MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KHÁI QUÁT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA ẤN ĐỘ.................................................8
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.................................................8
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài........................................................8
1.1.2. Quy định chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài........................................14
1.1.3. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài.......................................................17
1.1.4. Các lĩnh vực thường được chọn trong đầu tư trực tiếp nước ngoài..........19
1.1.5. Lợi ích và chi phí của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài....20
1.2. Tổng quan về nền kinh tế Ấn Độ và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của doanh nghiệp Ấn Độ......................................................................................22
1.2.1. Giới thiệu về nền kinh tế Ấn Độ..................................................................22
1.2.2.Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Ấn Độ...................................................................................................................23
1.3. Nghiên cứu tình huống của một số doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài......34
1.3.1. Các doanh nghiệp thất bại trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài...........34
1.3.2. Các doanh nghiệp thành công trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài......35
2.1. Chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của Ấn Độ.............................1
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1992...........................................................................1
2.1.2. Giai đoạn sau năm 1992..............................................................................2
2.2. Chiến lược đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ............................4
2.3. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ.............5
2.3.1. Phân tích hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn
Độ theo khu vực địa lý...........................................................................................5
2.3.2. Phân tích hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn
Độ theo lĩnh vực đầu tư.......................................................................................17
2.3.3. Phân tích hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ theo
hình thức đầu tư..................................................................................................18
2.3.4. Các lợi ích mà doanh nghiệp Ấn Độ có được khi tiến hành đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.......................................................................................................25
2.4. Đánh giá về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ........28
2.4.1. Mặt tích cực...............................................................................................28
2.4.2. Mặt hạn chế...............................................................................................30
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài...............................................................................31
3.2. Tổng quan về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay...............................................................................................................34
3.2.1. Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam......................34
3.2.2. Quy mô của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
.............................................................................................................................36
3.2.4. Khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.......................40
3.2.5. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của doanh nghiệp Việt
Nam trong việc đầu tư ra nước ngoài..................................................................42
3.2.6. So sánh hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam với
doanh nghiệp Ấn Độ............................................................................................45
3.3. Bài học cho Việt Nam và một số giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam
phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài.........................................................50
3.3.1. Bài học cho Việt Nam.................................................................................50
3.3.2. Giải pháp giúp doanh nghiệp Việt Nam phát triển hoạt động đầu tư ra
nước ngoài...........................................................................................................53
KẾT LUẬN.............................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................59
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
FDI Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
OFDI Outward foreign direct investment Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
IMF International Monetary Fund Quĩ tiền tệ quốc tế
OECD
Organization for Economic Co-
operation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
UNCTAD
United Nations Conference on
Trade and Development
Diễn đàn Thương mại và Phát triển
Liên Hợp Quốc
M&A Merge and Acquisition Mua lại và sát nhập
RIS Research and Information Services Dịch vụ nghiên cứu và thông tin
IJV Indian Joint Ventures
Liên doanh của các doanh nghiệp Ấn
Độ
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Thứ tự Nội dung Trang
A. Bảng
Bảng 1 OFDI của Ấn Độ trong giai đoạn 1975-2000 theo khu vực đầu tư
và lĩnh vực đầu tư
25
Bảng 2 Thành phần vốn OFDI của Ấn Độ theo năm tài chính (%) 28
Bảng 3 OFDI của Ấn Độ trong cái nhìn toàn cầu 30
Bảng 4 Sự phân bổ theo khu vực của dòng vốn OFDI của Ấn Độ vào các
nước đang phát triển
42
Bảng 5 Mười bang của Mỹ nhận được đầu tư từ Ấn Độ nhiều nhất trong
những năm 2004-2009
50
Bảng 6 Mười bang của Mỹ nhận được đầu tư từ Ấn Độ nhiều nhất theo
hình thức mua lại và sát nhập trong giai đoạn 2004-2009
52
Bảng 7 OFDI của Ấn Độ trong giai đoạn 1975-2000 theo lĩnh vực đầu tư 53
Bảng 8 IJV ra nước ngoài tính tới năm 1986 theo khu vực địa lý 55
Bảng 9 IJV ra nước ngoài theo tỷ lệ tham gia vốn chủ sở hữu 56
Bảng 10 Ví dụ về động cơ thực hiện mua lại và sát nhập của các doanh
nghiệp Ấn Độ
61
Bảng 11 OFDI của doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép năm 1989
– 2008
74
Bảng 12 OFDI của doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép năm 1989
- 2008 theo ngành kinh tế
76
Bảng 13 OFDI của doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép năm 1989
- 2008 theo đối tác đầu tư chủ yếu
78
B. Biểu đồ
Biểu đồ 1 OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ theo giá trị trong giai đoạn
1992-2007 (triệu USD)
22
Biểu đồ 2 Tỷ trọng OFDI của Ấn Độ trong tổng FDI ra nước ngoài của các
nước đang phát triển (%)
23
Biểu đồ 3 Tỷ trọng đóng góp vào tổng vốn OFDI của các nước đang phát
triển của Ấn Độ và Trung Quốc (%)
31
Biểu đồ 4 Tỷ trọng đóng góp vào tổng vốn đầu tư trong nước của Ấn Độ và
Trung Quốc (%)
32
Biểu đồ 5 Hoạt động mua lại và sát nhập ở nước ngoài của các doanh
nghiệp Ấn Độ trong giai đoạn 2000-2007 theo số vụ
57
Biểu đồ 6 Hoạt động mua lại và sát nhập ở nước ngoài của các doanh
nghiệp Ấn Độ trong giai đoạn 2000-2007 theo giá trị (triệu USD)
58
Biểu đồ 7 Hoạt động mua lại và sát nhập của Ấn Độ ở nước ngoài theo khu
vực địa lý (số vụ)
59
Biểu đồ 8 Hoạt động mua lại và sát nhập ở nước ngoài của các doanh
nghiệp Ấn Độ theo lĩnh vực đầu tư
60
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa đã và đang diễn ra một cách hết sức mạnh mẽ. Một trong
những xu thế tất yếu trong quá trình đó là đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài
mang lại lợi ích cho cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. Để thực hiện đầu tư ra
nước ngoài, nước chủ đầu tư cần phải có đủ tiềm lực về tài chính cũng như công
nghệ. Vì vậy, ở giai đoạn đầu của quá trình toàn cầu hóa, nước chủ đầu tư thông
thường là những nước phát triển, còn nước nhận đầu tư đa phần là nước đang phát
triển bởi những nước này có lợi thế chi phí nhân công và giá nguyên vật liệu rẻ. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, dường như xu hướng đó không còn tồn tại bởi lẽ
các doanh nghiệp của các nước đang phát triển trở nên năng động trong việc tìm kiếm
thị trường nước ngoài và những lợi thế mà họ không thể t́m thấy ở trong nước. Vì lý
do đó mà các dòng vốn đầu tư trực tiếp từ các nước đang phát triển ra bên ngoài ngày
một tăng mạnh và đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế của các
nước này, trong đó Ấn Độ là một trong những ví dụ điển hình. Ấn Độ ban đầu cũng
là nước thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, một giai đoạn sau dòng vốn đầu tư chảy
ra nước ngoài của nước này tăng lên một cách đáng kinh ngạc.
