Kho¸ luËn tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại VN, công cuộc
đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi thời kỳ khó khăn, khủng hoảng; chính trị-xã hội ổn định;
đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; kinh tế tăng trưởng nhanh, nền kinh
tế đang phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đất
nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặc dù xuất phát là một nước nông nghiệp, nổi tiếng với việc xuất khẩu
các mặt hàng nông, lâm , thuỷ sản, Việt Nam đang dần tập trung mũi nhọn vào
xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng có hàm lượng công
nghệ và giá thành cao hơn đồng thời cũng là mặt hàng sẽ giúp nước ta tăng
trưởng xuất khẩu. Khi đó chúng ta đã có những chính sách gì để thúc đẩy sự
phát triển của các mặt hàng này?
Em đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp " Ảnh hưởng của chính sách
thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của
Việt Nam' để nghiên cứu một cách chi tiết hơn về tình hình xuất khẩu các sản
phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam những năm gần đây cũng như việc
điều chỉnh các chính sách thương mại nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu các
mặt hàng này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu về
chính sách thương mại Việt Nam đối với việc xuất khẩu một số sản phẩm
công nghiệp chủ lực.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, em chủ yếu dựa vào phương pháp phân
tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê...
NguyÔn Nh 1Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu... nhằm minh hoạ rõ nét
các vấn đề nghiên cứu.
Bố cục đề tài được kết cấu 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến chinh sách thương
mại và mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng tác động của chinh sách thương mại tới hoạt
động xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam.
Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại
VN trong điều kiện hội nhập thương mại thế giới.
Với kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, khoá luận tốt nghiệp này không thể
không tránh khỏi những sơ sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự
góp ý quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè cùng trường.
Cuối cùng, em xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy giáo,
cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương đã nhiệt tình dạy dỗ và cung cấp cho em
những kiến thức cần thiết và bổ ích trong quá trình em học tập tại trường. Đặc
biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo, Th.S Vũ Đức Cường người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Khoá luận tốt
nghiệp của mình.
Hà Nội, tháng 06, năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Như Quỳnh
NguyÔn Nh 2Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH
SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI
1. Khái niệm chính sách thương mại
Chính sách thương mại là hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp
thích hợp của Nhà nước để điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia
trong những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách thương mại là một bộ phận
của chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước, nó bao gồm nhiều loại chính
sách để điều chỉnh toàn bộ hoặc các hoạt động thương mại cụ thể khách nhau.
Chính vì vậy, có nhiều cách tiếp cận và phân loại chính sách thương mại khác
nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Trong thực tiễn, người ta thường đề cập
tới chính sách thương mại cụ thể. Chẳng hạn: Chính sách thương mại quy
định các hoạt động thương mại của thương nhân, chính sách phát triển thương
mại trong nước và quốc tế, chức trách của các cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực thương mại, tổ chức lưu thông hàng hoá, phát triển thương mại
ở các vùng, chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và
quyền hạn của các thương nhân khi kinh doanh thương mại trong nước hay
với nước ngoài, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu, người viết chủ yếu tiếp cận chính
sách phát triển xuất khẩu.
NguyÔn Nh 3Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
2. Nội dung của chính sách thương mại ở nước ta
Các chính sách thương mại khác nhau sẽ có những nội dung cụ thể khác
nhau, song các chính sách thương mại đều có các nội dung điều chỉnh hoạt
động của thương nhân, điều chỉnh thị trường, mặt hàng hoặc các quy định về
đầu tư phát triển thương mại. Dưới đây là nội dung chủ yếu của các quy định
này:
Chính sách thương nhân: Chính sách thương nhân ở nước ta hiện nay
quy định việc đăng ký kinh doanh được thực hiện tại cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; quy định quyền hạn và
nghĩa vụ của thương nhân; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của thương nhân
nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam, theo đó các thương nhân nước
ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và đồng thời cũng
được hưởng một số ưu đãi và được tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam.
Chính sách thị trường: đối với thị trường trong nước, chính sách của
Nhà nước ta hiện nay là đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc đẩy sản xuất
hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vung chuyên canh sản xuất
hàng hoá lớn, đảm bảo hệ thống lưu thông hàng hoá thông suốt giữa các vùng,
các địa phương; đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa cân
đối, tránh những biến động bất ổn trên thị trường; thúc đẩy việc hình thành
đồng bộ các loại thị trường, đảm bảo nhất quán, ổn định thị trường, hình thành
thị trường thống nhất trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và
chú trọng phát triển các thị trường trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ. Đối
với thị trường ngoài nước, chính sách thị trường hiện hành của Nhà nước Việt
Nam hướng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất
khẩu, tích cực mở rộng, tìm kiếm và tiếp cận thêm các thị trường mới.
