Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn láng hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.33 KB, 152 trang )

Khoa ngân hàng - tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Lời nói đầu
Phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bên cạnh sự phát triển các
doanh nghiệp nhà nước là một chiến lược quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển kinh tế Việt Nam. Hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh phát triển là việc lựa hết sức cần thiết đối với các cấp các ngành, đặc
biệt là ngành ngân hàng. Trong những năm qua mối quan hệ giữa hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt động tín dụng của ngân hàng
đã được cải thiện đáng kể. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng tín dụng. Ngược lại, tín
dụng ngân hàng có tác động tích cực tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, giúp cho các doanh nghiệp này cải thiện và đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường. Nhận thức được vấn đề này, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Láng Hạ cũng đã đưa ra kế hoạch cho việc mở rộng tín
dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhưng khi thực hiện chi
nhánh gặp phải rất nhiều khó khăn và vướng mắc. Do vậy, kết quả đạt được
chưa cao. Điều đó thể hiện ở mức cho vay và dư nợ của chi nhánh đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp và có xu hướng giảm dần.
Điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của chi nhánh và các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Trong thời gian thực tập tại chi nhánh, em rất
quan tâm tới vấn đề này và chọn lựa đề tài cho luận văn tốt nghiệp. Em hy
vọng với đề tài:
" Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Láng Hạ " sẽ phần nào tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc trong
hoạt động tín dụng của chi nhánh đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, giúp cho chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn


Láng Hạ ngày càng phát triển .



1


Kết cấu luận văn gồm 3 phần chính:
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Láng Hạ.
Chương III: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Láng Hạ.


Chư¬ng I
tÝn dông ng©n hàng đối víi c¸c doanh nghiÖp ngoài quốc doanh

1.1 Vai trò của tín dụng ngân hàng ( TDNH ) đối với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh ( DNNQD )
1.1.1 Vị trí của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tiến trình đổi
mới và phát triển kinh tế.
Trong chiều sâu của lịch sử xã hội Việt Nam - một xã hội nông
nghiệp, nhà doanh nghiệp vốn không được coi trọng. Tâm lý trọng nông ức
thương có cội rễ từ lòng xã hội trồng lúa nước. Thương nhân ở vị trí thấp
nhất trong bậc thang xã hội sĩ - nông - công - thương, mặc dù người ta vẫn
phải cho rằng “ phi thương bất phú ”, gánh nặng của quá khứ đè nặng trên

số phận những nhà doanh nghiệp - “ bọn con buôn ” - gọi theo cách nói
miệt thị quen thuộc, không dễ gì trút bỏ trong một sớm một chiều. Đặc biệt
là khi nền kinh tế thị trường đang còn ở buổi sơ khai sau một chặng dài bị
kỳ thị và chối bỏ, chưa trụ vững trên một khung pháp lý đầu đủ, tính chất
hoang dã của một thứ thị trường tự do bị chiếm đoạt vẫn còn xuất hiện đó
đây, đã dung dưỡng cho những thói hư tật xấu của không ít những nhà
doanh nghiệp, những “con buôn chính hiệu” rất đáng phải lên án, thì việc
trút bỏ thành kiến của quá khứ là hiết sức khó khăn.
Tuy vậy, cuộc sống sẽ tự nó điều chỉnh những ứng xử thực tiễn, sự
vận động của kinh tế với những nhu cầu nội tại của nó sẽ hình thành những
dư luận xã hội, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển. Xã hội sẽ tôn vinh những
nhà doanh nghiệp nào là gánh trọn được nhiệm vụ mà xã hội trao cho họ, để
lựa nòng cốt trong việc đẩy mạnh sản xuất. Giải quyết công ăn việc lựa
cho người lao động, nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá Việt Nam trong cơ
chế thị trường để có thể đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới với mục đích tìm kiếm và phát huy lợi thế của mình
và đối phó hữu hiệu với những thách thức. Chuyển sang một nền kinh tế
nhiều thành phần, chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đang chứng tỏ vai trò to lớn của mình trong công cuộc đổi mới và phát triển



