Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tâm lý học dưới góc nhìn Aristotle thời cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.33 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC


TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
Giảng viên: Th.S Lê Duy Hùng

TÂM LÝ HỌC DƯỚI GÓC NHÌN ARISTOTLE
THỜI CỔ ĐẠI

Sinh viên thực hiện: ĐỖ MẠNH AN
Mã số sinh viên: 42.01.611.002
Lớp sinh viên: TLH K42.A

TP Hồ Chí Minh, tháng 6/2018


MỤC LỤC
1.

Phần mở đầu………………………………………………………………………..3

2.

Phần nội dung………………………………………………………………………3
2.1.

Tiểu sử Aristotle…………………………………………………………….3

2.2.



Các qua điểm về tư tưởng triết học và tâm lý học của Aristotle……………4

2.2.1. Nguyên lý nhân quả và nguyên lý cứu cánh…………………………….5
2.2.2. Thứ bậc của các loại “hồn”……………………………………………...6
2.2.3. Cảm giác………………………………………………………………...7
2.2.4. Công cảm, lý trí thụ động và lý trí chủ động……………………………7
2.2.5. Trí nhớ và hồi tưởng…………………………………………………….9
2.2.6. Tưởng tượng và giấc mơ………………………………………………10
2.2.7. Động lực……………………………………………………………….11
2.2.8. Các cảm xúc và tri giác chọn lọc………………………………………12
3. Những khác biệt cơ bản giữa Plato và Aristotle…………………………………..12
4. Những đóng góp của Aristotle cho Tâm lý học…………………………………..14
5. Kết luân…………………………………………………………………………...14

2


1. Phần mở đầu
Học lịch sử tâm lý học cho phép sinh viên đặt tâm lý học hiện đại trong viễn
tượng lịch sử, hiểu tâm lý học hiện đại đầy đủ hơn, nhận ra rằng những gì thịnh hành
trong tâm lý học thì thường được quyết định bởi các yếu tố xã hội và tâm lý, thấy được
các sai lầm của quá khứ để không lặp lại chúng một lần nữa, khám phá ra các ý tưởng
có ích lợi tiềm tàng, thỏa mãn sự tò mò về một điều được coi là quan trọng. Trên đây là
những lí do trả lời cho câu hỏi “Tại sao chúng ta cần học lịch sử Tâm lý học?”
Có thể khẳng định học lịch sử Tâm lý học là rất cần thiết. Khi học lịch sử
Tâm lý học không thể nào bỏ qua thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Hy Lạp cổ đại được biết đến
như một nền văn minh tiêu biểu cho sức sống mạnh mẽ của nhân loại, là cột mốc đánh
dấu nhân loại bước vào một thời đại văn minh.Tổ tiên của người Hy Lạp là một trong
những bộ tộc thuộc ngữ hệ Ấn-Âu từ hạ lưu sông Đanuyp di cư xuống bán đảo Bankan

rồi định cư ở ven biển Êgiê.Chế độ chiếm hữu nô lê ở Hy Lạp hình thành từ khoảng thế
kỷ X đến thế kỷ III TCN. Sự tách rời thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp và tách rời
lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay tạo điều kiện sâu sắc thêm sự phân công lao
dộng xã hội. Aten có vị trí thuận lợi về nhiều mặt cho sự phát triển, dần trở thành một
trung tâm văn hóa nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, cái nôi của triết học châu Âu. Ngoài triết
học, các ngành khoa học khác của Hy Lạp cũng phát triển khá mạnh như toán học, thiên
văn học, địa chất, y học,...Vậy “Tâm lý học trong thời kỳ này đã có những bước phát
triển gì và phát triển như thế nào?”- Đây là một câu hỏi khá hấp dẫn.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, đã nổi bật lên ba nhà khoa học vĩ đại đó chính là Socrates,
Plato và Aristotle. Đặc biệt Aristotle được đánh giá là tác gia vĩ đại nhất của Tâm lý học
cổ đại với tác phẩm nổi tiếng lúc bấy giờ “Bàn về tâm hồn”. Hêghen đã nhận định rằng,
“những gì tốt nhất mà đã có trong Tâm lý học cho đến thời đại ngày nay, là những cái
chúng ta đã nhận được từ Aristotle”.
Từ những quan điểm trên, tôi quyết định thực hiện đề tài “Tâm lý học dưới góc
nhìn Aristotle- Thời cổ đại”

2. Phần nội dung
2.1. Tiểu sử Aristotle
Aristotle (384 - 322 TCN.) tên gốc Hy Lạp là Aristotleles, là tác gia vĩ đại
nhất của Tâm lý học cổ đại, ông sinh tại Stagira, một thành phố ít được biết đến của
Macedonia, nằm giữa Biển Đen và Biển Aegea. Cha ông là Nicomachus, quan thái y
3


của vua Amyntas III của Macedonia. Theo tập tục Hy Lạp, cha của Aristotle đã giáo dục
ông theo nghề y. Năm 367 TCN., Aristotle sang Nhã Điển và chỉ một thời gian ngắn sau
đã trở thành một sinh viên xuất sắc nhất của Plato; lúc ấy ông 17 tuổi. Khi Plato mất
năm 347 TCN., Aristotle đến Tiểu Á và tại đây ông chuyên nghiên cứu lãnh vực sinh
vật và động vật học. Năm 343 TCN., Aristotle được mời dạy học cho hoàng tử của vua
Philip, là Đại đế Alexander tương lai, và tiếp tục công việc này trong bốn năm. Sau một