NguyÔn Nh 4Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Chính sách mặt hàng: gồm các quy định cụ thể đối với các loại mặt
hàng như các mặt hàng cấm kinh doanh, mặt hàng kinh doanh có điều kiện,
mặt hàng thuộc diện hạn chế kinh doanh, mặt hàng khuyến khích và tự do
kinh doanh, các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế do Nhà nước cân đối
ở tầm quốc gia và quản lý tập trung. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều
tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại, vừa có mũi nhọn,
chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, các đơn vị của nền kinh tế quốc
dân. Chính sách mặt hàng phải đảm bảo phát triển mặt hàng với cơ cấu hợp lý,
phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu.
Chính sách đầu tư phát triển thương mại: để tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp kinh doanh thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều
kiện mở rộng giao lưu hàng hoá và phát triển thị trường Nhà nước còn có hệ
thống chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho thương mại thích ở cả
tầm vĩ và vi mô.
3. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân
nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng
Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy
luật kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh …, các quy
luật kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Nếu một nền
kinh tế nào hoạt động dưới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa
hoá được lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có.
Nhưng với một nền kinh tế thị trường không có sự quản lý của Nhà
nước sẽ dễ dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trường như tình trạng
phân hoá giàu nghèo rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng
mà từ đó sẽ nảy sinh ra những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích
cho cộng đồng và phát triển kinh tế như xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư vào
NguyÔn Nh 5Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
giáo dục, y tế cần nhiều vốn nhưng thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu
được ít thì sẽ không được các nhà đầu tư quan tâm.
Chính vì những lý do trên, để hướng nền kinh tế phát triển theo hướng
có lợi nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính
sách tự do hoá thương mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nước dù ở mức độ
can thiệp, quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường như thế nào lại
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và quan điểm nhận thức của mỗi nước. Vì vậy,
chúng ta thấy hiện nay các nước đều sử dụng chính sách thương mại của mình
để can thiệp vào thị trường, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển bền vững,
ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra thị trường nước ngoài.
Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà
mỗi quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây
dựng nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thương mại của một nước
chịu ảnh hưởng và cũng chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của các nước
khác.
Ở Việt Nam, chính sách thương mại đã dần xoá bỏ được các định kiến.
Về cơ bản đã xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh xuất, nhập khẩu. Xây dựng được một hành lang
pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu vận hành theo cơ chế thị
trường. Từ đó đã khơi dậy được mọi tiềm năng sức sáng tạo, tính chủ động
của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển
xuất khẩu.
Chính sách thương mại thúc đẩy xuất khẩu phát triển đã góp phần mang
lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Từ chỗ Ngân sách Nhà nước hàng
năm phải chi một khoản tiền lớn để bù lỗ cho hoạt động xuất, nhập khẩu vào
những năm 80, đến những năm gần đây, ngân sách Nhà nước đã có nguồn thu
NguyÔn Nh 6Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
đáng kể từ hoạt động này. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu phát triển cũng đã
đóng góp phần nào trong việc giải quyết khủng hoảng kinh tếm kiềm chế và
đẩy lùi lạm phát trong những năm 80. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu
tan rã, nguồn nhập khẩu thiết bị, nguyên nhiên vật liệu quan trọng, hàng tiêu
dùng thiết yếu chủ yếu bằng vay nợ và viện trợ không còn, hoạt động xuấtnhập khẩu đã vươn lên, xuất khẩu tăng mạnh đảm bảo nhập khẩu thiết bị, vật
tư nguyên nhiên liệu cho phát triển kinh tế, hàng tiêu dùng nhập khẩu phong
phú và đa dạng, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Chính sách thương mại cũng thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Từ chỗ thương nhân chỉ được xuất khẩu
những hàng hoá được Bộ Thương mại cho phépm những năm gần đây, thương
nhân được xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá trừ hàng cấm xuất khẩu và một
số ít hàng hoá xuất khẩu có điều kiện được quy định công khai, minh bạch.
Hầu hết hàng hoá xuất khẩu chỉ phải làm thủ tục tại Hải quan cửa khẩu.