Việt Nam cũng được hưởng lợi rất nhiều từ việc toàn cầu hóa. Trong đó, dòng
vốn FDI chảy vào Việt Nam ngày một tăng. Tuy nhiên, theo xu thế chung của thế
giới, doanh nghiệp Việt nam cũng bắt đầu tìm đường để đầu tư ra nước ngoài. Vấn đề
đặt ra là làm sao để doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư ra nước ngoài một cách
hiệu quả nhất.
Ấn Độ cũng xuất phát từ một nước đang phát triển và là nước đi trước Việt Nam
trong việc đầu tư ra nước ngoài. Việc học hỏi kinh nghiệm về thành công cũng như
thất bại của doanh nghiệp Ấn Độ trong việc đầu tư ra nước ngoài có thể giúp doanh
nghiệp Việt nam đầu tư ra nước ngoài hiệu quả hơn
Vì những lý do nêu trên, người viết quyết định chọn đề tài: “Thực trạng đầu tư ra
nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ và bài học cho doanh nghiệp Việt Nam.” làm
đề tài khóa luận của mình
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận có những mục tiêu nghiên cứu sau đây:
- Phân tích thực trạng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ trong đó
có sự phân tích tổng quan và chi tiết theo khu vực địa lý và theo lĩnh vực đầu tư,
đồng thời cũng đề cập đến hình thức và động cơ đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp Ấn Độ. Từ đó đánh giá mặt tích cực cũng như mặt còn hạn chế của hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ.
- Đánh giá đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, so sánh với hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài. Học hỏi
kinh nghiệm của Ấn Độ, rút ra bài học giá trị cho doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
3.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận, bao gồm:
+ Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ
+ Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận:
+ Về nội dung: Đề tài được triển khai dựa trên việc phân tích các hoạt động đầu
tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ
+ Về thời gian: Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ từ khi
doanh nghiệp Ấn Độ bắt đầu đầu tư ra nước ngoài (từ đầu những năm 1960)
+ Về không gian: Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ tại
các châu lục như châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, châu Đại Dương bằng cách
tách thành hai khu vực: Khu vực các nước đang phát triển và khu vực các nước phát
triển.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận có sử dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên phép duy vật biện
chứng lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Kết hợp cơ sở lý luận với việc sử dụng
thông tin thứ cấp và các phương pháp so sánh và thống kê để làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái quát về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Ấn Độ
Chương 2: Phân tích hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ
Chương 3: Bài học cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện hoạt động
đầu tư ra nước ngoài
Do sự hạn chế về kiến thức cũng như thời gian nên nội dung của khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót, người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của thầy cô và các bạn để bài khóa luận được hoàn thiện hơn. Người viết xin gửi lời
cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Minh- Giáo viên hướng dẫn đã chỉ
bảo tận tình trong suốt thời gian làm khóa luận, giúp người viết hoàn thành bài khóa
luận này một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
KHÁI QUÁT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA ẤN ĐỘ
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI xuất hiện khi một nhà đầu tư ở một nước mua tài sản có ở một nước khác
với ý định quản lý nó. Theo các chuẩn mực của Quĩ tiền tệ thế giới IMF và tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế OECD, FDI được định nghĩa bằng một khái niệm rộng
hơn.
Theo IMF: FDI nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp
hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục
đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. [IMF’s fifth
edition of the Balance of Payments Manual (BPM5) 1993, trang 86]
Phân tích khái niệm:
- Lợi ích lâu dài: Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư
thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có
một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp
đồng thời có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
- Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp: Quyền kiểm soát nói đến ở đây chính
là quyền kiểm soát doanh nghiệp. Quyền kiểm soát doanh nghiệp là quyền tham gia
vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua phê chuẩn kế
hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập ra, quyết định
việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn góp giữa các bên, tức là
những quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống còn của doanh nghiệp.
Theo OECD: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện nhằm thiết lập các
mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư
mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng
cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; (iii) Tham
gia vào một doanh nghiệp mới; (iv) Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm). [The forth
edition of the OECD Detailed Benchmark Definition of Foreign Direct Investment
2008, trang 48-49]
Hai định nghĩa trên nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của
một chủ đầu tư cư trú tại một nước, được gọi là nhà đầu tư trực tiếp thông qua một
chủ thể cư trú khác, gọi là doanh nghiêp nhận đầu tư trực tiếp. Mục tiêu lợi ích dài
hạn đòi hỏi phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp
nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời nhà đầu tư có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối
với việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam
đã thông qua các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”,
“đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy
nhiên, có thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu: “FDI là hình thức đầu tư
do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt
Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư
ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”.