3


kinh tế. Thật vậy, trong những năm vừa qua, sự tồn tại và phát triển của các
doanh nhiệp ngoài quốc doanh bên cạnh khu vực kinh tế nhà nước đã lựa
cho hoạt động của nền kinh tế nước ta trở nên sôi động hơn, thị trường hàng
hoá phong phú hơn, đẹp hơn và chất lượng hàng hoá cao hơn, tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế tăng nhanh và ổn định trong thời kỳ 1991 - 1996 tăng từ 8%

đến 9%. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh và sự cạnh tranh trở
nên quyết liệt hơn giữa hai khu vực kinh tế này. Tóm lại, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đang chứng tỏ mình, khẳng định vị trí không thể thiếu
của nó trong nền kinh tế, nhất là trong tình hình của nước ta hiện nay, bởi
vì:
Thứ nhất : Trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong
khi tiềm năng phát triển của nước ta còn lớn nhưng khả năng khai thác thì
hạn chế. Sự độc chiếm của hình sở hữu nhà nước và tập thể không cho phép
khai thác hết những tiềm năng to lớn của đất nước. Một lượng vốn khá lớn
vẫn còn nằm trong dân. Chỉ có con đường phát triển các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh mới có thể khai thác được chúng. Mặt khác sự ra đời và
phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra một cơ chế mà ở
đó năng lực con người giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mỗi con người đều
phải vươn lên để tồn tại và khẳng định mình, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều
phải cố gắng khai thác tối đa khả năng của mình, tìm tòi các nguồn lực với
mục đích đem lại lợi ích có thể cho mình. Đây là động lực kích thích sự
phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. Do vậy không
thể phát triển lực lượng sản xuất khi các doanh nghiệp ngoài quôc doanh bị
kìm hãm.
Thứ hai : trong tình hình hiện nay khi nước ta cần phải mở cửa từng
bước hoà nhập với khu vực và thế giới thì các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh sẽ lựa cầu nối quan trọng cho sự hoà nhập đó. Các nhà đầu tư nước
ngoài cần phải có bạn đồng hành để họ yên tâm đầu tư vốn, công nghệ thì
chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể thu hút vốn, kỹ thuật,
công nghệ và là người bạn đồng hành tạo ra sự tin tưởng cho các nhà doanh
nghiệp nước ngoài.


Thứ ba : trong quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước, đã nảy
sinh một số vấn đề như: thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành và khu vực do



nhà nước không đủ sức đảm nhiệm hay không có tầm quan trọng sống còn.
Chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tạo công ăn việc lựa, giải
quyết vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
Thứ tư : các nhà doanh nghiệp quốc doanh có khả năng tập trung
vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những ngành kinh tế đòi
hỏi hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin cũng như có khả năng lấp
đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần
nhiều vốn và có lợi nhuận thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới.
Thứ năm : Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường
gắn liền với sự quản lý trực tiếp của chủ sở hữu, nên trong các quyết định
quản trị có sự cân nhắc cẩn thận, cũng như sự ổn định trong nội bộ, ít xảy ra
tình trạng tham nhũng. Nói chung loại hình doanh nghiệp này cũng góp
phần thúc đẩy quá trình lành mạnh hoá trong hoạt động của các xí nghiệp .
Thứ sáu : Sản xuất hàng hoá từ doanh nghiệp quốc doanh đã góp
phần to lớn trong việc tạo ra sự phong phú của hàng hoá nâng cao chất
lượng sản phẩm từng bước góp pần cải thiện nâng cao mức sống đời sống
nhân dân. Do việc xuất hiện nhiều chủng loại hàng hoá đến khả năng chọn
lựa hàng hoá của người dân tăng lên và các doanh nghiệp ra sức cạnh tranh
với nhau để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhiều nhất. Để thắng thế
trong cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm chi phí để hạ giá thành, thu hút khách hàng .
Thứ bảy : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh
quyết liệt, vừa là đối tác lựa ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn
thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp quốc
doanh. Sự kết hợp sản xuất - tiêu thụ giữa doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và doanh nghiệp quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn của xã hội,
giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra
là hoàn thiện hơn với chất lượng cao hơn. Như vậy sự phát triển của doanh

nghiệp ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong
nước, đồng thời tạo sự ganh đua cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế
buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói riêng và luôn phải


đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và phát triển.


Thứ tám : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện thu hút một
lực lượng lớn lao động xã hội lựa cho tỷ lệ thất nghiệp giảm, nâng cao đời
sống nhân dân.
Thứ chín : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là
một bộ phận có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Thuế là nguồn thu
chính của ngân sách nhà nước, nguồn thu này sẽ được dùng để đầu tư vào
các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc giúp đỡ, hỗ
trợ một số ngành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có vai trò điều hoà thu nhập đồng thời phải có trách nhiệm đóng góp
vào ngân sách nhà nước.
Nhận thức được vai trò to lớn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
nhà nước ta đã khuyến khích và tạo môi trường hoạt động ngày càng thuận
lợi cho khu vực này. Sau khi quốc hội thông qua luật công ty và luật doanh
nghiệp tư nhân tháng 12 năm 1990, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đã có sự phát triển nhanh chóng và đã đạt được một số kết quả nhất
dịnh, phát huy tính tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc lựa,
tạo sự năng động trong kinh doanh và thoả mãn một phần nhu cầu của thị
trường. Một kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
tăng lên nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân
sách và thu nhập khá cao. Nếu năm 1991 mới chỉ có 123 doanh nghiệp với
số vốn điều lệ là 69 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã có 26.091 doanh nghiệp
với số vốn điều lệ là 8257 tỷ đồng. Riêng năm 1998 đã có 3675 doanh

nghiệp được đăng ký kinh doanh. Đạt được kết quả đó là nhờ những điều
kiện khá thuận lợi như : cơ chế, chính sách của nhà nước luôn luôn khuyến
khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng, tự
chủ trong kinh doanh để cho các doanh nghiệp này có điều kiện vươn lên.
Hơn nữa, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, có tay nghề, sẵn sàng đáp
ứng yêu cầu về lao động cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh cũng phải đối đầu với những khó khăn lớn: ra đời
trong điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, trình


độ quản lý chưa cao nếu không nói là yếu kém, thị trường của các doanh
nghiệp ngoài quốc doạnh hẹp. Gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng


hoảng tài chính tiền tệ Châu ¸ đã lựa giảm đáng kể lượng khách hàng của
các nước bị khủng hoảng gây ra những khó khăn trong kinh doanh của
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhưng khó khăn lớn nhất của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đó là vấn đề vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh.
Tình trạng thiếu vốn đã đẩy một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh lựa ăn
theo kiểu chộp giật, được ăn cả ngã về không, không có một phương án sản
xuất kinh doanh lâu dài, hoặc thậm chí sản xuất hàng giả, kém chất lượng.
Một số doanh nghiệp khác do thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nâng cao
chất lượng sản phẩm, đã không thể cạnh tranh nổi và đã bị phá sản. Tình
trạng trốn thuế, lậu thuế cũng xuất phát từ vấn đề thiếu vốn. Những doanh
nghiệp phá sản là những bằng chứng lựa cho người dân lại càng ngại đầu tư
vào khu vực kinh tế này lựa cho vốn đã thiếu lại càng thiếu. Và sẽ là không
tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hoặc không đủ vốn.
Vậy nguồn vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể lấy từ những
nguồn nào và nguồn nào là hiệu quả nhất, tức là có chi phí vốn thấp, thuận