Nhờ đổi mới chính sách thương mại mà quy mô xuất khẩu tăng nhanh
chóng. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tăng 46 lần so với năm 1985. Tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất-nhập khẩu trong giai đoạn 1986-2005 của Việt
Nam thuộc loại cao nhất thế giới, giúp quy mô kim ngạch xuất khẩu của nước
ta ngày càng lớn mạnh, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Cơ cấu hàng xuất khẩu được chuyển dịch theo hướng tích cực, hàng hoá
xuất khẩu ngày càng phong phú, tỷ trọng hàng công nghiệp và chế biến ngày
càng tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Hơn nữa, thị trường xuất khẩu được mở rộng qua đó, không những ta
đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do việc Liên Xô và hệ
thống XHCN tan rã gây nên mà còn mở rộng được thị trường xuất khẩu, thúc
NguyÔn Nh 7Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Cơ
cấu thị trường xuất khẩu được cải thiện rõ rệt, từ chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào
thị trường Liên Xô và các nước XHCN, đến nay, thị trường xuất khẩu rất đa
dạng. Đến hết năm 2004, hàng hoá xuất khẩu của VN đã vươn tới trên 221 thị
trường trên thế giới, nhiều hàng hoá Việt Nam đã có chỗ đứng và khả năng
cạnh tranh trên nhiều thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…
Chính sách thương mại của nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước, đưa nước ta từ một nền kinh tế đóng sang một
nền kinh tế mở, đã và đang gặt hái được nhiều thành công rất đáng khích lệ.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
CHỦ LỰC
1. Khái niệm
Mặc dù có chính sách đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nghĩa là một
nước không chỉ chuyên vào xuất khẩu một vài sản phẩm, nhưng các quốc gia
đều có chính sách xây dựng những mặt hàng chủ lực - những con át chủ bài
của nền ngoại thương.
Trên thế giới mỗi nước, thậm chí mỗi nhóm nghiên cứu có thể đưa ra
khái niệm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác nhau. Có nước quan niệm hàng
hoá nào sản xuất ra chủ yếu dành cho xuất khẩu thì gọi là hàng xuất khẩu chủ
lực; có quan điểm cho rằng hàng xuất khẩu nào có thị trường tiêu thụ ổn định
thì mặt hàng đó là chủ lực; có quan điểm lại cho rằng hàng hoá xuất khẩu nào
mà có tỷ trọng nguyên liệu nội địa chủ yếu không phụ thuộc vào nước ngoài
thì coi là hàng chủ lực. Tất cả các quan niệm trên đều đúng một phần nhưng
chưa toàn diện và chưa đầy đủ. Chính vì chưa có định nghĩa nào chính xác
nên theo quan niệm của tác giả chúng ta có thể hiểu hàng chủ lực như sau:
Hàng chủ lực là những hàng hoá có điều kiện sản xuất ở trong nước với hiệu
NguyÔn Nh 8Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
quả kinh tế cao hơn những hàng hoá khác; có thị trường tiêu thụ tương đối ổn
định, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia.
Trên cơ sở đó, người ta thường chia cơ cấu xuất khẩu của một quốc gia
thành 3 nhóm hàng: (1) nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, (2) nhóm mặt hàng
xuất khẩu quan trọng và (3) nhóm mặt hàng xuất khẩu thứ yếu.
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất
khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.
Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch
xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan
trọng.
Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng thường nhỏ.
2. Quá trình hình thành và đặc điểm
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà nước đề
ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta tiếp xúc
mạnh mẽ với thị trường thế giói, chúng ta mới cảm nhận vấn đề một cách
nghiêm túc và thấy rõ được tầm quan trọng của nó.
Hàng xuất khẩu chủ lực hình thành như thế nào? Trước hết nó được
hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những
cuộc cọ sát cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giói. Và cuộc hành trình đi
vào thị trường thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy
mô lớn chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng. Nếu đứng vững
được thì mặt hàng đó liên tục phát triển.
Như vậy, một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 đặc điểm cở bản:
- Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên
thị trường đó;
NguyÔn Nh 9Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
- Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu
được lợi trong buôn bán;
- Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất
nước;
Vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt
hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời
điểm khác thì không. Hoặc nó chỉ chiếm thị phần ở một số thị trường nhất
định chứ không phải ở tất cả các thị trường.
Ví dụ: Vào những năm 1960 thì than có thể coi là mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam. Nhưng vào đầu những năm 1990 thì có thể coi dầu thô,
gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta.
3. Ý nghĩa của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực luôn được tất cả các nước coi
trọng và tập trung đầu tư phát triển. Ví dụ các nước phát triển như Mỹ có
những nhóm hàng như máy bay, ôtô, điện tử, tin học các sản phẩm công nghệ
sinh học…; Đức như ôtô, thiết bị điện, dụng cụ chính xác…; Nhật có ôtô, điện
tử… Các nước Đang phát triển như Thái Lan có gạo, gỗ,sản phẩm công
nghiệp nhẹ, dịch vụ du lịch…; Malaisia có dầu cọ, gỗ, dầu khí, dịch vụ du
lịch…
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã gây nên áp lực kể cả kinh tế và
chính trị đối với một số nước như sự kiện cung cấp khí đốt của Nga cho
Ucraina và Tây Âu, sự đột biết tăng của giá dầu của những năm 2004, 2005…
Do vậy, việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa rất
lớn:
NguyÔn Nh10Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
- Mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, mở rộng và
làm phong phú thị trường nội địa;
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, từ đó góp phần tăng ngân sách nhà
nước cải thiện cán cân thanh toán quốc tế;
- Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất và nhập khẩu;
- Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ
thuật với nước ngoài.