Như vậy, muốn hiểu rõ về FDI ở Việt Nam cần xem xét các qui định trong
Luật Đầu tư Việt Nam.Về bản chất, luật này cũng thống nhất cách hiểu về FDI như
cách hiểu thông dụng trên thế giới.
Tóm lại có thể hiểu FDI là một hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư của một
nước đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác nhằm
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó.
Dòng vốn FDI (FDI flows) của một nước trong một năm bao gồm: dòng vốn
FDI vào (Inward Foreign Direct Investment- IFDI) và FDI ra (Outward Foreign
Direct Investment- OFDI) của nước đó trong một năm. IFDI là vốn đầu tư trực tiếp
mà các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước đó. Còn OFDI là vốn đầu tư trực tiếp
mà các nhà đầu tư của nước đó đem ra nước ngoài đầu tư. Như vậy, FDI có thể hiểu
theo hai nghĩa: FDI vào (người nước ngoài nắm quyền kiểm soát các tài sản của một
nước A) hoặc FDI ra (các nhà đầu tư nước A nắm quyền kiểm soát các tài sản ở nước
ngoài).
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI có những đặc điểm chính sau đây:
- Tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là
tìm kiếm lợi nhuận: Theo cách phân loại FDI của UNCTAD, IMF và OECD, FDI là
đầu tư tư nhân. Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi
nhuận. Các nước nhận đâu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi
tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và
các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư phải đóng góp một tỷ lệ tối thiểu trong vốn pháp định hoặc
vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc
tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định không
giống nhau về vấn đề này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%,
còn tại Việt Nam, trước kia theo Luật đầu tư 1996 thì tỷ lệ này là 30%, tuy nhiên theo
Luật đầu tư 2005, Việt Nam không còn quy định vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước
ngoài nữa, còn theo quy định của OECD thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường
hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp- mức được công nhận cho phép nhà đầu tư
nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia
dựa vào tỷ lệ này. Theo luật đầu tư của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các
bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với
phần vốn góp vào vốn pháp định của liên doanh.
- Thu nhập của nhà đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, do
đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính
khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại
gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp cận được công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông của Việt
Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ chuyển giao công nghệ
từ nước ngoài.
Tóm lại:
- Đặc điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm
soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định
và hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà đầu tư trực tiếp
sử dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư
khác nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó, mức độ ổn định
của dòng vốn đâu tư đối với nước nhận đầu tư cao hơn. Nhược điểm là nước nhận
đầu tư bị phụ thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư, lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai
thác nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu
tư, tranh thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, hình thức này mang
tính rủi ro cao vì anh ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư
chịu sự điều chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển
nhượng vốn.
c. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư
Nước chủ đầu tư là nước có các doanh nghiệp đem vốn từ trong nước ra thị
trường nước ngoài đầu tư nhằm đạt được mục đích nhất định. Cơ hội và lợi ích luôn
tồn tại song song với thách thức và chi phí. Vì vậy, hoạt động OFDI vừa có tác động
tích cực, vừa có tác động tiêu cực tới nước chủ đầu tư.
+ Tác động tích cực
Thứ nhất, OFDI giúp nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế và
nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Thực hiện OFDI khẳng định khả năng kinh tế của
nước đi đầu tư thể hiện ở khả năng tài chính, trình độ quản lý, trình độ phát triển công
nghệ và sự am hiểu thị trường thế giới… Vì vậy mà hoạt động OFDI khẳng định sức
mạnh của nước đi đầu tư. Qua đó làm tăng ảnh hưởng của nước này trên thế giới
bằng khả năng chi phối nước nhận đầu tư hoặc khu vực nhận đầu tư. Nhờ vậy, uy tín
của nước đầu tư tăng lên và có tiếng nói trên trường quốc tế hơn. Cũng chính vì thế
mà OFDI là một xu thế tất yếu của tiến trình toàn cầu hóa và trong chiến lược phát
triển kinh tế dài hạn của các nước trên thế giới.
Thứ hai, OFDI giúp nước đầu tư sử dụng được lợi thế của nước tiếp nhận vốn
để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tỷ suất lợi nhuận, khắc phục được
tình trạng dư thừa nguồn lực. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế và yếu thế tương đối
so với các quốc gia khác. OFDI giúp cho nước đầu tư vừa tận dụng được nguồn lực
dư thừa của nước nhận đầu tư với chi phí rẻ, vừa giải quyết được bài toán dư thừa
nguồn lực tại nước đi đầu tư. Qua đó góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và tỷ
suất lợi nhuận.
Thứ ba, OFDI giúp nước đi đầu tư mở rộng thị trường, đồng thời khắc phục
tình trạng lão hóa sản phẩm. Điểm đến đầu tư của các nước đi đầu tư ngoài các khu
vực có nguồn lực dồi dào với chi phí nguyên vật liệu và nhân công rẻ, thì thông
thường là những khu vực có dân số đông, nhu cầu lớn, để chủ đầu tư dễ tiêu thụ sản
phẩm. Mặt khác, khi tại nước chủ đầu tư, nhu cầu đã bão hòa hoặc sức cạnh tranh nội
địa mạnh, thì OFDI là một trong những cách hữu hiệu để giải quyết bài toán thị
trường. Ngoài ra, khi thực hiện OFDI, nước chủ đầu tư có thể tận dụng để kéo dài
vòng đời sản phẩm. Tại nước đầu tư, sản phẩm có thể đã bão hòa hoặc đi vào suy
thoái nhưng đối với nước nhận đầu tư, có thể sản phẩm đó mới ở giai đoạn thâm nhập
thị trường hoặc chín muồi. Qua đó, có thể tiết kiệm được chi phí phát triển sản phẩm
mới.
