Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH minh trí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.19 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế hàng hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã có tác
dụng to lớn trong việc khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,trong đó có ngành
may mặc xuất khẩu Cùng với sự chuyển mình của đất nước trong việc từng bước
hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như trên thế giới,công nghệ sản xuất, xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có những chuyển biến tích cực,kịp thời phù hợp
với xu hướng phát triển chung,có thể đáp ứng được những yêu cầu mới của nền
kinh tế quốc dân.Cùng với những ngành kinh tế mũi nhọn khác,dệt may Việt Nam
đã thực sự là chiếc cầu nối Việt Nam với thế giới.
Tuy có trải qua nhiều thăng trầm do có sự biến đổi của nền kinh tế-chính trị
thế giới nhưng ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đã nhanh chóng tìm được bạn
hàng và ngày càng có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới.Theo thống kê của
Bộ Thương Mại, xuất khẩu hàng dệt may 8 tháng năm 2003 đạt 2,597 tỷ USD,tăng
58% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ hai sau dầu thô về kim ngạch xuất
khẩu.Với những lợi thế và đặc điểm riêng có như vốn đầu tư không lớn,thời gian
thu hồi vốn nhanh,thu hút được nhiều lao động, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
đã được phát triển trong môi trường hết sức thuận lợi.Tuy nhiên để khai thác triệt
để ưu thế của ngành, có thể mở rộng cả trong và ngoài nước,Nhà nước cũng cần
phải có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện cho ngành phát triển và bản
thân mỗi doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng nắm bắt được những yêu cầu của thị
trường, tích cực tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý từ
nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu sao cho đạt
hiệu quả cao nhất.
Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty
TNHH Minh Trí, em đã chọn đề tài : “Hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công
ty TNHH Minh Trí” làm đề tài nghiên cứu cho bản thu hoạch thực tập của mình.


Trên cơ sở xem xét thực trạng hoạt động ở công ty,em muốn đề ra một số ý kiến và
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty nói


riêng và ngành may mặc xuất khẩu của Việt Nam nói chung,để ngành may mặc
xứng đáng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Với mục đích như trên,bài thu hoạch thực tập được bố cục làm 3 chương:
Chương I: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam thời
gian qua.
Chương II:Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH
Minh Trí.
Chương III: Một số kiến nghị và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH Minh Trí.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do thời gian ngắn và trình độ bản thân còn
hạn chế nên bản thu hoạch thực tập tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và
các bạn đọc quan tâm đến đề tài này.
Cuối cùng,em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong
khoa Kinh Tế Ngoại Thương, sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên
Phòng Kinh Doanh- Xuất Nhập Khẩu, phòng Tài Chính Kế Toán công ty TNHH
Minh Trí và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy Nguyễn Quang Hiệp đã
giúp em hoàn thành bản thu hoạch thực tập này.


Chương I

TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I.VAI TRÒ,LỢI THẾ PHÁT TRIỂN HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU Ở VIỆT
NAM
1. Lợi thế
Với nhiều lợi thế và tiềm năng, ngành dệt may Việt Nam có rất nhiều điều
kiện để phát triển .Trước hết đó là truyền thống lâu năm trồng bông,ươm tơ dệt
lụa,... sản xuất hàng dệt và may mặc cùng thời tiết khí hậu phù hợp với việc phát

triển cây bông, một nguyên liệu chủ yếu cho ngành dệt may mặc.Ngoài ra,vị trí địa
lý của Việt Nam vô cùng thuận lợi ,ven biển giáp danh với 3 nước,là điểm giao lưu
thuận tiện của các loại phương tiện vận tải đi quốc tế.Cùng với nguồn tài nguyên
thiên nhiên vô cùng phong phú đa dạng,cung cấp khá đầy đủ nguyên liệu cho cả
ngành dệt và may mặc phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại.Đặc biệt với
một đội ngũ nhân công dồi dào,cần cù chăm chỉ, có khả năng thích ứng nhanh với
công nghệ cao,máy móc thiết bị hiện đại,tạo ra những sản phẩm có chất lượng đạt
tiêu chuẩn quốc tế và được thị trường thế giới chấp nhận.
Bên cạnh đó những đặc điểm riêng có của ngành dệt may Việt Nam nói riêng
cũng như thế giới nói chung có thể nói cũng là những lợi thế của ngành này so với
các ngành công nghiệp khác.Đó là: ngành dệt may sử dụng một số lượng lớn lao
động đặc biệt là lao động nữ,số công nhân trong ngành may chiếm gần 60% tổng
số lao động trong toàn ngành công nghiệp cả nước,mà giá nhân công nước ta lại
khá rẻ so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Lao động trong ngành
may lại không đòi hỏi phải đào tạo ở trình độ cao và phức tạp. Thêm vào đó, số
vốn đầu tư không lớn nhưng tỷ lệ lãi cao ,máy móc thiết bị trong ngành lại không
thuộc loại công nghệ phức tạp nên số tiền đầu tư thấp lơn nhiều so với ngành
khác.Chỉ cần bỏ ra 0,8 đến 1 triệu USD đưa vào hoạt động một nhà máy có công
suất 1 triệu sản phẩm /năm. Mặt khác tốc độ quay vòng vốn nhanh (4-5
vòng/năm) ,theo đó chỉ cần sau 3 năm là có thể thu hồi lại vốn.Đây chính là điểm


thuận lại nhất cho các nước nghèo muốn vươn lên thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá trong đó có Việt Nam.
Như vậy,khi chưa có lợi thế về kỹ thuật cao,công nghệ hiện đại tiên tiến thì
những lợi thế về nguồn lao động với giá nhân công rẻ,truyền thống sản xuất lâu đời
chính là những lợi thế và tiền đề cơ bản để ngành dệt may Việt Nam tham gia vào
thương mại quốc tế. Nhờ những lợi thế trên, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
càng có thêm cơ sở để vững tin hơn vào một sự phát triển ổn định và vững chắc
hơn trong tương lai.

2.Vai trò
.Ngoài chức năng chủ yếu là bảo vệ cơ thể con người khỏi tác động của ngoại
cảnh bên ngoài thì theo sự phát triển của đời sống xã hội, sản phẩm may mặc càng
thể hiện rõ nét hơn một chức năng nữa ,hết sức quan trọng và trở thành chức năng
chính trong nhu cầu về loại sản phẩm này,đó là chứ năng trang điểm, chức năng
làm đẹp cho con người. Xuất phát từ chức năng chung đó,sản phẩm may mặc nói
chung và quần áo nói riêng ngày nay phải đảm bảo những yêu cầu rất đa dạng
phong phú như: chất lượng cao , giá cả cạnh tranh,kiểu dáng mẫu mã đẹp ,có tính
thẩm mỹ và các tính chất tiêu dùng khác ,đáp ứng được sự phát triển không ngừng
của trình độ tiêu dùng và văn minh xã hội.
Nhận ra tầm quan trọng của mặt hàng dệt may như vậy,Đảng và Nhà nước
trong những năm qua đã luôn quan tâm và đề ra những chủ trương đúng đắn để
phát triển ngành dệt may ,vừa để nâng cao đời sống nhân dân vừa phát triển kinh tế
đất nước.Đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay bước đầu hội nhập vào nền
kinh tế thế giới thì vai trò ngành dệt may xuất khẩu càng trở nên hết sức quan
trọng và được xem là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Giống như những ngành kinh tế khác,ngành dệt may của Việt Nam cũng là
một nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.Năm 2002,một năm được đánh giá là khá
thành công đối với sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.Theo số liệu
thống kê,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 2,75 tỷ USD,tăng
trên 36% so với năm 2001,mức tăng này cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng


xuất khẩu chung của cả nước là 7%, năm 2003 nếu thực hiện đúng kế hoạch đề ra
thì dệt may Việt Nam sẽ cung cấp cho ngân sách 3,2-3,5 tỷ USD,chiếm 8,58% giá
trị sản xuất công nghiệp toàn quốc,gần 15% tổng số kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Đơn vị:Triệu USD
4000