Để hình thành được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực Nhà nước cần
có những biện pháp, chính sách ưu tiên hỗ trợ trong việc nhanh chóng có được
những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Các biện pháp và chính sách
ưu tiên đó là thu hút vốn đầu tư trong, ngoài nước và các chính sách tài
chính… cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
4. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
những năm gần đây
Nếu như trước đây Việt Nam lấy nông nghiệp làm gốc và coi việc xuất
khẩu nông, lâm, thuỷ sản là một thế mạnh thì những năm gần đây, đặc biệt là
bước sang năm 2009, khi mà nền kinh tế quốc gia cũng chịu những ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đã có sự
thay đổi và mũi nhọn dần dần tập trung vào nhóm hàng công nghiệp chế biến.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến có thể chiếm tỷ trọng hơn 70% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Dự kiến, kim ngạch XK nhóm hàng công nghiệp chế biến
năm 2009 đạt khoảng 52,9 tỷ USD, tăng 38,7% so với năm 2008 (tăng 14,7 tỷ
USD).
NguyÔn Nh11Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Trong nhóm hàng công nghiệp chê biến cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo
một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và có khả năng tăng trưởng cao,
đó là dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây điện và cáp điện.
4.1 Dệt may
Ở Việt Nam, mặc dù là một nước lạc hậu, kém phát triển nhưng so với
ngành dệt may trên thế giới thì cũng có rất nhiều điểm nổi bật. Trước đây, vào
thời phong kiến khi máy móc, khoa học kĩ thuật chưa phát triển ở nước ta thì
ngành dệt may Việt Nam đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn
giản thô sơ nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm
tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ
đời này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ
Việt Nam. Dù những công việc đó rất giản đơn nhưng chính những nghề
truyền thống này đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt
Nam ta mà không một nước nào có được.
Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những
năm 1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975
khi đất nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được
hình thành ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Các nhà máy này
đã thu hút và giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nước
vừa thoát khỏi ách thống trị, đang còn trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát
triển thì các nhà máy của ngành đóng một vai trò rất to lớn đối với đất nước.
Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong
nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc
hậu, toàn là những máy cũ nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa trình
độ quản lý cũng còn rất hạn chế. Ngay cả hàng sản xuất để phục vụ cho nhu
cầu trong nước cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã còn
NguyÔn Nh12Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nghèo nàn ít ỏi.
Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo
cơ chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo
chỉ tiêu của Nhà nước, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hướng
vào nhu cầu tiêu dùng nội địa là chính còn xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ
thực hiện trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với
khu vực Đông Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất
khẩu đi nước ngoài chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông
Âu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công hàng bảo hộ lao động cho
hai thị trường này với nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp. Sản lượng dệt may
cho tới năm 1980 đạt 50 triệu sản phẩm các loại, 80% xuất sang Liên Xô còn
lại là Đông Âu và khu vực II.
Đến cuối năm 1990, khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị tan rã,
nước ta rơi vào thế hoàn toàn cô lập so với nhiều nước lớn mạnh khác, thị
trường xuất khẩu bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Nền kinh tế nước ta trở nên đình trệ,
thất nghiệp tăng, nhiều xí nghiệp bị đóng cửa, ngành dệt may cũng không
thoát khỏi tình trạng này.
Cùng thời gian đó Đảng và Nhà nước ta bắt đầu chính sách đổi mới nền
kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang cơ chế quản lý tự hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Thời kì này, ngành dệt may gặp nhiều khó khăn phải
đối mặt với việc: thiếu vốn, thiếu công nghệ, đặc biệt thiếu đối tác đầu mối
tiêu thụ hàng hoá. Trong nhiều năm qua ngành đã phải đưa ra nhiều chiến
lược, biện pháp để duy trì sản xuất, đảm bảo cung cấp sản phẩm cho thị
trường nội địa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đồng thời tự lo vốn đổi mới thiết bị,
tăng cường thiết bị chuyên dùng, áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến, hoàn
thiện dần hệ thống quản lí tổ chức…
NguyÔn Nh13Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Nếu như năm 1995 xuất khẩu dệt may chỉ đạt 850 triệu USD đến năm
2002 con số đã tăng lên là 2,752 tỷ USD, và năm 2008 xuất khẩu hàng may
mặc cuối cùng đã lên đến 9 tỷ USD, tăng 17% so với một năm trước.