Thứ tư, nước chủ đầu tư có thể tìm kiếm nguồn cung cấp nhiên nguyên liệu ổn
định. Nước nhận đầu tư mà là nước đang phát triển thì thông thường có nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào, nhưng lại thiếu khả năng khai thác cũng như chế biến.
Với nước chủ đầu tư, đây là cơ hội tốt để có được nguồn nguyên nhiên liệu bằng cách
đầu tư hỗ trợ các nước nhận đầu tư khai thác bằng khả năng vượt trội về trình độ
công nghệ và kỹ thuật.
Thứ năm, nước chủ đầu tư có thể học hỏi công nghệ, thay đổi cơ cấu sản phẩm
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Gần đây, xu hướng dòng vốn OFDI chảy từ nước
đang phát triển sang nước phát triển ngày càng rõ rệt. Trong trường hợp này, nước
đầu tư là những nước đang phát triển với trình độ công nghệ thấp hơn nhưng lại có
lợi thế về chi phí rẻ (như chi phí quản lý, lao động…), hoặc tận dụng lợi thế quyền sở
hữu để đầu tư vào các nước phát triển có trình độ công nghệ phát triển cao hơn nhằm
học hỏi và tiếp thu kiến thức về khoa học kỹ thuật ở những nước này. Qua đó có thể
nâng cao trình độ để có thể nâng cấp cơ cấu sản phẩm bằng cách sử dụng công nghệ
sản xuất cao hơn. Vì vậy, có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trong chiến lược phát
triển dài hạn của mình.
+ Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, hoạt động OFDI cũng có tác động tiêu cực tới
nước chủ đầu tư.
Thứ nhất, OFDI khiến nước chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc quản lý vốn và
công nghệ. Mặc dù khi thực hiện OFDI, các doanh nghiệp từ nước đầu tư sẽ nhận
được nhiều lợi ích, song trên tầm vĩ mô, nếu kinh tế trong nước chưa phát triển mà
các doanh nghiệp có tiềm lực lại có xu hướng thực hiện OFDI nhằm vào mục đích
riêng của mình thì rõ ràng sẽ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế của toàn bộ nước
đầu tư. Do vậy, đòi hỏi nước chủ đầu tư phải quản lý tốt nguồn vốn OFDI nhằm vừa
cân đối giữa việc phát triển kinh doanh ở nước ngoài và phát triển kinh tế trong nước.
Ngoài ra, khi thực hiện OFDI đồng nghĩa với việc mang công nghệ ra nước ngoài.
Khi đó, nảy sinh rủi ro đánh mất bản quyền công nghệ trong nước. Do đó, đòi hỏi
nước đầu tư phải quản lý công nghệ chặt chẽ.
Thứ hai, OFDI đồng nghĩa với việc nhà đầu tư phải chuyển đổi tiền đầu tư
thành tiền của nước nhận đầu tư. Rủi ro ở đây là sự thiếu ổn định của đồng tiền nước
nhận đầu tư, khi đem vốn ra nước ngoài nếu đồng tiền nước nhận đầu tư xuống giá
thì sẽ là một lợi thế cho nước đi đầu tư, còn nếu đồng tiền nước nhận đầu tư lên giá
thì đó sẽ là một thiệt hại cho các nhà đầu tư khi giá trị vốn đi đầu tư tính theo đồng
tiền nước nhận đầu tư sẽ giảm xuống. Và ngược lại khi nhà đầu tư chuyển vốn hay lợi
nhuận về nước.
Thứ ba, OFDI đồng nghĩa với một dòng tiền chảy ra khỏi nước đầu tư. Như
vậy, rõ ràng cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ đầu tư sẽ bị thâm hụt.
Thứ tư, OFDI tức là mang một phần nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Nếu
nguồn lực đó được đầu tư trong nước thì sẽ tạo được công ăn việc làm cho người lao
động trong nước. Do vậy, khi thực hiện OFDI, cũng có nghĩa nước đầu tư chấp nhận
một phần nhất định việc làm được chuyển ra nước ngoài, và làm tăng tương đối tình
trạng thất nghiệp trong nước.
1.1.2. Quy định chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngày nay, ranh giới giữa các quốc gia không còn là rào cản đối với đầu tư và
thương mại. Các nước đều trở nên phụ thuộc lẫn nhau vì sự phát triển của chính
mình. FDI là một trong những nguồn lực lớn hỗ trợ phát triển cho nước nhận đầu tư
đồng thời nước chủ đầu tư cũng nhận được lợi ích không nhỏ từ việc đầu tư ra nước
ngoài. Trong khi các nước nhận đầu tư mong muốn thu hút thêm nhiều vốn FDI thì
các nhà đầu tư lại cần các khoản đầu tư của mình được đảm bảo. Chính vì vậy, đã có
rất nhiều các quy định chung về đầu tư nước ngoài ra đời nhằm thỏa mãn cả hai bên.
Do rất khó để có thể đưa ra được quy định chung cho nhiều bên, nên hầu hết
các quy định mang tính chất quốc tế về đầu tư nước ngoài đều là các hiệp ước song
phương. Theo như một báo cáo của Diễn đàn Liên hợp quốc về thương mại và phát
triển (UNCTAD), hiện tại có tổng số 2265 hiệp ước đầu tư song phương liên quan tới
khoảng 176 nước và vùng lãnh thổ. Do nhu cầu về tự do hóa kinh tế nhằm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, ngày càng có nhiều nước tham gia vào các hiệp ước đầu tư
song phương hơn.