3500

3000

2750

2000

1502

1747

1892

1975.4

1450

1150

1000

850

0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Nguồn:Tham khảo nội bộ-Thông tin bộ Thương Mại ngày 10/02/2003
Thêm vào đó,với nhiều lợi thế riêng có,ngành dệt may xuất khẩu giúp thu hút

được nhiều lao động với kỹ năng không cao,thời gian đào tạo ngắn lại có tỷ trọng
lợi nhuận tương đối cao,đồng thời có điều kiện để mở rộng thương mại quốc tế.
Năm qua, ngành dệt may đã thu hút một số lượng lớn lao động toàn đất nước, với
số lao động lên đến 1,6 triệu người, kể cả 700 nghìn lao động trồng bông nuôi tằm,
chiếm 25% tổng số lực lượng lao động. Và mục tiêu đặt ra là đến 2010 ngành này
sẽ tạo được việc làm cho khoảng 2,76 triệu lao động với mức thu nhập bình quân
đầu người trên 100USD/người/tháng.Qua đó thu nhập người lao động sẽ tăng từ đó
có điều kiện để nâng cao sức mua,mở rộng thị trường trong nước.đẩy mạnh sản
xuất phát triển ,tạo sự ổn định về kinh tế. chính trị, xã hội.
Thêm vào đó, phát triển ngành dệt may xuất khẩu không chỉ tạo ra công ăn
việc làm trong ngành may mà còn tạo cơ hội phát triển cho các ngành liên quan và
phụ trợ khác như :trồng bông, dệt, cơ khí, hóa chất, bao bì, kho tàng, bảo quản ,vận
tải, cảng và phục vụ cảng... cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay, may mặc xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu
cho nước ngoài ,khách hàng của chúng ta chủ yếu là các nhà nhập khẩu có tên
tuổi,các trung tâm thời trang khu vực và thế giới,qua phương thức gia công, các
doanh nghiệp của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những công nghệ, kỹ thuật sản


xuất tiên tiến của thế giới một cách nhanh nhất,từ đó chuẩn bị từng bước đưa hàng
Việt Nam thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Ngoài ra, thông qua việc đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế để được chấp
nhận ở các thị trường xuất khẩu ,sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng được
nâng cao về chất lượng,hạ giá thành sản phẩm, từ đó cơ cấu mặt hàng may mặc
trong nước cũng được đa dạng ,phong phú hơn,phục vụ tốt nhu cầu người tiêu
dùng trong nước và cạnh tranh có hiệu quả hơn với hàng ngoại nhập đang lấn át
thị trường nội địa. Cũng từ đó,người tiêu dùng nước ngoài sẽ biết nhiều hơn đến
sản phẩm do Việt Nam sản xuất, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế, tạo đà cho Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế được thuận lợi .

II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA.
1.Điều kiện phát triển
a, Năng lực sản xuất
Trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cùng với các ngành kinh tế khác của nền kinh tế nước nhà, ngành dệt
may của ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp một phần
không nhỏ vào mức tăng trưởng GDP và góp phần quan trọng trong việc xây dựng
đất nước thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá(CNH,HĐH) đất
nước.Để có được những thành tựu đáng khích lệ, toàn ngành đã có những thay đổi
không ngừng về đầu tư trang thiết bị công nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến, từ
đó sản phẩm làm ra đạt kết quả cao cả về sản lượng và chất lượng, tính cạnh tranh
có giá trị sản lượng xuất khẩu đạt cao và hội nhập được với khu vực và trên thế
giới, sản phẩm làm ra thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng nước
ngoài. Cho tới nay, toàn ngành có:

thành phần kinh tế

số doanh nghiệp

Doanh nghiệp quốc doanh

187

+ Doanh nghiệp dệt

70


+ Doanh nghiệp may

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(doanh nghiệp TNHH, cổ phần, tư nhân)

117
800

+ Doanh nghiệp dệt

600

+ Doanh nghiệp may

200

Nguồn:Tạp chí Chiến lược –chính sách doanh nghiệp năm 2003
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ,trong năm 2002 bên cạnh việc các
doanh nghiệp đầu tư và mở rộng sản xuất thì đã có khá nhiều doanh nghiệp dệt
may mới ra đời, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
doanh nghiệp tư nhân.Trong năm 2002 đã có trên 1.500 đơn vị tham gia xuất khẩu
hàng dệt may trong đó có 52 đơn vị đạt kim ngạch xuất khâủ trên 10 triệu
USD;350 đơn vị đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 đến 10 triệu USD.Tính đến nay toàn
ngành có 500 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
trên tất cả các lĩnh vực như : sợi, dệt nhuộm, đan len, may mặc, phụ tùng máy may
với số vốn đăng ký 2.600 triệu USD.Trong đó Đài Loan là nước có nhiều dự án
đầu tư nhất, lên đến 144 dự án, tổng số vốn đăng ký là 1.100 triệu USD, vốn thực
hiện là 420 triệu USD.
Theo báo cáo gần đây nhất,trong cả nước số cơ sở dệt may tập trung chủ yếu
ở 2 khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Nam Bộ, chiếm 50-60%
sản lượng, Đồng bằng Sông Hồng chiếm 30-40%, đồng bằng Duyên hải Miền
Trung thấp hơn, chỉ chiếm 10% sản lượng toàn ngành dệt may.

Trong những năm qua, Nhà nước đã dành cho ngành dệt nhuộm nguồn tín
dụng của các nước Pháp, Nhật, Đức...để bổ sung các cọc sợi , đổi mới dây chuyền
sơi và nhuộm.Về số thiết bị hiện toàn ngành có 1.050.000 cọc sợi, 14.000 máy dệt
các loại, 450 máy may.Ngoài ra các doanh nghiệp vẫn dùng nguồn vốn tích luỹ
hàng năm của mình để bổ sung, nâng cấp, hiện đại hoá trang thiết bị máy móc,
đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu , đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng ngày một cao của thị trường may mặc thế giới.
Về phía ngành may mặc đã được đổi mới rất nhiều, đặc biệt ở khu vực tư
nhân và các xí nghiệp liên doanh đã được trang bị thêm khá nhiều thiết bị hiện đại,
dây chuyền sản xuất khép kín cùng nhiều loại thiết bị chuyên dụng gồm máy thêu
tự động, giác sơ đồ bằng máy tính điện tử , một số máy tự động, hệ thống giặt mài
vải Jean và dây chuyền đồng bộ chuyên may sơ mi, quần âu, áo comple.... của


nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới như : JUKI, Singer, Brother, Siruba, Kasnai,
Baruda.... của Nhật , Mỹ, Đức, Italia, Hồng Kông,..
b, Thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
Thị trường hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng nhờ sự
khai thác linh hoạt của các doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ xúc tiến thương mại
của các cơ quan chức năng.Nhìn chung tất cả các thị trường xuất khẩu may mặc
chủ yếu của Việt Nam đều phát triển khá so với cùng kỳ. Cùng với việc mở rộng
giao lưu kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam trở thành thành viên
ASEAN, APEC, chuẩn bị tham gia WTO và đã có Hiệp định thương mại với EU,
Nhật Bản, Hoa Kỳ...đã tạo ra những thị trường lớn, mới cho việc xuất khẩu hàng
dệt may. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU, Đài Loan, Hàn
Quốc thì trong năm 2002 vừa qua các doanh nghiệp dệt may nước ta đã nỗ lực
trong việc tìm kiếm các thị trường mới như Nga và các nước Đông Âu, các nước
Trung Đông và Nam Phi.Mặc dù vậy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào các
thị trường này còn rất khiêm tốn.
Bảng: thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

trong năm 2002
Đơn vị:USD
Tên nước

Trị giá

Tên nước

Trị giá

Mỹ

944.080.068

Trung Quốc

12.116.865

Nhật Bản

480.760.573

Đan Mạch

10.877.527

Đức

199.881.041


Thuỵ Điển

10.216.809

Đài Loan

118.017.983

Campuchia

8.188.039

Hàn Quốc

91.793.667

Thụy Sĩ

7.161.445

Anh

73.980.061

Thái Lan

5.341.982

Pháp


68.371.396

Hy Lạp

5.293.950

Nga

51.002.506

Các tiểu vương quốc ả
rập thống nhất

4.641.562

Tây Ba Nha

47.131.276

Indonesia

3.855.53

Hà Lan

43.725.617

Ai Len

3.766.871


Italia

40.585.314

áo

3.696.936

Lào

38.967.512

I Rắc

3.000.000


Canada

38.655.917

Phhilippine

2.851.496

Hồng Kông

33.587.714


Phần Lan

2.330.49

Malaysia

29.307.714

Myanmar

2.151.792

Bỉ

27.369.123

Na Uy

2.121.593

Ba Lan

27.226.989

New Zealand

2.121.026

Austraia


23.564.450

Thổ Nhĩ Kỳ

1.454.373

Singapore

18.420.486

Bồ Đào Nha

920.010

Mexico

12.370.791
Nam Phi
Nguồn: Tạp chí dệt may tháng 2/2003

556.007

Hiện nay thị trường xuất khẩu các sản phẩm dệt may của Việt Nam có thể
được phân thành 4 thị trường lớn sau: thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường
Nhật Bản và các thị trường khác.


Bảng so sánh thị phần kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào các thị trường xuất khẩu 6 tháng/năm 2003
% KNXK trong tổng

Thị trường
KNXK toàn ngành
Mỹ

35,5

EU

19,5

Nhật Bản

17,5

Các thị trường khác

28,5

Nguồn:Tạp chí dệt may Việt Nam
a, Thị trường Mỹ: Mỹ và Bắc Mỹ là thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng dệt
may lớn nhất thế giới, dân số đông(khoảng 360 triệu người) mức tiêu thụ hàng dệt
may tính trung bình khoảng 27kg/người. Với dân số trên 178 triệu người ,Mỹ là
một thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới, cả về mặt số lượng và giá trị
hàng hoá, lại tương đối dễ tính hơn EU. Mức tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ là 95
tỷ USD/năm, trong đó nhập khẩu chiếm 48,8%tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt
may của Mỹ giai đoạn 2002-2005 ước tính khoảng 70 ty USD/năm. Nhóm hàng
nhập khẩu lớn nhất của Mỹ là quần áo may sẵn (69 tỷ USD) chiếm 89% tổng kim
ngạch nhập trong khi nhập khẩu bông sợi chỉ chiếm 11%.Tại thị trường Mỹ,hình
thức đặt hàng qua thư đang phát triển mạnh trong kinh doanh bán lẻ, ngoài các
kênh nhập khẩu phân phối buôn bán lớn là các tập đoàn, thị trường Mỹ còn có các

công ty trung gian , các công ty bán lẻ nhỏ, phương thức tính giá thường là theo giá
FOB. Nguồn nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ hàng năm chủ yếu từ các nước châu
á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN, trong
đó có Việt Nam.
Đáng chú ý nhất về xuất khẩu của hàng dệt may của nước ta trong năm 2002
là xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng rất mạnh.Tính riêng năm 2002, Việt Nam đã
xuất khẩu đạt kim ngạch 800 triệu USD hàng dệt may sang Mỹ,tăng hơn 19 lần so
với thực hiện của năm 2001.Và trong quí I năm 2003,toàn ngành dệtmay nước ta
thu được 850 triệu USD , tăng 90% so với cùng kỳ năm 2002, thì riêng xuất khẩu
vào thị trường Mỹ, thu được 500 triệu USD, tăng gần 20 so với cng kỳ năm


2002.Bằng những kết quả khả quan này,Mỹ đã vượt lên trên cả EU để trở thành thị
trường nhập khẩu nhiều hàng dệt may nhất của nước ta.
Ngày 17/7/2003 vừa qua, Việt Nam và Mỹ đã ký chính thức Hiệp định riêng
về hàng dệt may theo đó Mỹ sẽ xét duyệt hàng năm hạn ngạch cho hàng dệt may
vào thị trường này.Như vậy tổng giá trị hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
, theo điều khoản trong hiệp định, là 1,7 tỷ USD/năm, và có 38 cat.sẽ phải chịu
hạn ngạch trong đó gồm những mặt hàng quan trọng như áo sơ mi dệt kim sợi
bông, quần dệt kim sợi bông và áo cánh. Hạn ngạch cho các sản phẩm sợi len sẽ
tăng 2%/năm. Chỉ có hai mặt hàng không phải chịu hạn ngạch là áo jacket và áo
khoác. Hiệp định này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/5/2003 đến ngày 31/12/2004.Nếu
hai bên không huỷ bỏ hiệp định, không xem xét lại hiệp định trước ngày 1/12/2004
hoặc ngày1/12 của năm tiếp theo cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO, hiệp định
sẽ tự động có hiệu lực thêm một năm nữa. Mức hạn nghạch mà Mỹ dành cho Việt
Nam là quá khiêm tốn, chưa đáp ứng đủ năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt
Nam. Chính vì vậy trong bối cảnh này, Việt Nam đang phải nỗ lực ra sức đàm
phán đa phương rồi song phương vơí các nước thành viên WTO để sớm gia nhập
vào năm 2005, chỉ có thế Việt Nam mới không bị áp hạn nghạch xuất khẩu hàng
dệt may nói chung và vào thị trường Hoa Kỳ nói riêng.