Dệt may hiện nay đang chiếm khoảng một phần tư kim ngạch xuất khẩu
trong nước. Với thành tích xuất khẩu này, ngành dệt may đã vươn lên là mặt
hàng đứng đầu trong danh mục hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đưa
Việt Nam đứng trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Mục tiêu đề ra đối với dệt may Việt
Nam năm 2009 là xuất khẩu đạt 11,5 tỷ USD. Hoa Kỳ hiện vẫn là bạn hàng
lớn nhất về hàng dệt may. Năm 2008, hàng dệt may Việt Nam sang Hoa kỳ đạt
5,1 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2007. Ngoài ra còn có các thị trường lớn
khác như EU, Nhật… Qua đây ta thấy xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt
Nam trong thời gian gần đây rất có hiệu quả.
4.2 Da giày
Theo sát ngành dệt may, da giày Việt Nam cũng đang từng bước gặt hái
được nhiều thành công đáng kể. Việt Nam được xếp hạng là một trong mười
nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở
thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu
của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%.
Kể từ năm 2001, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưung tình hình xuất
khẩu của ngành da giày vẫn ổn định, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 15,3%,
kim ngạch liên tục tăng lên đóng góp đáng kể vào GDP. Ta có thể thấy rõ qua
biểu đồ:
NguyÔn Nh14Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu da giày Việt Nam 20012007
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Kim ngạch
1,58
1,87
2,26
2,69
3,04
3,59
3,99
Tốc độ tăng
trưởng
7,88
18,15
20,53
19,0
12,93
18,2
11,2
Đồ thị 1: Kim ngạch xuất khẩu da giày Việt Nam 2001-2007
NguyÔn Nh15Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Từ biểu đồ trên ta thấy:
Năm 2001, kim ngạch đạt 1,587 tỷ USD, chỉ tăng 7,88% so với năm
trước (năm 2000, kim ngạch đạt 1,471 tỷ USD). Thị trường thế giới gặp biến
động và có sự cạnh tranh quyết liệt của một số nước, chủ yếu là Trung Quốc,
do đó, ngành da giày Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Sang năm 2002, toàn quốc dốc sức điều chỉnh kế hoạch và phương thức
sản xuất, tưng bước chiếm lĩnh thị trường và tăng hiệu quả kinh doanh. Năm
này, kim ngạch đạt 1,875 tỷ USD, tăng 18,15 % so với 2001, gấp 369,2 lần so
với 1992 (5 triệu USD), đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất so với các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực khác.
Năm 2003, ngành da giày đạt 2,26 tỷ USD, tăng 20,53% so với năm
trước. Thị trường xuất khẩu giày dép chính vẫn là EU (63%), Hoa Kỳ (13%),
Nhật Bản (3%).
Năm 2004, Việt Nam chiếm vị trí thứ tư trên thế giới về xuất khẩu hàng
giày dép sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, với kim ngạch đạt 2,691 tỷ
USD, tăng 19% so với năm trước.
Năm 2005, giày dép da của Việt Nam bị khởi kiện phá giá tại EU. Thêm
vào đó, thị trường này đòi hỏi ngày cang cao về sản phẩm như các tiêu chuẩn
nhãn, mác và sản phẩm không có chất độc hại. Gặp khó khăn ở thị trường
truyền thống, da giày Việt Nam tích cực tìm kiếm những thị trường mới nhằm
đạt mục tiêu xuất khẩu 3,4 tỷ USD trong năm 2005. Hai thị trường mà ngành
tập trung xúc tiến và xuất khẩu là Nhật Bản và Châu Phi. Với những nỗ lực
vượt khó khăn, kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt mức 3,030 tỷ USD, tăng
12, 93% so với 2004. Tuy không đạt kế hoạch đề ra nhưng giá trị xuất khẩu
ngành da giày vẫn đứng thứ 3 sau dầu khí và dệt may. Hơn nữa, trong năm
này, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu giày dép lớn thứ hai trên
NguyÔn Nh16Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thế giới (472,7 triệu đôi) chỉ sau Trung Quốc.
Năm 2006, do tác động của vụ kiện chống bán phá giá đối với giày mũ
da xuất xứ Việt Nam, từ đầu năm các doanh nghiệp da giày phải đối mặt với
việc thiếu đơn hàng. Tuy nhiên, sau khi có phán quyết cuối cùng của Liên
minh Châu Âu áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da xuất xứ
Việt Nam trong khi Trung Quốc chịu mức 16,5% thì tình hình xuất khẩu đã
dần ổn định, khách hàng đã quay trở lại Việt Nam để đặt hàng. Hết năm 2006,
kim ngạch xuất khẩu da giày của Việt Nam đạt 3,59 tỷ USD, tăng 18,2% so
với năm 2005 và vượt so với kế hoạch năm 8,8% với số lượng 579 triệu đôi
giày dép các loại. Túi cặp xuất khẩu đạt trị giá 503 triệu USD, tăng 7% so với
năm 2005.
Đến cuối năm này, theo thống kê, trong 10 đôi giày tiêu thụ trên thế giới
có tới 2 đôi sản xuất tại Việt Nam, giúp Việt Nam trở thành “nước lớn” về sản
xuất giày dép trên thế giới, xét trong châu Á thì chỉ đứng sau Trung Quốc và
Ấn Độ.
Năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
Giày dép các loại: 615 triệu đôi
Cặp túi xách: 200 triệu chiếc
Da thuộc thành phẩm: 120 triệu sqft (1 sqft=0,3048 m2)
Đến hết năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này lên hơn 3,99 tỷ USD,
tăng 11,2% so với năm trước, xấp xỉ hoàn thành kế hoạch năm là 4 tỷ USD.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu giày dép đạt 4,7 tỷ USD, tăng 17,6%
so với năm trước, trong đó hai thị trường EU và Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng trên
74% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép.
Hiện nay, Việt Nam đang được xếp hạng là một trong 10 nước xuất
khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế về da giày. Năm 2009 mục tiêu đề ra
NguyÔn Nh17Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
cho ngành da giày là xuất khẩu đạt 5,1 tỷ USD.
Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang
các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư
thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Chúng ta lại có lợi thế về giá nhân công
rẻ và lực lượng lao động dồi dào, như vậy chúng ta cần phải phát huy những
lợi thế này.
4.3. Sản phẩm gỗ
Trong những năm qua, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên. Sản
phẩm đồ gỗ trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ 5 của Việt Nam sau
dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, và đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng xuất khẩu của cả nước.
Từ năm 2002-2007, sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt tại 120 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu này rất đa dạng, không phụ thuộc và
một thị trường nhất định. Tại một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Canada, sản phẩm gỗ đã mang lại kim ngạch lớn cụ thể kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng từ 115,46 triệu
USD năm 2003 lên 900 triệu USD vào năm 2007; thị trường EU tăng từ 160
triệu USD năm 2003 lên 500 triệu USD năm 2006; thị trường Nhật Bản tăng
từ 137,9 triệu USD năm 2003 lên 286,6 triệu USD năm 2006; thị trường Hàn
Quốc có tiềm năng, tăng trưởng tốt năm 2006 đạt 65,6 triệu USD tăng 32,2%
so với năm 2005. Các sản phẩm gỗ xuất khẩu chủ yếu là bàn ghế ngoài trời,
đồ mộc nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ, ván nhân tạo, dăm gỗ và nhóm sản phẩm gỗ
kết hợp với các vật liệu khác.
NguyÔn Nh18Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 và 2008 do tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu cùng với những khó khăn ở trong nước như thiếu
vốn, lãi suất cao, chi phí đầu tư tăng… Ngành công nghiệp gỗ đang gặp phải
rất nhiều khó khăn và đối mặt với nguy cơ giảm mạnh tăng trưởng trong giai
đoạn tới. Năm 2008 dự kiến kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ là 3 tỷ
USD, nhưng thực tế cuối năm chỉ đạt được 2,8 tỷ USD.
Một số nguyên nhân khiến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ
giảm:
Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ
sản phẩm gỗ. Theo ước tính thì nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm gỗ của nước
Mỹ và các nước EU năm 2008 giảm đến 30%, do đó kéo theo sự giảm sút về
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
Năm 2008, Chính phủ tập trung nỗ lực để kìm chế lạm phát và giảm
nhập siêu, Điều đó hoàn toàn đúng với quy mô quốc gia. Nhưng đối với một
ngành sản xuất cụ thể như ngành gỗ mà nguồn nguyên liệu chủ yếu dựa vào
nhập khẩu thì quả là một khó khăn.Với đầu ra của sản phẩm sản xuất luôn
không thay đổi, trong khi đầu vào (chi phí) là những con số biến đổi theo
chiều hướng tăng. Lợi nhuận của sản phẩm gỗ xuất khẩu tối đa cũng chỉ được
10%, trong khi các yếu tố đầu vào tác động đến giá thành từ 18% - 20% là
một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi bảo hộ thương mại
tinh vi tại các thị trường lớn cụ thể: các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ
và EU có sự kiểm soát chất lượng, nguồn gỗ với các luật lệ mới được ban
hành như: đạo luật Lacey của Mỹ, căn cứ vào đạo luật mới này, hành động lấy
gỗ khai thác, sử dụng, vận chuyển, bán hoặc xuất khẩu không tuân thủ quy
NguyÔn Nh19Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
định của luật pháp bất kỳ quốc gia nào được xem là vi phạm luật tại Hoa Kỳ.
Hay ở EU sẽ thực hiện Hiệp định “Tăng cương thực thi luật Lâm nghiệp, quản
trị rừng và buôn bán gỗ” (FLEGT). Theo Hiệp định này tất cả các chuyến
hàng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được các cơ quan có thẩm quyền cấp
phép sau khi kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng
chứng gốc.