ít chuyến hành trình nữa, Aristotle quay trở về Nhã Điển, tại đây năm 48 tuổi, ông mở
trường riêng, lấy tên là Lyceum. Vì trường Lyceum có nhiều giáo sư, có các lớp học
thường xuyên, một thư viện dồi dào, và những sưu tập đầy đủ về khoa học tự nhiên, nên
nó được coi là trường đại học đầu tiên trên thế giới. Khi Đại đế Alexander mất năm 323
TCN., Aristotle trốn khỏi Nhã Điển và một năm sau ông qua đời tại Challis. Aristotle là
triết gia đầu tiên nghiên cứu sâu rộng nhiều đề tài mà sau này sẽ là thành phần của tâm
lý học. Trong kho tác phẩm đồ sộ của ông, ông bàn đến các đề tài như trí nhớ, cảm giác,
giấc ngủ, giấc mơ, lão khoa, và sự học tập. Ông cũng mở đầu tác phẩm De Anima (Về
Linh Hồn) của ông với những điều được coi là lịch sử tâm lý học đầu tiên. Chỉ riêng
những cống hiến của ông cho tâm lý học mà thôi thì cũng đã thực sự quá ấn tượng rồi.
Tuy nhiên, phải nói rằng ông đã có những cống hiến cho mọi ngành khoa học, có lẽ chỉ
trừ toán học. Ảnh hưởng các tư tưởng của ông đối với các đề tài triết học và khoa học
như luận lí học, siêu hình học, vật lý học, sinh vật học, đạo đức học, chính trị học, tu từ
học, và thi ca đã tồn tại lâu dài. Người ta thường nói Aristotle là con người cuối cùng
biết mọi cái có thể biết khi còn sống.

2.2. Các qua điểm về tư tưởng triết học và tâm lý học của Aristotle
Bằng việc phân tích tác phẩm “ Bàn về tâm hồn” của Aristotle có thể thấy:
Aristotle rất coi trọng khía cạnh tâm hồn trong con người.Ông kêu gọi mọi người
hãy đi vào nghiên cứu tâm hồn. Khi hệ thống lại các nghiên cứu về tâm hồn đã có, theo
ông có 3 quan niệm chính như sau:
Tâm hồn là cái có khả năng vận động cao nhất, vì nó tự vận động.
Tâm hồn mang tính chất thân thể cấu tạo nên từ các hạt nhỏ nhất, hay tâm hồn ít
tính chất thân thể hơn tất cả các cái khác.
Tâm hồn hợp bởi các yếu tố đất, nước, khí, lửa.
Aristotle đã đưa ra quan niệm của ông về tâm hồn:
4


Tâm hồn bao gồm cả tư duy, trí nhớ, tình cảm, các quá trình và trạng thái tâm lý,

các hành động tác động vào thế giới bên ngoài.
Muốn hiểu tâm hồn, phải đi tìm mối quan hệ ngoài tâm hồn, đó là mối quan hệ
giữa tâm hồn, tâm lý và cơ thể.
“ Tâm hồn là cái tự đích của thân thể tự nhiên và có khả năng sống”
Chỉ có những vật thể tự nhiên nào có sự sống mới có tâm hồn.
Theo Aristotle, có 3 loại tâm hồn:
Tâm hồn dinh dưỡng đảm bảo chức năng nuôi dưỡng, sinh nở.
Tâm hồn cảm giác thụ cảm, đảm nhận chức năng cảm thụ, ước mong và vận
động.
Tâm hồn suy nghĩ đảm nhận chức năng lý giải, lập luận, biểu tượng, tưởng tượng.

2.2.1. Nguyên lý nhân quả và nguyên lý cứu cánh
Theo Aristotle, để thực sự hiểu biết về một vật gì, chúng ta phải biết bốn điều về
nó. Nghĩa là, mọi vật đều có bốn nguyên nhân:
 Nguyên nhân chất thể là chất liệu của một vật. Ví dụ, một pho tượng được làm
bằng cẩm thạch.
 Nguyên nhân mô thể là hình dạng hay kiểu mẫu nhất định của một vật. Ví dụ,
một phiến đá cẩm thạch có hình của thần Vệ Nữ.
 Nguyên nhân tác thành là lực biến đổi chất liệu thành một hình dạng nhất định
- ví dụ, sức lực của nhà điêu khắc.
 Nguyên nhân cứu cánh là mục đích mà một vật tồn tại. Trong trường hợp pho
tượng, mục đích có thể là đem lại sự vui thích cho người chiêm ngưỡng nó.
Triết học Aristotle là triết học cứu cánh vì theo ông, mọi sự vật trong thiên nhiên
đều tồn tại vì một mục đích. Tuy nhiên, mục đích theo Aristotle hiểu không phải là một
ý hướng có ý thức. Đúng hơn, ông hiểu rằng mọi sự vật trong thiên nhiên đều có một
chức năng bao hàm nội tại trong nó. Mục đích nội tại, hay chức năng này, được gọi là
cứu cánh thể (entelechy). Cứu cánh thể làm cho một vật chuyển động hay phát triển theo
hướng đã định trước cho tới khi tiềm năng của nó đạt tới mức hoàn hảo. Ví dụ, mặt có
mục đích cung cấp thị giác, và nó tiếp tục phát triển cho đến khi nó làm được điều này.
Nguyên nhân cứu cánh của các sinh vật là thành phần của bản tính của nó; nó tồn tại