b, Thị trường EU: Là một thị trường với dân số đông (374,2 triệu người),GDP
hơn 9000 tỷ USD, mức thu nhập đầu người cao và nhu cầu về hàng may mặc lớn, có
sức tiêu dùng vải cao (17 kg/người/năm) nhưng EU là một thị trường có hạn
nghạch.Nhu cầu đối với hàng dệt may đặc biệt là tính mốt chiếm 85-90%giá trị sản
phẩm nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm dệt may là chính, theo thống kê chỉ
10-15% người dân châu Âu ăn mặc theo nhu cầu, còn lại 85-90% có đặc tính ăn mặc
theo mốt. Ngoài ra EU được xem là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ và sâu sắc
nhất thế giới,hiện nay nó được xem như là một khu vực phát triển kinh tế ổn định và
có đồng tiền chung châu Âu khá vững chắc.Thị trường hàng dệt may EU có nhu cầu
lớn về số lượng và hàm lượng chất xám trong sản phẩm rất cao.
Kể từ khi ký Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam –EU vào ngày
15/12/1992 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1993, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may


vào EU không ngừng tăng với tỷ lệ bình quân là 40%/năm thời kỳ 1993-2000. Đây
được xem là bước phát triển nhảy vọt,đưa hàng dệt may Việt Nam xâm nhập vào
thị trường hàng dệt may thế giới.Nhiều năm trước đây khi thị trường Mỹ chưa
được mở ra thì thị trường này luôn dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu. Đã có thời
điểm xuất khẩu đạt trên 700 triệu USD/năm.
Các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường này là áo jacket, áo sơ mi, quần âu,
áo len và áo dệt kim, áo T-shirt và polo shirt, quần dệt kim, quần áo bảo hộ lao
động, áo khoác nam, nữ... Nhưng trong 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu
vào thị trường này ước đạt 55.5 triệu USD , dù tăng 63,7% so với thực hiện của
tháng 6 nhưng vẫn giảm 12,6% so với cùng kỳ năm 2002. Trong đó, tiến độ xuất
khẩu của hầu hết các Cat.đều đạt thấp so với cùng kỳ.Đặc biệt các Cat. nóng như
Cat. 4,5,6,7,15,29,78,83,191 đều giảm khoảng 33-76% so với cùng kỳ, giảm mạnh
nhất là các Cat. 5, Cat. 6.
Theo các chuyên gia cho biết thì sự suy giảm trên có thể do những nguyên
nhân như sau:Thứ nhất,Trung Quốc là một nước vừa gia nhập WTO, lại là một
cường quốc xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới nên hàng của Trung Quốc đã

cạnh tranh rất mạnh với hàng của Việt Nam trên thị trường này. Thứ hai, trong thời
gian qua nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã chủ động chuyển sang thị
trường Mỹ để lấy thành tích hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ nên tạm bỏ
quên hoặc không xuất sang thị trường EU như trước đây.Thứ ba, do hạn ngạch
được phân bổ quá manh mún lên không thể đảm bảo những đơn đặt hàng có số
lượng lớn.Như vậy nếu các doanh nghiệp khẩn trương trong việc tiếp cận thị
trường, xúc tiến thương mại, đàm phán ký kết hợp đồng ở các nước tại thị trường
EU, thực hiện tốt các cam kết với các khách hàng của mình và tìm mọi giải pháp
để nâng cao sức cạnh tranh thì mới có thể hy vọng các doanh nghiệp Việt Nam có
thể xuất khẩu sang thị trường EU khoảng 800-850 triệu USD hàng dệt may trong
năm 2003.
Theo một điều tra của các nhà chuyên môn, dự báo triển vọng kinh tế năm
2003 sẽ khả quan hơn nhiều tuy nhiên khó khăn chủ yếu trong xuất khẩu vào EU
là xuất hiện nhiều rào cản kỹ thuật mới ngày càng tinh vi hơn kể cả sản phẩm thô


và chế biến như tăng cường kiểm soát chất lượng hàng may mặc, cấm sử dụng một
số hoạt chất nhuộm trong hàng may mặc. Trong bối cảnh đó,để có thể thực hiện
được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may vào EU năm 2003 là 12% sẽ
phải tiếp tục đàm phán để bãi bỏ hoặc tăng hạn ngạch hàng dệt may, tăng cường
giám sát các khâu cuối của công đoạn sản xuất đảm bảo hàng dệt may khi xuất
khẩu vào thị trường này sẽ đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng được nhu cầu
khắt khe của mọi tầng lớp tiêu dùng thuộc thị trường EU.Như vậy,chúng ta tin
tưởng rằng với việc Liên Minh Châu Âu vừa đồng ý tăng hạn ngạch dệt may cho
một số sản phẩm dệt may của Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu sẽ xác lập lại
được vị trí trước đây đối với thị trường này.
c, Thị trường Nhật Bản: là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ
ba của Việt Nam trong năm 2003. Với thị trường Mỹ và EU như đã đề cập ở trên ,
hàng dệt may xuất khẩu của nước ta bị hạn chế bởi hạn ngạch cho từng năm còn thị
trường Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất, hàng dệt may xuất khẩu

sang thị trường này không bị hạn chế về hạn ngạch .Thế nhưng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may vào thị trường này còn rất ít ỏi và đang có chiều hướng giảm
xuống một phần do hàng may mặc của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt với các đối
thủ khác, là thành viên của WTO như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Italia,
Mỹ,...song đặc biệt là hàng dệt may của Trung Quốc với nhiều lợi thế về giá cả,
chất lượng, mẫu mã , thương hiệu, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Nhật
Bản khó tính.
Bảng:kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản
Đơn vị: triệu USD
8
MH

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002 tháng/2
003


dệt
may

104

211

310

325

321

417

620

592

480

305

Nguồn:Báo cáo của Hải quan Nhật Bản và của JETRO - Vụ Châu Á - Thái
Bình Dương - Bộ Thương Mại


Hiện nay Việt Nam đứng thứ 4 trong các nước có hàng dệt may xuất khẩu vào
Nhật Bản, các sản phẩm của ta chủ yếu gồm áo jacket, áo kimono, quần áo thể

thao, quần âu, áo sơ mi nữ,sơ mi nam, quần áo lót cho nam nữ,trẻ em, quần áo dệt
kim...Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản được hưởng thuế ưu đãi
phổ cập GSP với mức thuế từ 14-16,8%, mức thuế cho áo sơ mi thì thấp hơn từ 911,2%.Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản tăng hàng
năm đến năm 2000 đạt cao nhất là 620 triệu USD, sau đó đến năm 2001 giảm 5%
còn 592 triệu USD,năm 2002 giảm với mức nhanh hơn 20%,tức là 480 triệu
USD.Riêng năm 2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản cũng như thị
trường EU trong hai năm qua đã giảm đáng kể do các doanh nghiệp tập trung sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng sang thị trường Mỹ, chính vì thế mà đến hết tháng
8, tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật chỉ đạt khoảng 305 triệu USD.
Để cứu vãn tình hình này,các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần tạo ra cho sản
phẩm của mình một sự khác biệt từ đó mới có thể cạnh tranh được với các mặt
hàng cùng loại khác trên thị trường này.
d, Các thị trường khác
- Thị trường một số nước ASEAN: Đây là một thị trường phi hạn ngạch,
ngành dệt may Việt Nam có thể thâm nhập được thị trường này nhưng chỉ ở mức
độ thấp vì đặc điểm chung của thị trường dệt may ASEAN là hướng xuất khẩu sản
phẩm là chủ yếu. Quan hệ với thị trường này chủ yếu là các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam làm gia công xuất khẩu cho các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,
Singapore... còn ta nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu(đặc biệt là bông),thiết bị,
và hoá chất thuốc nhuộm và một số mặt hàng chất lượng cao mà trong nước chưa
sản xuất hoặc không sản xuất được. Tuy nhiên khi thâm nhập thị trường này,ngành
dệt may Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và quan trọng
không kém là phải nâng cao chất lượng dịch vụ bán hàng như giao hàng đúng hẹn,
đúng số lượng, đúng chủng loại.
- Thị trường SNG và thị trường một số nước Đông Âu: Đây là thị trường
có dân số lớn , trên 300 triệu dân lại cũng không cần quota. Tuy nhiên hiện nay đòi
hỏi về mẫu mã, chủng loại và chất lượng đối với hàng dệt may đã cao hơn