Với mỗi hiệp ước đầu tư song phương, hai chủ thể của hiệp ước sẽ thống nhất
những quy định về đầu tư giữa hai bên. Do đó, có thể nói rất khó có sự trùng khớp
giữa các hiệp ước về các quy định đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có những quy định
phổ biến và thường được đề cập đến trong các hiệp ước. Đó có thể coi là những điều
kiện tiên quyết để đi đến hiệp ước giữa hai bên được thành lập. Những điều kiện
chung đó là:
a. Đảm bảo thúc đẩy và bảo vệ hoạt động đầu tư
Đây là quy định cơ bản nhất bởi nó xuất phát từ nhu cầu cơ bản của nước nhận
đầu tư và chủ đầu tư. Nhà đầu tư cần được đảm bảo rằng các khoản đầu tư của họ sẽ
được bảo vệ một cách tuyệt đối. Nếu thiếu sự đảm này, chắc chắn chủ đầu tư sẽ
không mạo hiểm đầu tư. Nước nhận đầu tư phải đảm bảo họ không sử dụng vũ lực để
làm tổn hại tới tài sản của nhà đầu tư và cam kết bảo vệ tuyệt đối trước bất cứ một
hành động bạo lực trong nước nào. Quy định này càng trở nên quan trọng hơn tại
những nước thế giới thứ ba bởi tại những nước này, thị trường rất rộng lớn, khó quản
lý, đồng thời an ninh không ổn định.
b. Đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia
Hiệp ước đầu tư song phương đảm bảo một nhà đầu tư nước ngoài bị đối xử
không kém ưu đãi hơn so với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài khác.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nước ký kết cho phép các nhà đầu tư được
hưởng lợi từ những ưu đãi hay đặc quyền đã được quy định trong các tập quán đang
hoặc sẽ có; các thỏa thuận quốc tế tương tự; các quy tắc quốc tế khác liên quan hoàn
toàn hoặc chủ yếu tới thuế; hoặc các quy định trong nước liên quan hoàn toàn hoặc
chủ yếu tới thuế.
c. Quy định về chiếm đoạt và đền bù thiệt hại
Hiệp ước đầu tư song phương quy định rằng các khoản đầu tư của các nhà đầu
tư không bị nước ký kết quốc hữu hóa, chiếm đoạt hoặc bị chịu những hành động
tương đương với quốc hữu hóa hoặc chiếm đoạt theo luật của nước chủ đầu tư. Tuy
nhiên, hiệp ước cũng quy định trong trường hợp vì mục đích công như an ninh quốc
phòng…, nước nhận đầu tư có thể quốc hữu hóa hoặc chiếm đoạt tài sản của nhà đầu
tư nước ngoài nhưng phải đền bù cho nhà đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc
không phân biệt đối xử, đúng với giá trị của khoản đầu tư mà không có bất cứ sự
chậm trễ bất hợp lý nào. Giá trị của khoản đầu tư phải được định giá một cách công
bằng bởi tòa án hoặc một cơ quan độc lập có thẩm quyền trong một khoảng thời gian
hợp lý.
Trong trường hợp tài sản của nhà đầu tư vô tình bị thiệt hại do chiến tranh hoặc
bạo loạn, nước nhận đầu tư phải có trách nhiệm bồi thường theo nguyên tắc không
phân biệt đối xử.
d. Quy định về việc chuyển vốn đầu tư và lợi nhuận về nước
Đầu tư nước ngoài luôn luôn đi kèm với việc chuyển vốn đầu tư và lợi nhuận
về nước. Bất cứ một điều luật hay hành động nào ngăn cản nhà đầu tư chuyển vốn và
lợi nhuận về nước đều có tác động tiêu cực tới hiệu quả hoạt động đầu tư và thu hút
đầu tư. Trong các hiệp định đầu tư song phương thường cho phép nhà đầu tư chuyển
không giới hạn vốn và lợi nhuận về nước bằng đồng tiền tự do chuyển đối và ở tỷ giá
hối đoái tại ngày chuyển.
e. Quy định về giải quyết tranh chấp giữa chủ đầu tư và nước nhận đầu tư
Trong kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng thì tranh chấp là điều
không thể tránh khỏi. Đặc biệt là trong đầu tư nước ngoài, khi các bên đến từ các nền
văn hóa, tập quán, hệ thống luật pháp khác nhau, ắt sẽ có rất nhiều hiểu lầm dẫn đến
tranh chấp. Chính vì vậy, ngay từ 14/10/1966 hiệp ước về giải quyết tranh chấp đầu
tư giữa các nước đã được thiết lập. Theo như hiệp ước này, một trung tâm trọng tài
quốc tế để giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã được thành lập để hòa giải và giải
quyết các vụ tranh chấp giữa các nước ký kết.
Việc thực hiện giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả và công tâm bằng một
tòa án độc lập và trung lập làm an tâm nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể tiếp cận tòa án
này mà không gặp bất cứ một trở ngại chính trị nào. Với một tòa án trung lập, việc
xét xử sẽ nhanh chóng hơn và giúp nhà đầu tư tiết kiệm được nhiều thời gian hơn.
1.1.3. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tùy theo từng tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại FDI thành những hình
thức khác nhau. Thông thường ta chia theo bốn tiêu chí sau:
a. Theo hình thức xâm nhập
Theo tiêu chí này FDI được chia thành hai hình thức:
+ Đầu tư mới: chủ đầu tư nước ngoài góp vốn để xây dựng một cơ sở sản xuất,
kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư. Hình thức này có khả năng tăng thêm vốn, tạo
thêm việc làm và giá trị gia tăng cho nước nhận đầu tư nên rất được các nước nhận
đầu tư ưa chuộng.