như một tiềm thể ngay từ khởi điểm của sinh vật. Một quả sồi có tiềm năng trở thành
5


một cây sồi, nhưng không thể trở thành một con ếch hay một cây ô - liu. Nói khác đi,
mục đích hay cứu cánh thể của một quả sồi là trở thành một cây sồi. Thiên nhiên có đặc
tính là thay đổi hay chuyển động, và sự thay đổi này diễn ra khi các vật biến đổi dần dần
từ tiềm thể của chúng sang hiện thể - nghĩa là khi các sự vật chuyển động hướng tới
nguyên nhân cùng đích hay cứu cánh của chúng, như khi một quả sồi biến thành một
cây sồi. Nguyên nhân mục đích hay cứu cánh của một vật cũng được Aristotle gọi là
yếu tính của vật ấy. Theo Aristotle, mọi vật trong thiên nhiên, dù là sinh vật hay các vật
vô sinh đều có một mục đích nội tại trong chúng. Nhưng hơn thế nữa, chính thiên nhiên
cũng có một mục đích hay cứu cánh lớn. Mặc dù Aristotle tin rằng các phạm trù trong
thiên nhiên luôn luôn cố định, và vì thế ông phủ nhận sự tiến hóa, nhưng ông cũng nói
đến một bậc thang giá trị lớn giữa mọi sự vật ông gọi nó là scala naturae, bậc thang thiên
nhiên, nghĩa là thiên nhiên được sắp đặt theo một bậc thang đi từ chất thể trung lập lên
tới một tác nhân không bị tác động, hay tác nhân đệ nhất, là hiện thể thuần túy và là
nguyên nhân của mọi sự trong thiên nhiên. Theo Aristotle, tác nhân không bị tác động
là cái tạo cho mọi sự vật tự nhiên mục đích của chúng. Trong bậc thang thiên nhiên, vật
gì càng gần với tác nhân không bị tác động thì càng hoàn hảo. Giữa các động vật, loài
người ở gần nhất với tác nhân không bị tác động, còn mọi động vật khác đều ở các bậc
thang khác nhau bên dưới loài người. Tuy Aristotle không chấp nhận sự tiến hóa, bậc
thang thiên nhiên của ông cũng tạo ra một cấp trật các giống và loài đủ loại khác nhau,
nhờ đó chúng ta có thể nghiên cứu các động vật "thấp hơn" để hiểu biết về con người.
Tuy nhiên, sự hiểu biết này luôn luôn có giới hạn, vì theo Aristotle, con người là loài
độc nhất vô nhị giữa các loài động vật. Ở đây vẫn thế, lập trường của Aristotle có tính
chất hoàn toàn cứu cánh: Mọi vật trong thiên nhiên đều có một mục đích, và thiên nhiên
tự nó cũng có một mục đích.

2.2.2. Thứ bậc của các loại “hồn”

Đối với Aristotle, cũng như đối với đa số nhà triết học Hy Lạp, hồn là cái
cho sự sống; vì vậy, mọi sinh vật đều có một hồn. Theo Aristotle, có ba loại hồn, và tiềm
thể (mục đích) của một sinh vật được xác định bởi loại hồn mà nó có:
 Các loại cây cỏ thì có hồn thực vật (hay dinh dưỡng). Hồn thực vật chỉ cho sự
tăng trưởng, hấp thu sự dinh dưỡng, và sinh sản.

6


 Các loài động vật thì có giác hồn mà các loại cây cỏ không có. Ngoài các chức
năng trên, các sinh vật có giác hồn thì cảm giác và phản ứng với môi trường xung
quanh, cảm nghiệm khoái lạc và đau khổ, và có trí nhớ.
 Chỉ loài người có linh hồn (hay hồn lý tính). Nó cung cấp mọi chức năng của hai
loại hồn trên nhưng còn cho con người biết suy nghĩ bằng lý trí.

2.2.3. Cảm giác
Aristotle nói rằng nhận thức về môi trường xung quanh được cung cấp bởi
ngũ quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, và khứu giác. Khác với các nhà triết học
thời trước (Empedocles và Democritus), Aristotle không tin rằng các sự vật phát ra các
bản sao cực nhỏ của bản thân chúng (eidola). Ngược lại, ông cảm thấy rằng tri giác được
giải thích bằng chuyển động của các sự vật kích thích một trong năm giác quan. Chuyển
động của các sự vật xung quanh tạo các chuyển động xuyên qua các môi trường khác
nhau, và mỗi giác quan nhạy cảm với các chuyển động trong một môi trường nhất định.
Ví dụ, thị giác là do chuyển động của ánh sáng phát ra từ một vật, thính giác và khứu
giác phát xuất từ chuyển động của không khí, và vị giác và xúc giác phát xuất từ chuyển
động của da thịt. Bằng cách này, Aristotle giải thích làm thế nào chúng ta có thể thực sự
cảm giác các sự vật xung quanh mà không cần các vật ấy phát ra các bản sao vật lý của
chúng. Khác với Phao, Aristotle tin rằng chúng ta có thể tin cậy các giác quan trong việc
chúng cung cấp cho chúng ta một biểu thị chính xác về các vật xung quanh.