trước,song vẫn là thị trường dễ tính nên dễ thực hiện.Thị trường này có nhu cầu

nhập khẩu rất lớn về hàng dệt may và có khả năng thông qua phương thức trao đổi
hàng:nguyên liệu bông, vật tư, kỹ thuật dồi dào. Để có thể thâm nhập tốt ở thị
trường này, đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu phải tích cực mở rộng
hoạt động tiếp thị, tìm ra phương thức kinh doanh phù hợp giữa hai nhà nước thì
hàng dệt may Việt Nam mới có thể đi vào được thị trường mạnh mẽ và đầy tiềm
năng này.
-Thị trường các nước châu Phi:đây là một trong những thị trường mà Việt
Nam đang xúc tiến thương mại, tìm kiếm và khai thác mới mà ngành dệt may Việt
Nam có rất nhiều cơ hội. Trong đó, Nam Phi là nước được ngành dệt may quan
tâm vì hiện nay nước này không áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập
khẩu.Hiện nay Nam Phi đang tuân thủ các hiệp định tự do thương mại với một số
nước EU, Dimbabuê,... trên cơ sở các hiệp định đó, Nam Phi áp thuế cho mặt hàng
dệt may cũng giống như các mặt hàng khác. Thị trường Nam Phi chiếm gần 77% là
người da đen thích mặc những quần áo rẻ tiền, chủ yếu là quần jean, áo thun, áo
phông có chất liệu bền, màu sắc sặc sỡ rất được ưa chuộng, số còn laị là người da
trắng chiếm hơn 14% dân số lại thích những màu sắc sáng và sành điệu hơn trong
cách ăn mặc, đặc biệt là giới trẻ chuộng tông màu cơ bản với kiểu dáng châu Âu
nhưng đơn giản .Nhìn chung dân Nam Phi cả da đen và da trắng đều thích sự đơn
giản,không câu nệ và quá chăm chút vào cách ăn mặc, tiết kiệm vẫn là tiêu chí
hàng đâù trong việc quyết định mua sắm trang phục.
Có thể nói hai đặc điểm quan trọng là không hạn ngạch và yêu cầu đòi hỏi
không cao về chất lượng, mầu sắc, mẫu mã ...là những yếu tố thuận lơị để các
doanh nghiệp Việt Nam khi lần đầu tiên thâm nhập vào thị trường Nam Phi.Cách
tốt nhất để người dân Nam Phi biết đến sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may
xuất khẩu của Việt Nam là tham gia hội trợ triển lãm tổ chức thường xuyên tại
Nam Phi.
2. Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
a,Thuận lợi:



Theo đánh giá của giới phân tích, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước
những thời cơ hết sức thuận lợi.Thời cơ quan trọng đầu tiên phải kể đến là Chính
phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 và ban hành
một số cơ chế, chính sách hỗ trợ ngành dệt may tăng tốc đầu tư và xuất khẩu.
Chính phủ đã có chủ trương: “ ngành dệt may phải có tốc độ tăng cao, phải xuất
khẩu quy mô ngày càng lớn để đạt mục tiêu quan trọng cuối cùng là tạo ra nhiều
công ăn việc làm. Thời kỳ này sẽ là thời kỳ mà tốc độ phát triển ngành dệt may
phải đi vào chất lượng, chi phí giảm xuống để có khả năng cạnh tranh nhưng đồng
thời phải tăng được giá trị trên một sản phẩm đơn vị làm ra tại Việt Nam”.
Thời cơ thứ hai là sau sự kiện 11/9 thế giới đánh giá Việt Nam là một nước
ổn định và đây là điều kiện để thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam trong đó dệt
may xuất khẩu cũng là lĩnh vực được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm.
Đặc biệt là thời cơ thứ ba, với việc mở rộng giao lưu và hợp tác kinh tế, chủ
động hội nhập quốc tế, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN,APEC, chuẩn bị
gia nhập WTO và đã có Hiệp định thương mại với EU, Nhật Bản và đặc biệt là với
Hoa Kỳ trong thời gian gần đây đã tạo ra những bước tiến quan trọng, mở ra cơ
hội phát triển cho nhiều ngành, trong đó có ngành dệt may của Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới là rất lớn,mỗi
năm thị trường EU nhập khẩu tới trên 140 tỷ USD hàng dệt may, Mỹ là 73 tỷ-75
tỷ, Hồng Kông 14,7 tỷ đến 16,4 tỷ USD, các nước Canada, Mêhicô, Thuỵ Sĩ,...
cũng mỗi năm nhập từ 3 tỷ đến 4,8 tỷ USD.Các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ,
Thuỵ Sĩ, các nước EU nhập khẩu hàng may mặc sẵn là chính, thường chiếm từ
60% đến 80%.Đây chính là cơ hội thuận lợi để hàng dệt may các nước trong đó
Việt Nam mở rộng kim ngạch xuất khẩu của mình.
Hiện tại , sản phẩm dệt may Việt Nam đã có mặt ở thị trường hơn 30 nước và
khu vực lãnh thổ, trong đó có các bạn hàng Nhật Bản, Ôxtrâylia, Canada, Hông
Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, các nước thuộc liên minh châu Âu (EU) đã và đang
tiêu thụ ngày càng nhiều hàng dệt may của Việt Nam Điều đó chứng tỏ rằng hàng
dệt may của chúng ta đã có uy tín trên thị trường thế giới và có thế cạnh tranh tại
các thị trường khác nhau, kể cả những thị trường được coi là khó tính như:EU,