lợi khai thác, sẵn sàng đáp ứng khi doanh nghiệp cần vốn cả về số lượng và
thời hạn. Đây là một vấn đề mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang
hết sức quan tâm.
1.1.2. Các nguồn vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Như đã khẳng định, vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập
một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, nguồn vốn của mỗi doanh nghiệp không giống nhau do quá trình huy
động và sử dụng vốn phụ thuộc vào một loạt các nhân tố khác nhau như:
loại hình sở hữu doanh nghiệp, ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động
của doanh nghiệp, qui mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ
quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển và chiến lược đầu
tư của doanh nghiệp. Nhưng nói chung các nguồn vốn mà các một doanh
nghiệp có thể huy động và sử dụng, đó là:
Vốn tự có của các doanh nghiệp.


Khi doanh nghiệp được thành lập thì bao giờ chủ doanh nghiệp cũng
phải đầu tư một số vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn tự có
ban đầu chính là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Còn đối với doanh


nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết
để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Mức vốn pháp định được quy định
riêng cho từng ngành nghề kinh doanh. Điều 9 khoản 2 luật doanh nghiệp
tư nhân (1994) quy định “có đủ vốn đầu tư ban đầu phải phù hợp với quy
mô ngành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư ban đầu không được thấp hơn vốn
pháp định do chính phủ quy định”. Điều 21 luật này quy định : “trong quá
trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn
đầu tư ban đầu nhưng không được thấp hơn vốn pháp định”.
Trong thực tế, vốn tự có của doanh nghiệp tư nhân thường lớn hơn

nhiều so với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng
kinh doanh. Tuy nhiên cũng có những trường hợp do các nguyên nhân khác
nhau nên nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp khoong còn đủ khả năng
duy trì hoạt động bình thường của công ty.
Đối với công ty cổ phần nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công
ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ.
Số vốn mà mỗi công ty cổ phần huy động được khi thành lập công ty đều
phải ghi rõ vào điều lệ của công ty để đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, gọi đó là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của công ty trong suốt quá
trình tồn tại và hoạt động không được thấp hơn mức vốn pháp định do pháp
luật nhà nước quy định. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi
lựa ăn có lãi, các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh với hy vọng để thu được lợi nhuận nhiều hơn.
Một bộ phận khác của vốn tự có của các doanh nghiệp là nguồn vốn từ
lợi nhuận để lại (retained earning) rất nhiều doanh nghiệp, công ty coi trọng
chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Họ đặt ra mục tiêu là phải có một
khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
tăng.
Ngoài ra, trong quá trình hoạt động khi cần mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh, lắp đặt thêm hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, thay đổi mặt
hàng, công ty cũng có thể tăng vốn qua việc huy động vốn từ cổ đông. Song
cũng có những trường hợp công ty tăng vốn bằng cách chuyển một phần
quỹ dự trữ tài chính thành vốn điều lệ của công ty. Các hình thức tăng vốn
này được thực hiện theo những quy định riêng biệt và chặt chẽ của pháp
luật nhà nước và những điều khác của công ty.


Để thành lập doanh nghiệp, có thể vốn tự có được coi là tạm đủ, nhưng
để duy trì và phát triển thì ngoài nguồn vốn tự có, doanh nghiệp cần phải đi