2.2.4. Công cảm, lý trí thụ động và lý trí chủ động
Tuy dữ liệu của cảm giác đối với Aristotle rất quan trọng, nó cũng chỉ là bước
đầu của tri thức. Nói khác đi, kinh nghiệm giác quan là một yếu tố cần nhưng không đủ
để đạt đến tri thức. Trước hết, mỗi hệ giác quan cung cấp các thông tin riêng rẽ về mỗi
môi trường, mà tự chúng không ích lợi bao nhiêu. Ví dụ, nhìn một đứa bé lăn lộn trên
giường chỉ cung cấp cho chúng ta một phần hiểu biết về tình trạng của nó, nghe nó khóc
cho chúng ta một chìa khóa khác, ngửi mùi nó toát ra có thể cho một chìa khóa khác, và
sờ vào người nó có thể cho biết nó đang bị sốt. Chính sự phối hợp các thông tin của tất
cả các giác quan sẽ cho chúng ta có những tương tác hiệu quả nhất với môi trường.
Aristotle đưa ra một định đề cho rằng có một lương tri, như là cơ chế hoạt động phối
hợp thông tin từ mọi giác quan. Giống như mọi chức năng tinh thần khác, lương tri được
nghĩ là nằm ở tim. Nhiệm vụ của công cảm là tổng hợp các kinh nghiệm cảm giác, nhờ
đó làm cho nó trở nên ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, các thông tin của giác quan, cả sau khi
7


nó đã được tổng hợp bởi công cảm, cũng chỉ cung cấp thông tin về các trường hợp đặc
thù của sự vật. Lý trí thụ động bao gồm việc sử dụng kinh nghiệm đã tổng hợp được để
sống đời sống hằng ngày một cách hiệu quả, nhưng nó không tạo ra một sự hiểu biết về
các yếu tính, hay nguyên lý đệ nhất của sự vật. Các nguyên lý đệ nhất chỉ có thể được
trừu tượng hóa từ nhiều kinh nghiệm khác nhau của một người nhờ lý trí chủ động, được
coi là hình thức tư duy cao nhất. Vì vậy Aristotle vạch ra các cấp tri thức hay hiểu biết
rất giống với đường ranh giới của Plato. Các cấp tri thức này là:
 Lý trí chủ động: Sự trừu tượng hóa các nguyên lý, hay yếu tính, từ các kinh
nghiệm đã tổng hợp.
 Lý trí thụ động: Sử dụng các kinh nghiệm đã tổng hợp.
 Lương tri: Các kinh nghiệm được tổng hợp.
 Dữ liệu cảm giác: Các kinh nghiệm riêng rẽ.
Một ví dụ cho thấy các cấp độ tri thức này liên quan thế nào với nhau có thể là việc
kinh nghiệm về điện nhờ các cảm giác như thị giác (thấy một tia điện phát ra), đau (bị

điện giật), và thính giác (nghe tiếng tia điện xoẹt ra). Các kinh nghiệm này có thể tương
ứng với cấp độ thu nhận cảm giác. Công cảm sẽ cho thấy tất cả các kinh nghiệm này có
một nguồn gốc chung - điện. Lý trí thụ động sẽ cho thấy điện có thể được sử dụng vào
các cách thực tế khác nhau, trong khi lý trí chủ động sẽ tìm ra các định luật chi phối điện
và sự hiểu biết về yếu tính của điện. Cái bắt đầu là một tập hợp các kinh nghiệm thường
nghiệm dẫn đến việc tìm kiếm các nguyên lý có thể cắt nghĩa các kinh nghiệm ấy. Phần
lý trí chủ động của linh hồn cung cấp cho con người mục đích cao nhất của họ. Nghĩa
là, nó cung cấp cho họ cứu cánh thể của họ. Cũng như mục tiêu cuối cùng của một quả
sồi là trở thành một cây sồi, mục tiêu cuối cùng của một người là vận dụng lý trí chủ
động. Aristotle cũng tin rằng hành động phù hợp với bản tính của mình tạo ra sự thích
thú và hành động ngược lại tạo ra đau khổ. Trong trường hợp con người, hành động theo
lý trí chủ động là nguồn khoái lạc cao nhất của con người. Về vấn đề này, Aristotle chủ
yếu đồng ý với Socrates và Plato. Hơn nữa, vì Aristotle giả thiết có một tiềm năng nội
tại mà con người có thể đạt đến hay không, nên lý thuyết của ông được coi là lý thuyết
đầu tiên của tâm lý học về sự tự thể hiện mình. Các lý thuyết về sự tự thể hiện của Jung,
Maslow, và Rogers phản ánh các tư tưởng của Aristotle về cứu cánh thể. Với khái niệm
của ông về lý trí chủ động, Aristotle đưa một yếu tố thần bí hay siêu nhiên vào cho lý
thuyết duy nhiên thông thường. Phần lý trí chủ động của linh hồn được coi là bất tử,
nhưng khi nó rời bỏ thân xác khi chết, nó không mang theo một sự hồi tưởng nào. Nó
8