Nhật Bản,.Pháp, Italia, các nước Bắc Âu....Chính vì vậy mà nhiều năm liền, sản
phẩm của công ty May 10, Việt Tiến, Nhà Bè, Phương Đông, Đức Giang, Thăng
Long, Đồng Nai, các công ty dệt Thành Công, Thắng Lợi, Việt Thắng, Phong Phú,
Hà Nội, Nam Định,... đã có mặt tại thị trường hàng chục nước ở Châu á, Châu Âu,
Châu Mỹ....Có 3 lý do khiến khách hàng lựa chọn hàng dệt may của Việt Nam là
do giá cả phải chăng, một số doanh nghiệp đã tạo ra được những mẫu mã lạ mắt,
nhiều ý tưởng mới mẻ và đặc biệt tay nghề của các thợ thủ công rất cao và chất
lượng sản phẩm dệt may của chúng ta ngày càng được nâng cấp và cải tiến đạt tiêu
chuẩn quốc tế.Đây chính là những khích lệ để hàng dệt may Việt Nam nỗ lực,cố
gắng phát triển hơn nữa xứng đáng với niềm tin và mong mỏi của người tiêu dùng.
Trên đây chính là những thuận lợi cơ bản tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm
dệt may Việt Nam, đưa mặt hàng này luôn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu, xứng đáng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta khi tham gia
vào hội nhập kinh tế thế giới.
b,Khó khăn
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt mức khá cao trong năm 2003 nhưng ngành
dệt may nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế. Bên cạnh những thuận
lợi vừa kể trên thì những thách thức đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt
Nam cũng rất to lớn, xuất phát từ áp lực cạnh tranh gay gắt một khi tiến hành hội
nhập thị trừờng khu vực và thế giới ngày càng đến gần và được thực hiện một cách
đầy đủ hoàn toàn. Cụ thể là :
Ngành dệt may của ta còn phải phụ thuộc quá nhiều vào nguyên phụ liệu
(NPL) nhập khẩu.Theo báo cáo, trong tổng kim ngạch xuất khẩu 2,7 tỷ cuả năm
2002 thì có tới trên 2,2 tỷ USD là NPL nhập khẩu. Xuất khẩu vẫn chủ yếu ở dạng
gia công(ước tính trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu).Nhưng con số này trên thực
tế còn có thể cao hơn bởi mặc dù một số đơn hàng được xuất theo phương thưc
FOB nhưng việc nhập NPL vẫn còn do phía đối tác nước ngoài chỉ định nguồn
nguyên liệu nhập khẩu cho nên ích lợi thực thu về là rất thấp .Chưa kể đến việc

phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và
thời gian giao hàng .


Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt mức tăng trưởng cao nhưng không
bền vững, nhất là vào thị trường Mỹ.Việc xuất khẩu sang thị trường này của ta chủ
yếu vẫn phải qua trung gian ,còn xuất khẩu trực tiếp với nhà nhập khẩu lớn của Mỹ
là có nhưng rất ít.
Năng lực sản xuất của ngành dệt may còn yếu đã không đáp ứng được những
đơn hàng lớn đặc biệt là những đơn hàng đoì hỏi trình độ kỹ thuật tay nghề cao. Dù
Đảng và Nhà nước đã quan tâm rất nhiều trong việc đổi mới máy móc thiết bị
nhưng một thực tế mà chúng ta không thể phủ nhận, đó là trình độ trang thiết bị
trong ngành dệt may của nước ta còn quá lạc hậu,gần 30% số máy móc đã sử dụng
trên 20 năm. Trình độ công nghệ của Ngành dệt may Việt Nam còn lạc hậu từ 10
đến 20 năm so với các nước trong khu vực.Tuyệt đại bộ phận ngành kéo sợi chỉ
đạt mức tương đương 75% uster vào những năm đầu thế kỷ 90, công suất sợi chải
kỹ còn quá ít.Dạng sợi làm ra đã được cải thiện nhiều về chủng loại và mầu sắc do
đầu tư thiết bị máy móc mới nhưng do trình độ vốn còn hạn chế nên thiết bị dệt
kim còn quá ít và lạc hâụ, mới chỉ tương đương khoảng 20% tổng số máy móc với
thiết bị hiện đại của khu vực Đông Nam á.Công nghệ làm đẹp và xử lý vải ở công
đoạn hoàn tất còn thiếu và chưa đạt được hiệu quả cao.
Khối lượng sản xuất của toàn ngành vẫn chưa lớn, chủng loại, mẫu mã hàng
chưa thật phong phú, đa dạng, năng suất lao động còn thấp, giá thành còn cao hơn
một số sản phẩm cùng loại của khu vực và nhiều nước trên thế giới, đặc biệt phải
cạnh tranh với hàng Trung Quốc.Về công nghệ sản xuất hiện nay, ngành may mới
chỉ chú trọng đầu tư sản xuất vào một số mặt hàng nhạy cảm,đơn giản, dễ thu lợi
nhuận như sơ mi nam nữ,áo Jacket, quần âu, các sản phẩm dệt kim, khăn
bông...còn công nghệ sản xuất những mặt hàng có chất lượng và giá trị cao vẫn còn
gần như bị bỏ trống, đó là các sản phẩm dệt có nguồn gốc tơ tằm, vải cao cấp, áo
comple, quần áo dệt kim thể thao, vải jean,thun từ nguyên liệu sợi đàn hồi... còn

chưa đáng kể,kiểu mẫu còn ít và chưa tiếp cận được với thị trường may mặc luôn
luôn biến động của thế giới. .Đa phần các công ty may mặc mới chỉ sản xuất theo
yêu cầu của khách hàng mà chưa chủ động nghiên cưú và đưa ra những mẫu mã
riêng của mình.


Bên cạnh đó, tình trạng thiếu công nhân nhất là đội ngũ công nhân có tay nghề
cao cũng đã ảnh hưởng nhiều tới hoạt động sản xuất của mỗi doanh nghiệp. Tiến
độ đầu tư trong chiến lược tăng tốc và phát triển ngành dệt may còn rất chậm chưa
theo kịp với sự phát triển của sản xuất hàng xuất khẩu.
Tính nhạy bén của các doanh nghiệp , nhất là các doanh nghiệp trong nước
trước những diễn biến của thị trường là rất thấp.Như chúng ta đã biết, ngay sau khi
Hiệp định Thương Mại Việt Nam –Hoa Kỳ được ký kết, thị trường Mỹ mở ra là cơ
hội để ta xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, trong đó có mặt hàng dệt may xuất khẩu của
chúng ta.Một số nhà đầu tư nước ngoài đã nắm bắt nhanh chóng cơ hội này, họ đầu
tư đón đầu và nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa
Kỳ để được hưởng những lợi ích khi mà Mỹ chưa áp đặt hạn ngạch. Chính vì vậy
hiệu quả xuất khẩu của họ rất cao.
Còn các doanh nghiệp trong nước, chỉ khi xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ
có dấu hiệu nóng lên thì các doanh nghiệp mới bắt đầu có kế hoạch đầu tư trang
thiết bị máy móc nhà xưởng để sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường này, tình
trạng đầu tư quá ồ ạt mà không tính tới khả năng Mỹ sẽ nhanh chóng áp đặt hạn
ngạch.
Việc phân bổ hạn ngạch hàng dệt may còn nhiều điều bất cập trong khi thực
hiện, đó là số hạn ngạch ít ỏi được chia đều giữa các doanh nghiệp khiến các doanh
nghiệp không thể có hạn ngạch để đáp ứng những đơn đặt hàng có số lượng
lớn.Theo thống kê Bộ Thương Mại tính đến nay có hơn 700 doanh nghiệp xuất
khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ nhưng nhiều doanh nghiệp không có đủ
hạn ngạch cho các đơn hàng ký trong năm nay. Có không ít doanh nghiệp đã sản
xuất ra sản phẩm nhưng đang bị tồn đọng trong kho không thể xuất đi được do