vay.
Nguồn vốn đi vay.
Doanh nghiệp có thể vay vốn từ bạn hàng thông qua hình thức tín dụng
thương mại hay vay từ ngân hàng qua hình thức tín dụng ngân hàng.
• Tín dụng thương mại (commercial Credit).
Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay
còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp (Supplier's credit). Nguồn vốn này
được khai thác một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán
trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết
sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế.Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và
linh hoạt kinh doanh, mặt khác nó còn tạo ra khả năng mở rộng các
quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc
cụ thể có thể ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán. Tuy vậy,
đây chỉ là một nguồn vốn ngắn hạn và sẽ gặp rủi ro khi qui mô tài trợ
vượt quá giới hạn an toàn.
• Tín dụng ngân hàng.
Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho các doanh
nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến vài năm với lượng vốn theo
nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể
vay dài hạn (từ 3 năm trở lên), trung hạn (từ 1 đến 3 năm), ngắn hạn
(dưới 1 năm) với những mức lãi xuất phải trả ngân hàng cùng với những
điều kiện ràng buộc khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường tài
chính chưa hoàn chỉnh, và việc thu hút vốn của các doanh nghiệp từ thị
trường này là chưa phổ biến thì tín dụng ngân hàng là một hình thức huy
động vốn phổ biến nhất của các doanh nghiệp. Nó có tác dụng to lớn đối
với cả người đi vay và người cho vay. Nó có những đặc điểm tiến bộ và
có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.



1.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.


Thứ nhất
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh
nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng
vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì điều đó không những
hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn
lựa tăng chi phí vốn. Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư doanh
nghiệp thường thích sử dụng vốn đi vay bởi vì nếu chủ sở hữu doanh nghiệp
chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh
doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn
thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều
hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền
vay lớn hơn tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp
gia tăng đáng kể. Hơn nữa khi sử dụng nợ lãi nợ vay được tính trong chi phí
hợp lý, hợp lệ khi tính thuế thu nhập. Do đó công ty sẽ được hưởng một
phần từ thuế. Tóm lại, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ lệ nợ cao vì
họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh
nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán. Việc tăng sử dụng nợ lựa tăng rủi ro của các
luồng tiền thu của công ty. Tuy nhiên tỷ lệ nợ cao hơn thường dẫn đến lãi
xuất mong đợi cao hơn. Vì vậy, rủi ro cao hơn cùng với nợ lớn hơn có
khuynh hướng lựa giảm giá cổ phiếu, nhưng lãi xuất mong đợi cao hơn lựa
tăng giá cổ phiếu. Do đó công ty phải xác định một cơ cấu vốn tối ưu, đó là
một cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa lãi suất và rủi ro và tối đa hoá được
giá cả cổ phiếu của công ty. Qua đó ta thấy rằng doanh nghiệp sử dụng vốn

vay từ ngân hàng hay là vốn tín dụng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn tối
ưu cho doanh nghiệp.
Thứ hai
Tín dụng ngân hàng với đặc điểm là buộc người vay phải trả lãi và gốc
trong một thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất,
tốc độ quay vòng vốn để sao cho khi hết thời hạn vay có đủ vốn và lãi để trả


ngân hàng và một phần lợi nhuận cho mình. Với điều kiện ràng buộc về lãi
suất, thời hạn và mục đích khi vay, người đi vay hiểu rõ trách nhiệm của họ


trong việc sử dụng vốn vay và từ đó anh ta phải thúc đẩy sản xuất kinh
doanh của mình sao cho đạt hiệu quả nhất. Hay nói cách khác là tín dụng
ngân hàng đã góp phần thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các doanh
nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Ngân hàng có thể cấp đủ vốn cần thiết cho các doanh nghiệp để đổi
mới trang thiết bị, nâng cao kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất, tìm kiếm
thị trường, nâng cao trình độ công nhân viên, cải tiến mẫu mã, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tạo
ra một sức cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ tư
Mối quan hệ rộng rãi của ngân hàng đối với các đơn vị kinh tế trong
hầu hết các ngành, các lĩnh vực thông qua hoạt động tín dụng của ngân
hàng đã tạo ra cho ngân hàng có được một hệ thống thông tin phong phú,
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ đó có
thể cung cấp các thông tin về thị trường và tư vấn cho các khách hàng của

mình về kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó có thể nói ngân
hàng là một hệ thống có thể tham mưu tích cực cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tránh được rủi ro trong kinh doanh.
Thứ năm
Hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải là việc rải đều vốn cho
tất cả các khách hàng có nhu cầu mà chủ yếu tập trung cho những khách
hàng lựa ăn có hiệu quả, nhằm tránh rủi ro cho ngân hàng. Đây là động
lực thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn luôn cố gắng lựa ăn có
hiệu quả hơn.
Thứ sáu
Tín dụng ngân hàng đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra liên tục và không ngừng
mở rộng sản xuất kinh doanh tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Thật vậy,


ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp với thời
hạn có thể từ vài ngày đến vài năm với lượng vốn theo nhu cầu của doanh


nghiệp, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không bị
ngưng lại. Hơn nữa trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp
có nhu cầu mở rộng hoạt động, đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật, tìm kiếm thị
trườn, đào tạo nhân lực... để hy vọng tăng năng suất lao động, giảm chi phí
hạ giá thành sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp thì doanh
nghiệp rất cần sự giúp đỡ của ngân hàng về vốn và qua hoạt động tín dụng
ngân hàng có thể thoả mãn nhu cầu của mình.
Nhận thức sâu sắc về vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với
việc phát triển nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nói riêng, chúng ta cần phải có biện pháp đúng đắn để tạo điều kiện
cho tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhằm đáp ứng sự phát

triển không ngừng của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nói riêng. Nhưng để có biện pháp phát triển tín dụng ngân hàng
thì việc nhận thức sâu sắc về tín dụng ngân hàng là điều hết sức quan trọng,
bởi vì, nếu không có nhận thức đúng đắn về tín dụng ngân hàng, không
hiểu về những quy định cụ thể về tín dụng ngân hàng thì không thể có
những biện pháp hữu hiệu để mở rộng nó một cách hiệu quả, đúng hướng,
đúng luật.
1.2 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Trước hết ta hiểu rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh
tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư thực hiện
nhiệm vụ chiết khấu và lựa phương tiện thanh toán. Thông thường lượng
vốn tự có của ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các đơn
vị kinh tế, do vậy các ngân hàng thương mại phải huy động từ nhiều nguồn
vốn trong xã hội. Trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được cộng với vốn tự
có của mình, ngân hàng thương mại sẽ đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Đây là
nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và
một bên là khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản
cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định với những thoả thuận


hoàn trả gốc và lãi trong một thời gian nhất định giữa khách hàng và ngân
hàng
1.2.2 Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế rất đa dạng và
phong phú. Để đáp ứng được sự đa dạng và phong phú của hoạt động kinh
tế này thì đòi hỏi tín dụng ngân hàng phải có những hình thức cũng phong

phú, đa dạng để phù hợp với từng hoạt động kinh tế đó ngày càng thúc đẩy
các hoạt động kinh tế, trở thành một động lực thúc đẩy quan trọng của từng
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Theo qui định điều 49 khoản 10 điều 20
luật các tổ chức tín dụng thì cấp tín dụng được thể hiện dưới các hình thức:
cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
qui định của nhà nước.
1.2.2.1 h thức cho vay
Theo điều 3 của qui chế cho vay của các tổ chức tín dụng qui định:
cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho
khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2.2 Hình thức chiết khấu.
Trong nền kinh tế thị trường, kỳ phiếu thương mại được phát hành và
lưu thông theo qui định của pháp luật. Người gửi kỳ phiếu nếu cần tiền mặt
khi kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán thì có thể đến ngân hàng xin được
chiết khấu kỳ phiếu để lấy tiền mặt về. Ngân hàng thương mại trả cho người
sở hữu kỳ phiếu một lượng tiền bằng mệnh giá kỳ phiếu trừ đi laĩ suất chiết
khấu, hoa hồng và lệ phí khác và ngân hàng trở thành chủ nợ của người
phát hành kỳ phiếu. Xét về bản chất kinh tế, mua kỳ phiếu thực chất là ngân
hàng cho người sở hữu kỳ phiếu vay tiền với lãi suất tính trên số tiền chiết
khấu. Như vậy tín dụng chiết khấu là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng
chuyển tiền cho người sở hữu kỳ phiếu khi nó chưa đến hạn thanh toán.
khách hàng muốn bán kỳ phiếu cho ngân hàng thì phải lập thủ tục giống