được coi là một cơ chế hoạt động cho tư tưởng thuần túy và được tin là giống nhau nơi
mọi người. Nó không được đánh giá theo tính cách đạo đức của con người có nó trước
kia, và không có sự hợp nhất hay tái hợp với Thượng Đế. Phần chủ động của linh hồn
không đi lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Tuy nhiên, về sau cách giải thích của Kitô
giáo về linh hồn theo Aristotle sẽ mang tất cả các tính chất này. Một thành phần thần bí
khác trong lý thuyết của Aristotle là khái niệm của ông về tác nhân không bị tác động.
Theo Aristotle, mọi sự vật trong tự nhiên có một mục đích đã được lập trình sẵn trong
đó. Mục đích hay cứu cánh thể này giải thích tại sao một vật lại tồn tại như nó đang tồn

tại và tại sao nó làm như nó đang làm. Nhưng nếu mọi vật trong thiên nhiên đều có một
mục đích, vậy thì cái gì là nguyên nhân của mục đích ấy? Như chúng ta đã thấy, Aristotle
giả thiết một tác nhân không bị tác động, hay một tác nhân tạo ra mọi vật khác nhưng
chính nó không do một cái gì khác tạo ra. Theo Aristotle, tác nhân không bị tác động
làm cho mọi vật chuyển động, ngoài ra nó không làm một điều gì khác; nó là một sự tất
yếu lý luận, chứ không phải một thượng đế. Cùng với khái niệm Aristotle về tính bất tử
của linh hồn, người Kitô giáo cũng thấy khái niệm của ông về một tác nhân không bị tác
động rất phù hợp với giáo lý của họ.

2.2.5. Trí nhớ và hồi tưởng
Hợp với khía cạnh thường nghiệm của triết học của ông, Aristotle cắt nghĩa trí nhớ
và sự hồi tưởng như là kết quả của tri giác. Lý thuyết này tương phản với cách cắt nghĩa
của Plato chủ yếu theo thuyết bẩm sinh. Theo Aristotle, sự nhớ lại là một sự hồi tưởng
tự phát về một điều gì đã kinh nghiệm trước đó. Ví dụ, bạn thấy một người và nhớ lại
rằng bạn đã thấy người ấy trước đó và có lẽ đã trò chuyện với người ấy. Tuy nhiên, hồi
tưởng bao gồm một sự tìm kiếm chủ động của tinh thần về một kinh nghiệm quá khứ.
Liên kết với hồi tưởng, Aristotle đã giả thiết các luật liên tưởng nổi tiếng của ông. Luật
liên tưởng cơ bản nhất là luật tương cận, luật này phát biểu rằng khi chúng ta nghĩ đến
một điều gì, chúng ta cũng có khuynh hướng nghĩ đến những cái gắn liền điều ấy trong
kinh nghiệm của chúng ta. Luật thường xuyên phát biểu rằng một điều gì càng được
kinh nghiệm nhiều lần, ta càng dễ nhớ lại nó. Luật tương tự phát biểu rằng khi chúng ta
nghĩ đến một điều gì, chúng ta sẽ có khuynh hướng nghĩ đến các điều giống với nó. Luật
tương phản phát biểu rằng khi chúng ta nghĩ đến một điều gì, chúng ta cũng dễ nghĩ đến
điều trái ngược với nó. Các luật liên tưởng của Aristotle sẽ trở thành cơ sở của lý thuyết
9


về việc học tập trong hơn hai ngàn năm. Sự tin tưởng rằng chúng ta có thể sử dụng một
hay nhiều luật liên tưởng để cắt nghĩa nguồn gốc các ý tưởng, các hiện tượng của trí
nhớ, hay các ý tưởng phức tạp được hình thành bởi các ý tưởng đơn giản, sẽ được gọi là

thuyết liên tưởng. Như thế, Aristotle quả đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với tâm lý học
hiện đại. Không một ý tưởng quan trọng nào trong lịch sử được tạo ra bởi chỉ một người.
Ngay cả Aristotle, một trong những nhà triết học lớn của mọi thời, đã mở rộng hay sửa
đổi các tư tưởng của các nhà triết học tiền bối, và nhiều nhà triết học chia sẻ với ông
cuộc tìm kiếm các phổ quát thể (yếu tính). Ngay cả các luật liên tưởng, thường được gán
cho Aristotle, cũng có thể thấy trong đoạn sau đây của tác phẩm Phaedo của Plato: Thế
nhưng những người yêu nhau có cảm tưởng gì khi họ nhận ra một cây đàn lia, hay một
bộ quần áo, hay bất cứ vật gì mà người yêu của họ từng quen dùng? Hẳn là khi biết được
cây đàn, họ sẽ hình thành trong con mắt của trí khôn họ một hình ảnh của người yêu
thời tuổi trẻ yêu quý cây đàn ấy. Và đó là sự hồi tưởng. Cũng vậy, bất cứ ai nhìn thấy
Simmias cũng có thể nhớ đến Cebes; và có vô số ví dụ khác nữa... và hồi tưởng thường
là một quy trình phục hồi những gì đã bị quên lãng qua thời gian và sự không chú ý…
chúng ta thấy quá rõ - rằng khi chúng ta tri giác một điều gì dù là nhờ thị giác hay thính
giác, hay một giác quan nào khác, từ tri giác ấy chúng ta có thể đạt được một khái niệm
về một vật khác giống hay không giống với nó, có liên hệ với nó nhưng đã bị lãng quên.