thiếu hoặc không có hạn ngạch để xuất khẩu. Lượng quota được cấp trong năm
2003chỉ đủ sản xuất vỏn vẹn trong 2 tuần là hết.Căng thẳng nhất là các Cat.
351,338.Một số doanh nghiệp còn cho biết hiện có không ít khách hàng do quá thất
vọng trước vấn đề hạn ngạch của Việt Nam đã có ý định từ chối làm ăn với các
doanh nghiệp Việt Nam ngay cả khi các doanh nghiệp này đã có đủ hạn ngạch
được giao để ký kết hợp đồng và chuyển sang các thị trường khác trong khu vực


như Philippine, Campuchia, Bangladesh, .... để đặt hàng. Chủ tịch Hiệp Hội các
nhà sản xuất hàng may mặc Hàn Quốc tại Hà Nội ,đại diện cho hơn 100 công ty
Hàn Quốc dự đoán một số công ty sẽ phải tạm ngừng sản xuất trong những tháng
tới vì thiếu hạn ngạch xuất khẩu.Còn công ty Fashionline Sài Gòn cho biết công ty
phải chuyển một số đơn hàng trị giá 600.000 USD của tháng 6,tháng 7 sang các
nhà máy ở Srilanka, ấn độ, Madagasca để đảm bảo tiếp tục duy trì thị phần và
khách hàng.
Như vậy, cùng với việc Campuchia có thể sẽ gia nhập tổ chức Thương Mại
thế giới (WTO) vào cuối năm nay, dự báo xuất khẩu hàng dệt may của ta nói chung
và sang thị trường Mỹ nói riêng sẽ càng khó khăn hơn và nguy cơ mất một số
khách hàng ổn định, tiềm năng tại thị trường Mỹ là điều khó tránh khỏi.
Còn đối với thị trường EU, tính riêng năm 2002 chỉ có 15 trong tổng số 29
Cat. áp dụng hạn ngạch đã được thực hiện hết, một số Cat. thực hiện đạt rất thấp
như Cat.10 mới đạt 21,62%,Cat.12 chỉ đạt 4,91% đặc biệt Cat.21(áo jacket)cũng
mới chỉ thực hiện được 79,4% hạn ngạch được giao.Bên cạnh những mặt hàng
thuộc diện phân bổ hạn ngạch thì xuất khẩu hầu hết những mặt hàng không phải
chịu hạn ngạch đạt rất thấp.Điều này cho thấy khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may của nước ta nhìn chung còn yếu.Đâylà một khó khăn cho các doanh nghiệp
dệt may nước ta khi mà chế độ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU được dỡ
bỏ vào năm 2005.
Tính đa dạng thị trường của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam còn thấp , phụ
thuộc nhiều vào một số thị trường chính.Ngoài ra, thông tin mang tính định hướng

của các cơ quan quản lý Nhà nước còn yếu kém và thiếu đồng bộ hay còn sơ sài,
chưa được đầu tư đúng mức.. Mặc dù đã xuất khẩu sang Mỹ trong một thời gian
khá dài nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp không hiểu gì về khái niệm, cách phân
loại cũng như độ “nóng” của mỗi Cat. khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ, có nhiều
doanh nghiệp còn tỏ ra lúng túng khi áp mã các Cat. hàng dệt may xuất khẩu sang
thị trường này.
Trong xu thế hội nhập , ngành dệt may Việt Nam còn phải cạnh tranh gay gắt
với các cường quốc xuất khẩu hàng dệt may lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Hồng


Kông, Hàn Quốc, Đài Loan,...Đặc biệt từ ngày 1/1/2006 thuế suất nhập khẩu hàng
dệt may từ các nước AFTA (ASEAN) vào thị trường Việt Nam sẽ giảm từ 45-50%
xuống còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng
nhập từ các nước trong khu vực với công suất, sản lượng cao hơn và chủng loại
phong phú hơn.
Như vậy nếu ngành dệt- may Việt Nam không định ra được hướng đi phát
triển trong thời gian tới, thì hàng dệt may Việt Nam không những có nguy cơ bị
mất thị phần ở các nước xuất khâủ lớn mà còn khó khăn khi giữ vững được thị
trường trong nước đầy tiềm năng với mặt hàng này .Tuy vậy, chúng ta vẫn hy vọng
rằng với những lợi thế so sánh đầy thuận lợi cùng với chiến lược tăng tốc ngành
dệt may đến năm 2010, dệt may Việt Nam sẽ khắc phục được những hạn chế và
trở ngại để tiếp tục phát triển và đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển
kinh
tế nước nhà.


Chương II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY TẠI CÔNG TY TNHH MINH TRÍ.

I/ VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TNHH MINH TRÍ
1.Quá trình hình thành
Công ty TNHH Minh Trí trực thuộc Bộ Ngoại Thương(nay là Bộ Thương
Mại) được chính thức thành lập ngày 26/5/1995 theo giấy phép thành lập Công Ty
số 1906GP/ UB do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 22/6/1995, với
thời hạn hoạt động đăng ký ban đầu là 40 năm. Khi mới thành lập, công ty có trụ
sở giao dịch tại :số 6, ngõ Thịnh Hào I, Phố Tôn Đức Thắng, Quận Đống Đa, Hà
Nội nhưng kể từ ngày 24/11/1995, trụ sở lại được chuyển về Xóm 2, Xã Lĩnh
Nam, Thanh Trì, Hà Nội .
Tên công ty

:Công ty TNHH Minh Trí

Tên giao dịch : MINH TRI CO.,LTD
Mã số XNK (mã số Hải Quan): 0100737679-1
Điện thoại

:6446802 / 6441457

Email

:

Fax:6446602

Giấy phép đăng ký kinh doanh số :049480 do Uỷ ban kế hoạch nhà nước Thành Phố Hà Nội cấp ngày 16/5/1995.
Số tài khoản tại Ngân Hàng Vietcombank Hà Nội : 0021000003491
Địa chỉ giao dịch : Khu công nghiệp Vĩnh Tuy-Hoàng Mai - Hà Nội
Địa chỉ cơ sở sản xuất chính: KCN Vĩnh Tuy – Hoàng Mai - Hà Nội
Công ty trực thuộc Bộ Thương Mại, hoạt động theo luật công ty,theo pháp

luật hiện hành của Nhà nước và thành phố Hà Nội. Công ty TNHH Minh Trí là một
tổ chức có tư cách pháp nhân,hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng và được
mở tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ tại Ngân Hàng theo quy định của pháp luật.
Theo nhu câù phát triển ngày một cao của công ty, ngày 22/1/1999, công ty
có mở thêm một chi nhánh tại Thành phố Hải Phòng, theo Giấy phép đăng ký kinh
doanh số 309514 do sở Kế Hoạch và Đầu Tư thành phố Hải Phòng cấp.Chi nhánh
này có nhiệm vụ làm đầu mối giao dịch tiếp nhận hàng xuất nhập khẩu của công ty