như vay vốn. Khách hàng phải lựa đơn xin chiết khấu kỳ phiếu, ngân hàng
kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành kỳ phiếu,


nếu được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường ngân

hàng chỉ nhận chiết khâu các loại kỳ phiếu mà thời hạn còn lại từ lúc chiét
khấu đến hạn thanh toán là từ 3 tháng đến 6 tháng. u điểm đặc biệt của hình
thức tín dụng chiết khấu là nếu trong trường hợp khản năng thanh
khoản của ngân hàng kém đi thì ngân hàng có thể đem kỳ phiếu đếnngân
hàng trung ương để xin tái chiết khấu, bổ sung vốn bảo đảm bảo khả năng
thanh toán.
1.2.2.3 nh thứcnhận trả.
Là hình thức tín dụng mà ngân hàng nhận trả nợ thay cho người phát
hành kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không
có khả năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ
phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ
dàng đem chiết khấu kỳ phiếu đó. Người phát hành kỳ phiếu đó. Người phát
hành kỳ phiếu nhận được sự đảm bảo đó của ngân hàng nên sẽ phải trả ngân
hàng một khoản hoa hồng. Trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và
người phát hành kỳ phiếu có qui định người phát hành kỳ phiếu phải giao số
tiền của kỳ phiếu chậm nhất trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Trước khi đứng
ra đảm bảo cho người phát hành kỳ phiếu, ngân hàng phải kiểm tra kỹ khả
năng thanh toán của họ và chỉ đảm bảo cho những đối tượng tin cậy, có uy
tín với khả năng tài chính tốt.
1.2.2.4 Tín dụng trả nhiều lần.
Là loại hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra lựa nhiều thời
hạn, đến mỗi kỳ trả một phần nợ gốc và lãi. Loại tín dụng này rất phù hợp
với đặc điểm sử dụng vốn của người vay là thu hồi vốn dần dần, lại vừa hỗ
trợ cho tiêu dùng hàng hoá vì được sử dụng và trả tiền sau.
Tín dụng trả nhiều lần bao gồm các loại tín dụng ngắn, trung và dài
hạn. Người đi vay và ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và
kỳ hạn trả cũng như mức trả từng lần cho vốn và lãi, kỳ hạn nợ cuối cùng.
Đối tượng cho vay bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực
tiêu dùng. Trong tín dụng tiêu dùng trả dàn, ngân hàng có thể cho vay để
mua sắm tài sản tiêu dùng sinh hoạt, chi trả chi phí du lịch. Đây là loại tín

dụng có thị trường rất lớn và phong phú. Tuy nhiên phải có điều kiện đảm
bảo để có thể thực hiện được loại hình này.