2.2.6. Tưởng tượng và giấc mơ
Chúng ta đã thấy triết học Aristotle có cả các thành phần lý tính lẫn thường nghiệm.
Ví dụ, giải thích của ông về trí nhớ và sự hồi tưởng mang tính chất thường nghiệm.
Chúng ta cũng gặp lại thành phần thường nghiệm này trong giải thích của ông về trí
tưởng tượng và giấc mơ. Theo Aristotle, khi các cảm giác xảy ra, chúng tạo ra các hình
ảnh còn kéo dài sau khi các kích thích tạo ra chúng đã kết thúc. Sự nhớ lại các hình ảnh
này được gọi là trí nhớ. Các hình ảnh này cũng tạo ra sự nối kết giữa cảm giác và tư
tưởng thuần lý bởi vì chính các hình ảnh do kinh nghiệm tạo ra được suy nghĩ bởi lý trí
thụ động và chủ động. Do đó, trí tưởng tượng được cắt nghĩa như là sự giữ lại các hiệu
quả của kinh nghiệm giác quan. Cũng vậy, giấc mơ cũng được Aristotle cắt nghĩa dựa
trên cơ sở các hình ảnh của kinh nghiệm quá khứ. Khi ta ngủ, các hình ảnh của kinh
nghiệm quá khứ có thể được kích thích bởi các sự kiện bên trong hay bên ngoài thân
xác. Lý do khiến các ấn tượng (hình ảnh) còn giữ lại có vẻ kz quặc trong giấc mơ có thể
là như sau: Khi ta ngủ, các hình ảnh không được tổ chức bởi lý trí. Khi thức, các hình

10


ảnh phối hợp hay kiểm soát bởi sự kích thích giác quan đang diễn ra, nó tương tác với
các hình ảnh của kinh nghiệm đã qua; khi ngủ, điều này không xảy ra. Về việc giấc mơ
có khả năng cung cấp thông tin về các sự kiện tương lai, Aristotle tỏ ra rất hoài nghi.
Rất thường xuyên chúng ta mơ về các hoạt động mà chúng ta vừa tham dự, nhưng cũng
có thể một chuỗi hành động được chúng ta mơ một cách rất sống động khiến nó làm cho
ta nghĩ rằng có một chuỗi hành động thực sự trong cuộc đời của người mơ. Tuy nhiên,
theo Aristotle, đa số các trường hợp có vẻ như báo mộng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

2.2.7. Động lực
Theo Aristotle, hạnh phúc thể hiện một chức năng được coi là tự nhiên bởi vì làm
như thế là nó thể hiện mục đích của con người. Mục đích của loài người là tư duy theo
lý tính và vì vậy tư duy theo lý tính mang lại hạnh phúc lớn nhất cho con người. Tuy
nhiên, con người cũng là những sinh vật có các chức năng dinh dưỡng, cảm giác, sinh
sản, và cử động. Nghĩa là, mặc dù con người phân biệt với các động vật khác (do khả
năng lý trí của chúng ta), chúng ta cũng có chung nhiều động lực với các loài động vật
khác. Giống như các động vật khác, nhiều hành vi của con người được thúc đẩy bởi sự
thèm muốn. Hành động luôn luôn hướng tới sự thỏa mãn một sự thèm muốn. Nghĩa là,
hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, thèm muốn tình dục, khát hay
sự thèm khát tiện nghi thân xác. Vì sự thèm muốn tồn tại tạo ra sự khó chịu, nên nó kích
thích hành động để loại bỏ sự khó chịu ấy. Nếu hành động này thành công, con vật hay
con người cảm thấy khoái lạc. Nhiều hành vi con người, do đó, giống với loại vật, nghĩa
là nhằm đạt khoái lạc; mục đích của nó là đem lại khoái lạc và tránh đau khổ. Tuy nhiên,
khác với các động vật khác, chúng ta có thể dùng khả năng lý trí của mình để ức chế các
thèm muốn của mình. Hơn nữa, hạnh phúc lớn nhất của chúng ta không phát xuất từ
việc thỏa mãn các nhu cầu sinh vật. Ngược lại, nó phát xuất từ việc thể hiện các khả
năng lý tính của chúng ta một cách đầy đủ nhất. Vì con người có cả các thèm muốn lẫn
các khả năng lý trí, nên thường xảy ra xung đột giữa sự thỏa mãn tức thời các thèm

muốn với các mục tiêu lý tính xa hơn. Tuy nhiên, ngay cả những con người tuyệt nhất
cũng có thể hành động theo khoái lạc hơn là theo lý tính: "Vì ước muốn là một con thú
hoang, và đam mê làm cho tinh thần của các nhà cai trị trở thành đồi bại, cả khi họ là
những con người tốt nhất". Theo Aristotle, cuộc đời của nhiều con người không bị thống
trị bởi điều gì khác hơn là khoái lạc và đau khổ, phát xuất từ việc các thèm muốn được
thỏa mãn hay không được thỏa mãn. Những con người này không khác gì loài vật. Mọi
11


con người đều mang nơi mình hai thành phần là thèm muốn và lý trí, nhưng tính cách
của mỗi người được tỏ lộ tùy theo sự thèm muốn hay lý trí trội hơn.