+ Mua lại và sát nhập: Chủ đầu tư nước ngoài mua lại hoặc sát nhập một cơ sở
sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước nhận đầu tư. Theo Luật Đầu tư 2005 được Quốc
hội Việt Nam thông qua tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2005, “Sáp nhập (merge) doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập; Mua lại
(acquisition) doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề
của doanh nghiệp bị mua lại”. FDI chủ yếu diễn ra dưới hình thức mua lại. M&A
được nhiều chủ đầu tư ưa chuộng hơn hình thức đầu tư mới vì chi phí đầu tư thường
thấp hơn và cho phép chủ đầu tư tiếp cận thị trường nhanh hơn.
b. Theo quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu
tư
Theo tiêu chí này FDI được chia thành 3 hình thức:
+ FDI theo chiều dọc (vertical FDI): nhằm khai thác tài nguyên, nhiên vật liệu
(Backward vertical FDI) hoặc để gần gũi người tiêu dùng hơn thông qua việc mua lại
các kênh phân phối của các nước nhận đầu tư (Forward vertical FDI). Như vậy doanh
nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư nằm trong cùng một dây chuyền sản
xuất và phân phối sản phẩm cuối cùng.
+ FDI theo chiều ngang (horizontal FDI): hoạt động FDI được tiến hành nhằm
tiến hành sản xuất cùng loại sản phẩm hoặc các sản phẩm tương tự chủ đầu tư đã sản
xuất ở nước chủ đầu tư. Như vậy, yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của
hình thức FDI này chính là sự khác biệt của sản phẩm. Thông thường FDI theo chiều
ngang được tiến hành nhằm tận dụng các lợi thế độc quyền hoặc độc quyền nhóm,
đặc biệt là khi việc phát triển ở thị trường trong nước vi phạm luật chống độc quyền.
+ FDI hỗn hợp (conglomerate FDI): doanh nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp
tiếp nhận đầu tư hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
c. Theo định hướng của nước nhận đầu tư
Theo tiêu chí này FDI được chia thành 3 hình thức:
+ FDI thay thế nhập khẩu: hoạt động FDI được tiến hành nhằm sản xuất và
cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây nước này phải
nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều đến hình thức FDI này là dung lượng thị
trường, các rào cản thương mại của các nước nhận đầu tư và chi phí vận tải;
+ FDI tăng cường xuất khẩu: thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm tới
không phải chỉ dừng lại ở các nước nhận đầu tư mà là các thị trường rộng lớn hơn
trên toàn thế giới và có thể có cả thị trường ở nước chủ đầu tư. Các yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng các yếu tố
đầu vào với giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên vật liệu, bán thành phẩm.
+ FDI theo định hướng khác của chính phủ: chính phủ các nước nhận đầu tư
có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư để điều chỉnh dòng vốn FDI chảy
vào nước mình theo đúng ý đồ của mình, ví dụ như tăng cường thu hút FDI để giải
quyết tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
d. Theo nhân tố bị tác động trong quá trình đầu tư
Theo hình thức này FDI được chia thành 2 hình thức:
+ FDI phát triển (expansionary FDI): nhằm khai thác lợi thế về quyền sở hữu
của doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư. Hình thức này giúp chủ đầu tư tăng lợi nhuận
bằng cách tăng doanh thu nhờ mở rộng thị trường ra nước ngoài.
+ FDI phòng ngự (defensive FDI): nhằm khai thác nguồn lao động rẻ ở các
nước nhận đầu tư với mục đích giảm chi phí sản xuất và như vậy lợi nhuận của các
chủ đầu tư cũng sẽ tăng lên.
1.1.4. Các lĩnh vực thường được chọn trong đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kể từ khi đầu tư nước ngoài trở thành một trong những phương thức để các
nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, lĩnh vực được ưu tiên đầu tư cũng thay đổi
cho phù hợp với mục đích của các nước đi đầu tư.
Trong giai đoạn đầu, các nhà đầu tư ra nước ngoài chủ yếu là từ các nước phát
triển và đầu tư vào những ngành sử dụng công nghệ thấp, hay nói cách khác gần như
chỉ tập trung đầu tư vào khu vực kinh tế thứ hai (ngành công nghiệp), ví dụ như dệt
may, chế biến gỗ, bột gỗ, các sản phẩm tiêu dùng…. Cũng trong giai đoạn này, các
nhà đầu tư chủ yếu là từ những nền kinh tế phát triển đầu tư sang các nền kinh tế
đang phát triển nhằm tận dụng nguồn lao động giá rẻ và chi phí nguyên vật liệu thấp.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và mức độ tăng lên của toàn cầu hóa, các
công ty tại nước chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận với thị trường ngoài nước. Vì vậy mà
lĩnh vực đầu tư cũng trở nên phong phú hơn. Không chỉ dừng lại ở những ngành sản
xuất vật chất cơ bản và ngành công nghiệp, các chủ đầu tư mở rộng đầu tư sang
ngành dịch vụ nhiều hơn. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ của nước chủ đầu tư được
nâng cao, nên lĩnh vực mà họ đầu tư cũng hàm chứa chất xám nhiều hơn.
Toàn cầu hóa đi kèm với xu hướng xuất hiện nhiều nhà đầu tư từ những nước
đang phát triển mà điển hình là Ấn Độ và Trung Quốc. Đối với các nhà đầu tư này,
ban đầu lĩnh vực đầu tư ưa thích của họ cũng là ngành yêu cầu công nghệ thấp, nhưng
sau đó với mục tiêu đạt được tài sản chiến lược, họ cũng dần chuyển sang các lĩnh
vực công nghệ cao để tiếp thu được trình độ công nghệ.
