao động.
21
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Dự án thép Guang Lian-Dung Quất với tổng vốn đầu tư 4,5
tỷ USD thuộc Công ty Guang Lian Steel (Đài Loan) đã được Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận cho tăng công suất thiết kế từ 5 lên 7
triệu tấn sản phẩm/năm sau hơn ba năm đình trệ. Ngoài ra, Tập
đoàn Hồng Hải (Foxconn) - một nhà cung cấp dịch vụ sản xuất đồ
điện tử hàng đầu thế giới - cũng đã công bố dự án đầu tư 200 triệu
USD để xây dựng một nhà máy sản xuất điện thoại di động ở miền
Bắc với công suất ước tính là 89 triệu máy/năm.
Không dừng lại ở đó, nhà đầu tư này cũng đang xúc tiến lại
việc triển khai dự án hạ tầng quần thể khu công nghệ cao - đô thị
Tràng Cát, thành phố Hải Phòng thông qua việc hợp tác với một
đối tác trong nước là Công ty cổ phần Phát triển đô thị Kinh Bắc
(KBC). Điều này thể hiện niềm tin, cam kết đầu tư lâu dài của các
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đáng chú ý, nhiều dự án FDI
trong lĩnh vực bất động sản được tích cực triển khai, do thị trường
bất động sản của Việt Nam vẫn hứa hẹn đầy tiềm năng khai thác.

 Vì thế mà, vấn đề đang được quan tâm hiện nay là làm thế
nào để tăng tốc giải ngân có hiệu quả nguồn vốn quan trọng này
trong khi tình hình dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam
ngày càng khả quan hơn.


Cơ cấu vốn FDI theo lĩnh vực:
Top 5 ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010

22
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


Thứ
tự

Ngành

Số Vốn
dự đăng
án ký cấp
cấp mới
mới (triệu
USD)

Vốn
đăng


tăng
thêm
(triệu
USD)

Vốn
đăng
ký cấp
mới và
tăng
thêm
(triệu
USD)
1 KD bất động sản 27 6.710,6 132,1 6.842,7
2 CN chế biến, chế 385 4.032,21.048,9 5.081,2
tạo
3 Sản xuất, phân 6 2.942,9 9,8 2.952,6
phối
điện,khí,nước,đ.hòa
4 Xây dựng
141 1.707,8 26,8 1.734,6
5 Vận tải kho bãi
16 824,1 55 879,1
Trong năm 2010, vốn đăng ký vào lĩnh vực kinh doanh bất
động sản (BĐS) đạt 6.842,7 triệu USD, chiếm 36,8% tổng vốn đầu
tư nước ngoài đăng ký mới của cả nước. Theo bộ Xây dựng, tổng
vốn đăng ký đầu tư tuy có giảm so với năm trước nhưng vẫn có 27
dự án mới được cấp giấy phép, chứng tỏ môi trường đầu tư vào
lĩnh vực BĐS tại Việt Nam tiếp tục hấp dẫn.Tuy nhiên, nếu tính về
số lượng dự án thì ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục

đứng đầu với 385 dự án đăng ký mới. Số dự án tăng vốn khá lớn là
199 dự án với hơn 1 tỷ USD vốn tăng thêm. Như vậy, so với năm
2009, vốn FDI đổ vào công ngiệp chế biến, chế tạo tăng đáng kể cả
về số lượng dự án và tổng vốn đầu tư. Trong năm 2009, số dự án
trong lĩnh vực này là 245 dự án, với tổng vốn đăng ký 2,96 tỷ
USD. Trong số này, gần 750 triệu USD là vốn tăng thêm. Tính luỹ
kế đến tháng 12/2010, lĩnh vực công nghiệp chế biến vẫn tiếp tục
đứng đầu với hơn 7.305 dự án với tổng vốn đầu tư 93,9 tỷ USD.
23
Tài chính quốc tế T03_Nhóm thuyết trình đề tài 3

Trang


×