2.2.8. Các cảm xúc và tri giác chọn lọc
Nói chung, các cảm xúc trong triết học Aristotle có chức năng tăng cường
mọi khuynh hướng đang có. Ví dụ, khi sợ hãi, người ta có thể chạy nhanh hơn là khi họ
chỉ chạy bộ để tập thể dục. Cũng vậy các cảm xúc cung cấp một động cơ hành động,
người ta có thể dễ đánh nhau khi họ tức giận. Tuy nhiên, các cảm xúc cũng có thể ảnh
hưởng cách thức con người tri giác sự vật. Nghĩa là, chúng có thể tạo ra các tri giác chọn
lọc.
Aristotle đưa ra các ví dụ sau đây: Chúng ta dễ dàng bị đánh lừa về các hoạt động
của tri giác giác quan khi chúng ta bị kích động bởi cảm xúc, và mỗi người mỗi khác
tùy theo các cảm xúc khác nhau, ví dụ, người nhát gan khi bị kích động bởi sự sợ hãi và
người đa tình bởi thèm muốn yêu đương; do đó dù chẳng có gì xảy ra, hạng người thứ
nhất cứ tưởng mình thấy kẻ thù đang đến gần, và hạng thứ hai tưởng mình gặp được đối
tượng yêu đương của mình; và người ta càng bị ảnh hưởng mạnh bởi cảm xúc, thì chúng
cần giống với sự thật bao nhiêu cũng đủ để khơi dậy những ấn tượng ấy. Điều này cũng
xảy ra như thế đối với những cơn tức giận, và trong mọi trạng thái thèm muốn, và càng
đúng hơn nữa khi các cảm xúc bị kích thích.
Aristotle đã mắc phải một số sai lầm. Ông cho rằng suy nghĩ và lương tri đều nằm
ở tim, và cho rằng chức năng chính của não là làm mát máu. Ông cũng tin rằng con số

các loài sinh vật trên thế giới là cố định và vì thế ông phủ nhận sự tiến hóa. Nhưng so
với nhiều cống hiến tích cực của ông, các sai lầm của ông được kể là nhỏ. Mặc dù nhiều
quan sát của ông không chính xác, ông cũng đã quan sát được hầu hết mọi sự, và nhờ
đó, ông đã đưa triết học Hy Lạp tới các đỉnh cao mới.

3. Những khác biệt cơ bản giữa Plato và Aristotle
Cả Plato lẫn Aristotle đều chủ yếu quan tâm tới các yếu tính hay chân lý vượt
quá dáng vẻ bề ngoài của các sự vật, nhưng phương pháp họ sử dụng để khám phá các
yếu tính này thì khác nhau về cơ bản.
Đối với Plato, các yếu tính tương ứng với các mô thể tồn tại độc lập với thiên nhiên
và chỉ có thể đạt tới bằng việc gạt bỏ kinh nghiệm giác quan và hướng các tư tưởng của
chúng ta vào bên trong (nghĩa là, bằng nội quan).

12


Đối với Aristotle, các yếu tính tồn tại nhưng chỉ có thể biết được bằng cách nghiên
cứu thiên nhiên. Ông tin rằng nếu các biểu hiện cá nhân của một nguyên lý hay hiện
tượng được tra cứu đủ, cuối cùng người ta có thể suy ra yếu tính mà chúng biểu thị.
Triết học Aristotle cho thấy sự khó khăn thường gặp khi người ta muốn phân chia
rạch ròi các triết học của thuyết duy lý và duy nghiệm. Nhà duy lý luận tuyên bố rằng
phải sử dụng các hoạt động lý luận của lý trí để đạt đến tri thức, còn nhà duy nghiệm
luận nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thông tin giác quan trong việc đạt đến tri thức.
Aristotle chọn cả duy lý luận lẫn duy nghiệm luận. Ông tin rằng phải sử dụng lý trí để
đạt đến tri thức (duy lý) nhưng chính thông tin do giác quan cung cấp (duy nghiệm) là
đối tượng của tư tưởng thuần lý.
Tuy nhiên, Aristotle không phải người duy nhất có lập trường này. Trong lịch sử,
đa số các nhà duy lý luận nhận ra và chấp nhận tầm quan trọng của kinh nghiệm giác
quan, và đa số các nhà duy nghiệm đều giả thiết có một hay nhiều hoạt động tinh thần
được coi là tác động trên thông tin của giác quan. Nói cách khác, rất khó mà tìm thấy

một nhà duy lý luận hay duy nghiệm luận thuần túy và một nhà triết học thường được
xếp vào loại này hay loại kia tùy theo họ nhấn mạnh đến các hoạt động tinh thần hay
kinh nghiệm giác quan. Hiểu như thế, chúng ta có thể nói Aristotle là một nhà duy lý
nhiều hơn là duy nghiệm.
Các nguyên lý phổ quát mà Plato và Aristotle (và các nhà triết học khác) nghĩ là
hiện thực và có thể biết được thì đã được gọi nhiều cách khác nhau theo thời gian - ví
dụ, các nguyên lý đệ nhất, các yếu tính, hay các phổ quát thể. Trong mỗi trường hợp,
người ta đều giả thiết rằng có một cái gì cơ bản tồn tại mà không thể khám phá ra nếu
chỉ nghiên cứu các trường hợp hay biểu hiện đặc thù của nguyên lý trừu tượng liên hệ.
Cần có một loại hoạt động thuần lý nào đó để tìm ra nguyên lý (yếu tính) ẩn bên dưới
các trường hợp đặc thù. Việc tìm kiếm các nguyên lý đệ nhất, yếu tính, hay phổ quát thể
là nét đặc trưng của đa số các quan niệm triết học thời kỳ đầu, và theo một nghĩa nào
đó, vẫn còn tiếp tục trong khoa học hiện đại như là việc tìm kiếm các định luật chi phối
thiên nhiên. Đối với Plato, người ta đạt được các nguyên lý đệ nhất bằng tư tưởng thuần
túy; đối với Aristotle, người ta đạt được chúng nhờ nghiên cứu thiên nhiên trực tiếp. Với
Plato, mọi tri thức đều tồn tại độc lập với thiên nhiên; với Aristotle, thiên nhiên và tri
thức không thể tách rời nhau. Do đó, theo quan điểm Aristotle, thân xác không phải một
trở ngại trong việc tìm kiếm tri thức như đối với Plato hay phái Pythagoras. Cũng thế,
Aristotle không đồng ý với Plato về tầm quan trọng của toán học. Đối với Aristotle, toán
13