Trong khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, một xu hướng mới nổi lên trong
OFDI là tập trung vào lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Với sự phát triển
chóng mặt của kinh tế, nhiều nước đang phải đối diện với thực tế cạn kiệt nguồn
nguyên nhiên liệu. Bên cạnh việc tìm nguồn nguyên liệu thay thế ở trong nước, một
giải pháp hữu hiệu khác để giải quyết vấn đề trên là đầu tư khai thác nguồn tài
nguyên của các nước nghèo có trình độ khai thác và chế biến kém phát triển. Những
nước đi đầu trong xu hướng này thường là những nước phát triển như Mỹ, Nhật,
Anh… hay những nền kinh tế mới nổi, có tốc độ kinh tế nhanh như Trung Quốc, Ấn
Độ…
Ngoài ra, phải kể đến những lĩnh vực mà các nhà đầu tư khó có thể tiếp cận
được. Đó thông thường là những lĩnh vực liên quan tới an ninh quốc phòng
1.1.5. Lợi ích và chi phí của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
a. Lợi ích
Khi thực hiện OFDI, doanh nghiệp có thể đạt được những lợi ích sau đây:
Thứ nhất, tiến hành OFDI, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm được thị trường
của nước nhận đầu tư để từ đó tạo bàn đạp thâm nhập vào thị trường của khu vực lân
cận.
Thứ hai, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm được nguồn nguyên nhiên liệu rẻ, ổn
định; chi phí lao động thấp.
Thứ ba, tiến hành OFDI, các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực dư thừa một cách
có hiệu quả, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn.
Thứ tư, OFDI giúp các doanh nghiệp tránh được các rào cản thương mại mà các
doanh nghiệp này vấp phải nếu thâm nhập vào thị trường nước ngoài bằng hình thức
xuất nhập khẩu.
Thứ năm, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ mang vòng đời quốc tế thay vì quốc
gia. Khi đó vòng đời sản phẩm sẽ kéo dài hơn và doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi
phí nghiên cứu, cải tiến mẫu mã sản phẩm.
Thứ sáu, OFDI giúp các doanh nghiệp học hỏi được trình độ công nghệ của các
nước tiên tiến, nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
b. Chi phí
Mặc dù khi thực hiện OFDI các doanh nghiệp có được rất nhiều lợi ích nhưng
cũng gặp không ít những khó khăn:
Thứ nhất, khi thực hiện OFDI, do không quen môi trường kinh doanh bao gồm
văn hóa, tập quán, hệ thống pháp luật, các nhà đầu tư hoàn toàn có thể thất bại hoặc
gặp khó khăn trong việc triển khai hoạt động đầu tư.
Thứ hai, rủi ro về tính an toàn của môi trường kinh doanh (chiến tranh, bạo
loạn…) có thể dẫn tới tài sản của nhà đầu tư ở nước ngoài bị thiệt hại.
Thứ ba, một doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài phải trả
những chi phí phụ trội (gọi là chi phí hoạt động ở nước ngoài) so với đối thủ cạnh
tranh nội địa nước đó. Chi phí phụ trội này có thể là do: sự khác biệt về văn hóa, luật
pháp thể chế và ngôn ngữ; thiếu hiểu biết về các điều kiện thị trường nội địa; chi phí
thông tin liên lạc và hoạt động cao hơn do sự cách biệt về địa lý.
Thứ tư, các doanh nghiệp thực hiện OFDI thường tận dụng lợi thế nội bộ hóa
để khắc phục những rào cản, rủi ro do sự không hoàn hảo của thị trường bên ngoài
gây ra (rào cản thuế quan và phi thuế quan, biến động bất thường của thị trường hàng
hóa bên ngoài,…). Tuy nhiên, để thực hiện được lợi thế nội bộ hóa, doanh nghiệp
cũng phải trả những chi phí nhất định cho quá trình liên kết liên doanh. Một trong
những chi phí quan trọng nhất đó là chi phí quản lý, nghĩa là chi phí điều hành một
doanh nghiệp lớn với nhiều công ty thành viên hợp tác trong cùng ngành hoặc trong
các ngành có tính chất bạn hàng của nhau, các doanh nghiệp này có thị trường nội bộ
rất phức tạp về hàng hóa, dịch vụ và các tài sản vô hình. Ngoài ra, việc liên kết kinh
doanh trên toàn cầu đòi hỏi các nguồn tài chính khổng lồ mà có thể không có sẵn đối
với doanh nghiệp hoặc chỉ sẵn có với chi phí cao hơn so với các hình thức khác.
1.2. Tổng quan về nền kinh tế Ấn Độ và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Ấn Độ
1.2.1. Giới thiệu về nền kinh tế Ấn Độ
Nền kinh tế của Ấn Độ sau khi độc lập chịu ảnh hưởng nặng nề của thời kỳ
thực dân và của phương hướng các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa xã hội Fabia. Chính
sách có thiên hướng theo chủ nghĩa bảo hộ, nhấn mạnh sự thay thế nhập khẩu, công
nghiệp hóa và sự can thiệp của nhà nước vào thị trường lao động và tài chính, khu
vực công lớn , cơ chế điều tiết hoạt động kinh doanh và kế hoạch hóa tập trung. Do
đó, thời kỳ 1947-1980, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Ấn Độ là thấp so với
tốc độ tăng trưởng của các nước Nam Á khác. Từ năm 1980, có hai đợt cải cách kinh
tế tạo ra sự tăng tốc kinh tế cho Ấn Độ. Thứ nhất là việc đưa ra các biện pháp ủng hộ
kinh doanh vào năm 1980 trong đó xóa bỏ kiểm soát giá đồng thời giảm các loại thuế
doanh nghiệp. Thứ hai là chính sách tự do hóa kinh tế năm 1991, trong đó đã thủ tiêu
chế độ cấp giấy phép nhập khẩu, công nghiệp và đầu tư đồng thời chấm dứt nhiều sự
độc quyền của khu công nghiệp, cho phép phê duyệt tự động đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong nhiều lĩnh vực. [44]
Kể từ năm 1990, Ấn Độ nổi lên như là một trong những nền kinh tế thịnh
vượng nhất trong thế giới đang phát triển và trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh
thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Ấn Độ
trong thời kỳ 1960-1980 là 3,5%; thời kỳ 1980-1990 là 5,4%; 1990-2000 là 4,4%;
thời kỳ 2000-2009 là 6,4%.[45]
Trong ba năm 2006, 2007, 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ rất cao
đạt lần lượt là 8,4%; 9,2%; 9%. Năm 2009, do ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh
tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ là 7,4%- tuy giảm xuống song vẫn rất cao
khi so với các nước khác. [46]
Goldman Sachs đã dự báo rằng GDP của Ấn Độ theo giá thực tế sẽ vượt qua
Pháp và Italia vào năm 2020, vượt Đức, Anh quốc vào năm 2025, và vượt qua Nhật
Bản vào năm 2035. Đến năm 2035, Ấn Độ được cho rằng sẽ là nền kinh tế lớn thứ 3
thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. [47]
1.2.2.Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Ấn
Độ
Lần đầu tiên một công ty Ấn Độ đầu tư ra nước ngoài là vào năm 1959. Kể từ
đó tới này, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ không ngừng phát triển.