qua cảng Hải Phòng, phục vụ sản xuất kinh doanh của công ty, giới thiệu sản phẩm
may.Có thể nói, việc ra đời chi nhánh này đã giúp ích rất nhiều cho hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu của công ty,làm cho mọi thủ tục tiến hành được nhanh
chóng và thông suốt, đảm bảo được đúng tiến độ làm hàng gia công xuất khẩu theo
yêu cầu của khách hàng nước ngoài .
2.Chức năng, nhiệm vụ
Với ngành nghề kinh doanh mà công ty đã đăng ký: May công nghiệp, đại lý
mua bán, ký gửi hàng hoá và làm dịch vụ thương mại.Thông qua hoạt động đẩy
mạnh việc sản xuất hàng dệt may xuất khẩu,làm tốt công tác nhập khẩu phục vụ
sản xuất hàng xuất khẩu , công ty muốn góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá,
đảm bảo công ăn việc làm và quyền lợi chính đáng cho người lao động, tăng thu
ngoại tệ và phát triển kinh tế đất nước,đóng vai trò tích cực trong việc mở rộng
giao lưu với các bạn hàng nước ngoài và nâng cao uy tín của công ty cũng như của
Việt Nam trên thị trường thế giới.Cụ thể nhiệm vụ chủ yếu của công ty là :
- Xuất khẩu hàng dệt may hoặc uỷ thác xuất khẩu hàng dệt may cho các đơn
vị khác hoặc nhờ đơn vị khác uỷ thác xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu trực tiếp.
- Nhập khẩu máy móc phụ tùng, vật tư, thiết bị chuyên ngành, nguyên phụ
liệu phục vụ cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu theo yêu cầu của toàn ngành.
- Tổ chức nghiên cứu tốt thị trường trong và ngoài nước, nắm vững nhu cầu,
thị yếu trên thị trường để hoạch định các chiến lược marketing đúng đắn, đảm bảo
cho kinh doanh của công ty được chủ động, tránh rủi ro và mang lại hiệu quả tối ưu

.
- Tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ của công ty, quản lý
khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó, đảm bảo đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh, đổi mới trang thiết bị bù đắp các chi phí, cân đối giữa xuất và nhập,
làm tròn nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch
xuất nhập khẩu ngày càng cao.
- Tuân thủ các chính sách chế độ quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối
ngoại theo chế độ quản lý kinh tế tài chính của nhà nước.


- Thực hiện tốt các chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, tài chính lao
động, tiền lương, tiền thưởng… do công ty quản lý, làm tốt công tác phân phối lao
động , đảm bảo công bằng xã hội, quản lý tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên của
công ty , đào tạo cán bộ công nhân viên thành thạo nghiệp vụ, hiểu biết về pháp
luật, thị trường phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Nghiên cứu thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng, gia tăng khối
lượng hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế nhằm góp phần thu hút ngoại tệ,
phát triển xuất nhập khẩu.
- Làm tốt các công tác bảo hộ lao động và an toàn lao động, trật tự xã hội bảo
vệ môi trường, bảo vệ tài sản XHCN, bảo đảm an ninh làm tròn nghĩa vụ quốc
phòng.
Từ khi thành lập đến nay, Công ty đã cố gắng phát triển mở rộng sản xuất
kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động góp phần
tăng ngân sách nhà nước và mở rộng thêm các thị trường mới.
3. Quá trình phát triển
Để phục vụ cho việc sản xuất, ngày 12/4/2000 công ty đã thuê được 5000 m 2
đất ở Khu Công Nghiệp Vĩnh Tuy để làm nhà cơ sở sản xuất chính và đến tháng
8/2002 được sự giúp đỡ của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và các cơ quan
chức năng, công ty TNHH Minh Trí đã khánh thành một nhà máy mới với tổng

diện tích nhà xưởng được xây mới là 8200 m 2 trên diện tích mặt bằng 5000 m2.
nâng năng lực sản xuất lên tới 300.000 nghìn sản phẩm dệt kim/tháng, gấp 5 lần
sản lượng trước đây. Trong đó riêng diện tích nhà xưởng may là 2.100 m 2 .Như
vậy, tổng số lượng máy móc được đầu tư mới hoàn toàn là 1425 bộ và đã tạo thêm
việc làm cho trên 1400 người USD.
Nhờ việc đi tắt đón đầu, chú trọng vào việc trang bị nhiều máy móc thiết bị
hiện đại, cơ sở vật chất được đổi mới hoàn toàn theo hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nên sản phẩm làm ra có chất lượng cao và ổn định, luôn đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng và ngày càng có uy tín đối với các bạn hàng.Trước kia, sản
phẩm của công ty chủ yếu tập trung vào một số sản phẩm có công nghệ đơn giản


như: áo sơ mi nam nữ, áo jacket,quần âu nam nữ ....thì cho tơí nay công ty đã phát
triển thêm rất nhiều chủng loại hàng với chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, màu sắc
phong phú, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của nhiều đối tượng khách hàng và thâm
nhập được vào nhiều thị trường có uy tín như : EU, Nhật Bản, Mỹ, Canada, Italia,
Pháp.Đức, Hồng Kông, Tiệp, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ,....Đặc biệt phải kể đến một số
sản phẩm chủ lực của công ty như áo polo- shirt, áo T – shirt, quần dệt kim nam nữ
bằng chất liệu cotton có công suất sản xuất rất cao (xem bảng dưới đây) được
khách hàng nước ngoài rất ưa chuộng, ngoài ra một số các sản phẩm khác như: áo
sơ mi nam nữ chất liệu cotton, quần âu vải cotton, quần âu vải nhân tạo, áo jacket,
áo khoác vải dệt kim, váy , bộ quần áo thể thao, bộ đồ jean, áo nỉ, mũ mùa hè, dây
buộc giầy,.... cũng thu được kết quả xuất khẩu khá khả quan.
Tính đến thời điểm hiện nay, công ty có tổng số là 1350 công nhân trong đó số
người tốt nghiệp đại học hay trung cấp kỹ thuật gồm 86 người, 1125 công nhân kỹ
thuật và 139 công nhân khác.Cơ sở vật chất nhà xưởng của công ty luôn được chú
trọng đầu tư mới và nâng cấp hàng năm, với một hệ thống máy móc thiết bị hiện
đại năng suất cao gồm có 1150 máy may các loại,12 máy cắt,1 máy vẽ sơ đồ,6 máy
thêu,65 máy vắt sổ,9 máy đánh bọ,24 máy thùa khuyết và đính cúc,8 máy giặt
mài,38 máy là hơi và 68 thiết bị chuyên dụng khác dùng trong sản xuất hàng may

mặc. Có thể nói công ty đã trang bị tương đối đầy đủ các máy móc chuyên dụng
cần thiết để đảm bảo sản xuất được diễn ra nhịp nhàng, liên tục. Đa phần máy móc
kỹ thuật đều được nhập mới 100% từ các hãng nổi tiếng như Juki (Nhật),
Brotherexedra, Kansai, Fukuoka (HồngKông), Egasus (Nhật), Gerber (Mỹ), VeiT
(Đức).... Cụ thể có 450 máy may mới 100% được nhập khẩu từ Nhật Bản.
4. Cơ cấu tổ chức của công ty.
Trong xu thế hội nhập mở cửa của Việt Nam với nền kinh tế quốc tế, bên cạnh
những thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa mang lại, những khó khăn đối với
những doanh nghiệp trong nước không phải là ít.Để đứng vững và tồn tại trong
môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt, điều cần thiết đối với các công ty là phải
thiết lập cho riêng mình một một bộ máy quản lý thật hiệu quả vừa đảm bảo tính
khoa học nhưng cũng phải đảm bảo được tính linh hoạt nhạy bén nắm bắt thời cơ


×