1.2.2.5 Hình thức bảo l∙nh.
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận dùng uy tín
của mình bảo lãnh đảm bảo sẽ thanh toán cho người bán hàng trong trường
hợp người mua (người được bảo lãnh) không có khả năng thanh toán nợ
thực chất giúp cho người mua nhận được hàng thuận lợi hơn, nhanh chóng
hơn trong quan hệ thương mại. Thường ngân hàng đứng ra bảo lãnh khi
quan hệ giữa người mua và người mua chưa tin cậy lẫn nhau và thường là
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Ngân hàng thu phí dịch vụ, phí bảo
lãnh với một mức phụ thu thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn bảo
lãnh, khối lượng bảo lãnh. Hình thức bảo lãnh của ngân hàng rất phong phú
và đa dạng như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh
bảo lãnh phát triển đã đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hoá, thúc đẩy
thương mại quốc tế phát triển.
1.2.2.6 Hình thức cho thuê tài chính.
Đây là hình thức tín dụng trong đó người cho thuê tài sản theo yêu
cầu của người đi thuê thực hiện việc cho thuê tài sản theo hợp đồng thuê
mua. Tài sản cho thuê thường bao gồm động sản và bất động sản như nhà
cửa, đất đai, máy móc, phương tiện vận tải, thiết bị văn phòng. Trong hợp
đồng thuê mua phải xác định giá thuê và việc xử lý tài sản khi hết hạn hợp
đồng. Giá thuê bao gồm khấu hao tài sản cho thuê, lãi trên cơ sở lãi xuất
của vốn bỏ ra mua tài sản, chi phí quản lý. Việc sử lý tài sản tuỳ theo thoả
thuận giữa hai bên có thể bán lại cho người thuê hoặc không. Nếu hợp đồng
thuê mua thoả thuận sẽ bán lại tài sản cho thuê khi kết thúc hợp đồng thuê
gọi là cho thuê tài chính. Trong thời gian cho thuê, tài sản vẫn thuộc sở hữu
của người cho thuê nên thực chất đây là một khoản cho vay có đảm bảo
chắc chắn. Cho thuê tài chính không giống hình thức cho vay trả góp, cũng

không giống cho vay bình thường. Nó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong trường hợp có khó khăn về tài chính hoặc mới thành lập có qui mô
nhỏ đang trên đà phát triển. Đồng thời nó còn tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp về phương diện thuê.
1.2.2.7 Hình thức cầm cố bất động sản.
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động
sản: nhà cửa đất đai, xưởng máy. Hoạt động cho vay này không thực giện
bằng cách phát tiền ra cho người vay mà được thực hiện bằng cách hành trái
khoán cầm cố bất động sản. Loại chứng khoán này được đảm bảo bằng bất



15


động sản của người vay. Trái khoán do ngân hàng phát hành giao cho người



15


vay trong đó ghi rõ mệnh giá, thời hạn, lãi xuất. Khách hàng A đem trái
khoán đó bán trên thị trường chứng khoán cho khách hàng B để nhận được
tiền. Khi trái khoán đến hạn khách hàng B đem đến ngân hàng để thanh
toán cả vốn lẫn lãi. Khách hàng A trả nợ cho ngân hàng thì bất động sản
vẫn thuộc về họ, nếu không trả được thì tài sản này thuộc về ngân hàng và
ngân hàng có quyền xử lý để thu hồi nợ.
Qua nghiên cứu các hình thức tín dụng ngân hàng, chúng ta thấy rõ một
diều là các hình thức tín dụng chính là các sản phẩm hàng hoá của ngân

hàng thương mại trên thị trường kinh doanh tín dụng và cung cấp dịch vụ
ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển với trình độ cao thì nhu cầu về hàng
hoá tín dụng càng cao và các hình thức tín dụng hiện đại không ngừng ra
đời đáp ứng cho sự phát triển liên tục của nền kinh tế. Nhưng để cung cấp
các hình thức tín dụng cho nền kinh tế sao cho tránh được các rủi ro, thất
thoát và đạt được hiệu quả cao thì các ngân hàng thương mại phải thực hiện
theo một nội quy trình tín dụng nhất định, phù hợp với đặc điểm, khả năng
của ngân hàng mình.
1.2.3 Qui trình tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Qui trình tín dụng là tập hợp những nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ
bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay.
Việc thực hiện qui trình trong hoạt động tín dụng có ảnh hưởng lớn
đến khối lượng và chất lượng tín dụng. Nếu quy trình được thực hiện
nghiêm túc, sáng tạo sẽ lựa tăng khối lượng và nâng cao chất lượng tín
dụng và ngược lại nếu thực hiện không tốt qui trình nghiệp vụ sẽ lựa giảm
khối lượng tín dụng có chất lượng tốt. Có thể khái quát qui trình tín dụng
qua sơ đồ sau:

Khai thác khách hàng, tìm kiếm
16

Hướng dẫn khách hàng về điều
kiện TD và thành lập hồ sơ vay


×