Một cách tổng quát có thể chia hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ thành
hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (trước năm 1991), giai đoạn thứ hai (sau năm 1991).
a. Giai đoạn thứ nhất
Trong giai đoạn thứ nhất, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ có
những đặc điểm sau đây:
+ OFDI diễn ra chủ yếu trong ngành công nghiệp
+ Nước nhận đầu tư chủ yếu là các nước đang phát triển
+ Các công ty Ấn Độ chỉ được nắm phần nhỏ vốn chủ sở hữu của các doanh
nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào các doanh nghiệp này.
+ Động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp Ấn Độ đầu tư trong giai đoạn này là:
tiếp cận thị trường rộng lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và nhằm thoát khỏi giới
hạn của chính phủ về mức độ phát triển doanh nghiệp trong thị trường nội địa.
+ Lợi thế độc quyền của dòng vốn OFDI nằm ở trình độ công nghệ và quản lý
có chi phí thấp và khả nãng áp dụng công nghệ nhập khẩu vào hệ thống máy móc của
Ấn Ðộ ðể thích ứng với những ðiều kiện khác nhau của nýớc nhận ðầu tý là những
nýớc đang phát triển.
Năm 1959, tập đoàn Aditya Birla - tập đoàn kinh tế lớn thứ hai Ấn Độ- xây
dựng một nhà máy dệt ở Ethiopia. Năm sau đó (tức là năm 1960), tập đoàn Birla xây
dựng một đơn vị kỹ thuật tại Kenya. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Ấn Độ phát
triển liên tục từ cuối những năm 1970 khi hệ thống cấp phép công nghiệp trở nên chặt
chẽ hơn do chính phủ Ấn Độ muốn kiểm soát những doanh nghiệp lớn.Trước năm
1983, Ấn Độ có 140 dự án đầu tư ra nước ngoài đang được thực hiện và 88 dự án
đang trong giai đoạn chờ thực hiện. Trước năm 1990, có tổng số 229 dự án được phê
duyệt đầu tư. Hầu hết những chi nhánh ở nước ngoài được thành lập trong giai đoạn
này là những chi nhánh vừa và nhỏ và tổng số vốn chủ sở hữu được phê duyệt trong
giai đoạn từ năm 1975 tới năm 1990/1991 vào khoảng 220 triệu USD. [19, tr.130]
b. Giai đoạn thứ hai
Trong giai đoạn thứ hai, hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ có
những đặc điểm sau đây:
+ Hoạt động OFDI diễn ra trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế nhưng
ngành dịch vụ đóng vai trò chủ đạo
+ Vốn đầu tư vào các nước phát triển tăng lên
+ Doanh nghiệp Ấn Độ được tự do quyết định tỷ lệ sở hữu trong thực thể đầu
tư
+ Động cơ thúc đẩy OFDI: ngoài việc tìm kiếm thị trường các doanh Ấn Độ
đầu tư nhằm có được tài sản chiến lược như công nghệ, thương hiệu và thực hiện
marketing, đồng thời cũng thiết lập mạng lưới hỗ trợ thương mại.
+ Lợi thế độc quyền được cải thiện do các công ty Ấn Độ thường xuyên thực
hiện đổi mới, sang tạo, mua thương hiệu và nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ vào
việc tái cơ cấu doanh nghiệp.
Biểu đồ 1: OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ theo giá trị trong giai đoạn 1992-
2007 (triệu USD)
Nguồn: Prema-Chandra Athukorala (2009), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Ấn Độ,
Arnd- Corden Division of Economics, College of Asia and the Pacific, Australia National
University
Bước ngoặt trong hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ bắt đầu từ
những năm đầu 1990 với sự thay đổi mạnh mẽ về chính sách OFDI. Từ năm 2000
hoạt động OFDI của các doanh nghiệp Ấn Độ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi việc
những quy định hạn chế chuyển ngoại tệ phục vụ cho các vụ mua lại ở nước ngoài
liên tiếp được nới lỏng. Từ năm 2005, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Ấn Độ tăng vọt (xem biểu đồ 1). Số lượng các dự án được phê duyệt đầu tư
tăng từ 220 năm 1990/1991 lên 395 năm 1999/2000 và lên tới 1595 vào năm
2007/2008. Tổng dòng vốn FDI chảy ra từ Ấn Độ tăng từ khoảng 25 triệu USD trong
đầu những năm 1990 tới gần 14 tỷ đô là Mỹ năm 2007. [19, tr.130]
Biểu đồ 2: Tỷ trọng OFDI của Ấn Độ trong tổng FDI ra nước ngoài của các
nước đang phát triển (%)
Nguồn: Prema-Chandra Athukorala (2009), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Ấn Độ,
Arnd- Corden Division of Economics, College of Asia and the Pacific, Australia National
University
Trong suốt những năm 1990, tỷ trọng của Ấn Độ trong tổng số vốn đầu tư
chảy ra nước ngoài của các nước đang phát triển duy trì ở mức thấp – chỉ 0,5%. Từ
năm 2000 trở đi, tỷ trọng này liên tục tăng và đạt tới gần 6% vào năm 2007 (biểu đồ