Hơn nữa, sức cạng tranh mua nguyên liệu của Việt Nam yếu hơn Trung
Quốc, Malaysia, Indonesia,…
Ngoài ra, do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giảm đã kéo kết quả sản xuất
kinh doanh giảm theo. Giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2000 - 2005 tăng
4,4 lần so với năm 2000, nhưng thời kỳ 2006 – 2008 chỉ bằng 2,5 lần so với
thời kỳ 2000 – 2005.
Năng suất lao động tính theo chỉ tiêu doanh thu/lao động bình quân năm
2006 đạt 102 triệu đồng LD/năm; năm 2007 tuy có tăng nhưng cũng không bù
đắp được với lãi suất cao, giá cả tăng, chi phí đầu tư tăng.
Trước tình hình khó khăn như vậy, các doanh nghiệp gỗ Việt Nam đã
gồng mình để vượt qua nhưng cũng không tránh khỏi một số doanh nghiệp
phải ngừng sản xuất, thậm chí thua lỗ, phá sản.
Dự kiến tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ năm
2009 chỉ đạt từ 8 - 10%.
Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng sản phẩm gỗ là mặt hàng đã
có được vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Cần
phải có nhiều biện pháp hữu hiệu để giúp ngành gỗ vượt qua thời kỳ khó khăn
này.
NguyÔn Nh20Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
4.4 Sản phẩm nhựa
Ngay từ năm 2006, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã xác
định nhựa là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng. Theo thống kê và đánh giá của
Comtrade (cơ quan thống kê Liên hiệp quốc) thì đối với mặt hàng nhựa, Việt
Nam là nước có khả năng thâm nhập thị trường tương đối tốt và được hưởng
mức thuế thấp hoặc được đối xử ngang bằng như các nước xuất khẩu khác ở
hầu hết các thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, mặt hàng nhựa của Việt Nam
hiện đang được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao, tiếp cận được với
công nghệ sản xuất hiện đại của thế giới và đươcj thị trường chấp nhận.
Năm 2007, với kim ngạch xuất khẩu đạt 700 triệu USD, tăng 45,8% so
với năm 2006, mặt hàng nhựa được xếp thứ tư trong số mặt hàng có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu mạnh (sau cơ khí, hạt tiêu và cà phê) của Việt Nam với
thị trường hết sức rộng lớn và không quá khó để thâm nhập.
Theo tính toán sơ bộ, xuất khẩu sản phẩm nhựa năm 2008 đạt kim
ngạch gần 930 triệu USD, tăng trên 30,8% so với năm 2007. Năm 2009, nhựa
vẫn được xác định là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng. Sản phẩm nhựa được
đánh giá là một trong những sản phẩm xuất khẩu có khả năng cạnh tranh, thị
trường rộng lớn, được hưởng mức thuế suất thấp hoặc được đối xử ngang
bằng như các nước xuất khẩu khác ở hầu hết các thị trường. Đây là mức tăng
trưởng cao trong tình hình kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn như hiện nay
và thể hiện sự cố gắng lớn của ngành nhựa trong năm 2008. Năm 2009 dự
kiến kim ngạch sẽ vượt ngưỡng trên 1 tỷ USD tăng 39,8% so với năm 2008.
Hàng nhựa Việt Nam đang xuất khẩu khá đều đặn cho 40 thị trường
khác nhau. Với tổng số 800 công ty lớn (trong đó có 200công ty nước ngoài)
và hơn 2.000 đơn vị sản xuất nhỏ và vừa, dự kiến ngành nhựa tiếp tục tăng
trưởng bền vững trong hai năm tới.
NguyÔn Nh21Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Các thị trường lớn của ngành nhựa trước hết phải kể đến thị trường
Nhật Bản. Trong tháng 12 năm 2008, xuất khẩu sản phẩm nhựa sang thị
trường Nhật Bản vẫn duy trì kim ngạch đạt cao nhất, đạt gần 16,1 triệu USD,
giảm 5,8% so với tháng trước và tăng 48% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tiếp đến là Mỹ, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa sang thị trường
này trong tháng 12 năm 2008 đạt 14,11 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ
năm ngoái, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của nước ta sang
thị trường này trong năm 2008 đạt 164,16 triệu USD, tăng 20,2% so với năm
2007 và chiếm 17% tỷ trọng.
Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa của nước ta sang
khối EU đạt 241,3 triệu USD, tăng 31,6% so với cùng kỳ năm 2007 và chiếm
26,4% tỷ trọng. Đây là mức tăng trưởng kim ngạch cao hơn so tốc độ tăng
trưởng của toàn ngành.
Việt Nam đang cố gắng rất nhiều để phát triển ngành nhựa thành một
ngành kinh tế mạnh. Sử dụng tối đa nguyên liệu sản xuất trong nước, sử dụng
công nghệ vật liệu mới, phát triển sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, đa
dạng hoá về chủng loại, mẫu mã, nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu
cầu trong nước và tăng sản lượng xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, hội nhập vững chắc vào kinh tế khu vực và thế giới.