học cơ bản là vô ích, và ông đặt tầm quan trọng vào việc cẩn thận quan sát và phân loại
thiên nhiên. Ở đây chúng ta lại thấy yếu tố duy nghiệm trong triết học Aristotle. Trong
trường Lyceum của Aristotle, người ta thực hiện nhiều quan sát về các hiện tượng vật
lý và sinh học. Sau đó các quan sát phù hợp được thiết lập thành các phạm trù. Bằng
phương pháp quan sát, định nghĩa, và phân loại Aristotle đã soạn ra được cả một bách
khoa thư về thiên nhiên. Ông quan tâm tới việc nghiên cứu các sự vật trong thế giới
thường nghiệm và học hỏi các chức năng của chúng. Vì Aristotle tìm cách cắt nghĩa các
hiện tượng tâm lý dựa trên cơ sở sinh vật học, ông có thể được coi là nhà tâm sinh lý

học đầu tiên. Triết học của Plato đi theo truyền thống toán học Pythagoras, và triết học
Aristotle đi theo truyền thống sinh vật học Hippocrate. Các quan điểm của Plato và
Aristotle về các nguồn của tri thức đã đặt tiền đề cho việc tra cứu tri thức luận còn kéo
dài sau này. Hầu như mọi nhà triết học, và đa số nhà tâm lý đều có thể được đánh giá
căn cứ trên sự nhất trí hay bất đồng với các quan điểm của Plato hay Aristotle.

4. Những đóng góp của Aristotle cho Tâm lý học
Học thuyết của Aristotle về tâm hồn dựa trên sự phân tích rất nhiều số liệu kinh
nghiệm, các đặc trưng của cảm giác, tư duy, cảm xúc, kích động, ý chí đã chỉ ra điểm
khác biệt về chất giữa người và động vật. Con người được ông gọi là “vật thể xã hội”.
Học thuyết của Aristotle đã khắc phục một số hạn chế của Đêmôcrit khi nói về tâm hồn.
Với một số thay đổi trong cách nhìn nhận, học thuyết của Aristotle về tâm hồn còn
thống trị mãi đến thế kỷ XVII.
Hệ thống tư tưởng của Aristotle về tâm hồn lần đầu tiên trong lịch sử phát triển
của tâm lý học đã trở thành tiền đề cho sự phát triển của các giai đoạn về sau. Tác phẩm
“Bàn về tâm hồn” của ông là một trong những đỉnh cao tư duy khoa học thời cổ đại.
Tuy nhiên Aristotle cũng có những hạn chế trong tư tưởng của mình do điều kiện
xã hội lịch sử qui định: Tư tưởng của ông là tư tưởng Nhị nguyên luận(khi giải quyết
các vấn đề tư duy), còn mang nặng tư tưởng sinh vật luận máy móc, siêu hình, chưa tiếp
cận được tư tưởng Quyết định luận xã hội- lịch sử.

5. Kết luân
Aristotle không những là một trong những triết gia vĩ đại của Cổ Hy Lạp mà
còn của cả phương Tây. Mặc dù những học thuyết của ông về Tâm lý học đến ngày nay
đã không còn phù hợp nhưng cũng không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng và những đóng
góp to lớn của Aristotle cho sự phát triển khoa học Tâm lý ngày nay. Cũng với những
14


tác gia vĩ đại khác như Đêmocrit và Plato, Aristotle đã đặt những viên gạch vững chắc

tạo nền móng cho ngành khoa học Tâm lý sau này, đặc biệt học thuyết về tâm hồn của
ông đã đưa ra những nhận định mới mẻ, đột phá có tính hoàn thiện hơn so với những
nhận định trước đó về các vấn đề quan trọng trong tâm lý con người.
Việc tìm hiểu về Aristotle đã cho ta thấy được đôi nét về cuộc đời cũng như những
tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của một tác gia vĩ đại, hiểu rõ hơn về một thời kì trong
tiến trình phát triển liên tục của ngành khoa học tâm lý, từ đó có thêm những cái nhìn
mới mẽ, hệ thống tạo động lực, hứng thú và tránh lặp lại những sai lầm trong quá trình
học tập của sinh viên, đặc biệt là sinh viên ngành khoa học Tâm lý.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Võ Minh Chí (2004), Lịch sử tâm lý học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[2]. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3]. B.R. Hergenhn (2003), Nhập môn lịch sử tâm lý học, NXB Thống kê,
Tp.HCM.
[4]. Maurice Reuchlin (2001), Lịch sử tâm lý học, NXB Thanh niên, Tp.HCM.
[5]. Hà Thúc Minh (2000), Triết học cổ đại Hy Lạp La Mã, NXB Mũi Cà Mau, Cà
Mau.
[6]. Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hướng (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý
người, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
[7]. Lương Ninh (1997), Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục , Hà Nội.
[8]. Nguyễn Ngọc Phú (2004), Lịch sử tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
[9]. Will Durant (1994), Câu chuyện triết học qua chân dung Platon, Aristotle,
Bacon, Kant, Spinoza, Voltaroi, Spencer, NXB Tổng hợp Quảng Nam- Đà Nẵng, Đà
Nẵng.

16




×