4.5Dây và cáp điện
Dây và cáp điện Việt Nam cũng đang được xuất khẩu với mức tăng
trưởng bỡnh quõn từ 30%-45%/năm (tức từ 300 đến 385 triệu USD/năm).
Dây điện và cáp điện là mặt hàng có khả năng gia tăng kim ngạch xuất
khẩu lớn do xu hướng đầu tư của cac doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp có FDI khá mạnh mẽ. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dây và cáp điện
đạt 850 triệu USD, tăng 20,6% so với năm 2006.
NguyÔn Nh22Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Đây là nhóm mặt hàng có điểm xuất phát thấp nhưng trong ba năm qua
đã tăng trưởng xuất khẩu ổn định và có khả năng sẽ nhanh chóng lọt vào danh
mục các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD.
Tuy thị trường dây và cáp điện thế giới chỉ tăng trưởng 3-4%/năm, song
lại không cản trở nhiều đến triển vọng xuất khẩu của Việt Nam do tỷ trọng
hàng dây và cáp điện của Việt Nam trên thị trường thế giới còn rất nhỏ bé, lại
mới tập trung vào một vài thị trường “ngách” với sản phẩm có chất lượng cao
mà chưa mở rộng thêm.
Dự kiến giai đoạn 2006-2010, ngành dây và cáp điện có thể duy trì mức
tăng trưởng 30%/năm và sẽ đạt hơn 2 tỷ USD vào năm 2010. Hơn 90% dây và
cáp điện của Việt Nam hiện nay được xuất khẩu sang Nhật Bản còn lại một ít
xuất khẩu sang Mỹ, Hàn Quốc, Australia. Theo vụ xuất nhập khẩu, các thị
trường có khả năng mở rộng thêm ngoài Nhật là Mỹ, Đức, Pháp hay Trung
Quốc và các nước ASEAN.
Hiện tại, ở Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu
dây và cáp điện. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đầu tư sản
xuất và xuất khẩu mặt hàng này với quy mô lớn như Công ty cổ phần dây và
cáp điện Taya Việt Nam, Furukawa Automotive Parts Việt Nam, Sumi –
Hanel, LG – Vina… Một số doanh nghiệp trong nước cũng sản xuất và xuất
khẩu dây và cáp điện với quy mô lớn, đặc biệt là Công ty dây và cáp điện Việt
Nam (Cadivi).
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MỘT
NguyÔn Nh23Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
SỐ MẶT HÀNG CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT
NAM.
I.
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 – 2008.
Công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta trong hơn 20 năm qua đã
giành được những thắng lợi có tính chiến lược, tạo tiền đề và điều kiện để
nước ta hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Tổng thu nhập quốc
dân hàng năm tăng từ 7%-8%. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế
toàn cầu kể từ cuối năm 2008, Việt Nam vẫn phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu
đạt 13%, tương đương với kim ngạch xuất khẩu khoảng 72 tỷ USD. Để đạt
được mục tiêu đó chúng ta đề ra chính sách giảm dần xuất khẩu sản phẩm thô,
lấy sản phẩm công nghiệp chế biến làm mũi nhọn xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, chúng ta đẩy nhanh các hoạt động kinh tế đối
ngoại với các nước Hoa Kỳ, ASEAN, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, mở rộng
được thị trường ra các khu vực, có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, kim
ngạch xuất khẩu năm sau tăng nhanh hơn năm trước. Từ năm 1996 đến năm
2005 tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 19,94%.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng trong thời kỳ
1996 – 2005
Đơn vị: triệu USD và % tăng trưởng
Năm
Xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng
NguyÔn Nh24Quúnh - Ph¸p 4 K44 G
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
1996
7.255
33
1997
9.185
27
1998
9.361
2
1999
11.540
23
2000
14.455
25
2001
15.027
4
2002
16.700
11
2003
20.176
21
2004
26.503
31
2005
32.442
22,4
2006
39,6
22,1
2007
48
20,5
2008
64
31,8
Nguồn: Niên giám thống kê và Tổng cục hải quan
Trong những năm gần đây, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có những
bước thay đổi tích cực.
Bảng 3: Cơ cấu hàng xuất khẩu thời kỳ 1995 – 2005
Năm Đơn vị
Tổng
Nhiên
liệu Công
nghiệp Nông sản, lâm
số
và
1995 Tr. USD
5.449
sản
1.379
công nghiệp
1.550
2.520
2000 Tr. USD
14.308
5.100
4.900
4.308
2004 Tr. USD
26.504
6.026
10.607
5.479
2005 Tr. USD
32.442
8.042
12.460
6.851
khoáng nhẹ và tiểu thủ sản, thuỷ sản
NguyÔn Nh25Quúnh - Ph¸p 4 K44 G