Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty CP thực phẩm Hữu Nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.2 KB, 125 trang )

trƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN


nguyễn thị thái

đầu t trực tiếp nớc ngoài trên
địa bàn tỉnh thái nguyên giai đoạn
1995 - 2020
Chuyên ngành: kinh tế đầu t

Ngời hớng dẫn khoa học:

ts. nguyễn thị ái liên

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC
2.5.1 Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên........................................................................25


DANH MỤC BẢNG
2.5.1 Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên........................................................................25


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP



Tổng sản phẩm quốc nội

KCN

Khu công nghiệp

XTĐT

Xúc tiến đầu tư

GPMB

Giải phóng mặt bằng

UBND

Ủy ban nhân dân


1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nội dung trong kinh tế đối ngoại của một
quốc gia. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là bộ phận không thể thiếu trong tổng vốn
đầu tư, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và
từng địa phương nói riêng.
Hiện nay, Việt Nam đang đẩy nhanh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

với mục tiêu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Để làm được điều đó,
chúng ta cần phải tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Trong
đó, FDI là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thái Nguyên là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là trung
tâm chính trị - kinh tế của vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung và của khu
Việt Bắc nói riêng. Thái Nguyên có những lợi thế so sánh trong thu hút FDI như vị
trí địa lý thuận lợi, tài nguyên khoáng sản phong phú, nguồn lao động dồi dào, là
trung tâm giáo dục đào tạo lớn thứ ba cả nước…Tuy nhiên, trong suốt hơn 20 năm
qua, kể từ khi có dự án FDI đầu tiên vào năm 1993, đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn rất hạn chế cả về số lượng cũng như quy
mô, cơ cấu dự án. Chỉ bắt đầu từ năm 2013 đến nay, Thái Nguyên mới thật sự có
những bước tiến trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiện tại đang trở thành điểm
đến được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm. Trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2020, với mục tiêu trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại
trước năm 2020, Thái Nguyên xác định FDI là một nguồn lực rất quan trọng. Bên
cạnh những kết quả rất đáng được ghi nhận trong thu hút FDI gần đây, Thái
Nguyên cần tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ cho
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.


2

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “ Đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1995 – 2020” là cần thiết, có ý nghĩa
về mặt khoa học và thực tiễn.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện lý luận về đầu tư đầu tư trực tiếp nước
ngoài, trong đó xác định rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế xã hội, nội dung các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài

để vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Thái Nguyên.
Phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn từ 1995-2014, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân hạn chế . Từ đó đề xuất những giải pháp cho đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý luận: Chủ yếu đề cập đến những vấn đền lý luận chung về đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Về mặt thực tiễn: Tìm hiểu, phân tích, đánh giá về thực trạng đầu tư trực tiếp
nước ngoài tỉnh Thái Nguyên, đưa ra những giải pháp chủ yếu về đầu tư trực tiếp
nước ngoài tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
Phạm vi về không gian và thời gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu trong phạm vi
các đối tượng và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, các số liệu phục vụ cho nghiên cứu tập trung trong thời gian từ các năm
1995 - 2014.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp những phương pháp phổ biến sau:
Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp tác giả sử dụng để thu thập số
liệu thống kê, xử lý số liệu đầu vào phục vụ cho việc phân tích và đánh giá thực


3

trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Thái Nguyên.
Phương pháp phân tích và tổng hợp thông qua hệ thống số liệu thứ cấp
Phương pháp nghiên cứu tài liệu

1.5. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu có liên quan sau đây:
Tác giả Nguyễn Trọng Tuân trong cuốn “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công
cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam”, (2005), đã làm sáng tỏ một số
quan hệ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số tác động của nó sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó nêu ra một số kiến nghị mới về
quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả
cao đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong thời gian tới.
Các tác giả An Như Hải và Trần Quang Lâm trong cuốn “Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, (2006), đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản
về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, làm rõ vai trò của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế nước ta và đề
xuất các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế có vốn FDI ở nước ta thời gian tới.
“Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam”, (2011), luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Ái Liên. Nghiên cứu đã hệ
thống hóa lý luận về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài, sử dụng phương pháp
Pareto trong phân tích các yếu tố về môi trường đầu tư ảnh hưởng đến thu hút FDI,
từ đó tác giả chỉ ra những yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất và đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệu quả.
Tác giả Nguyễn Tiến Long trong luận án tiến sĩ “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên”, (2011), cho rằng
FDI có những tác động tích cực đối với phát triển kinh tế xã hội như: bổ sung nguồn
vốn, thúc đẩy ứng dụng công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy ngoại thương, khai
thác tốt hơn nguồn lực của nước nhập khẩu FDI để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo


4


việc làm, khuyến khích năng lực sản xuất trong nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó nghiên
cứu cũng chỉ ra những tác động tiêu cực của FDI bao gồm tạo ra sự mất cân đối trong
phát triển theo vùng, ảnh hưởng đến tiêu cực đến truyền thống văn hóa dân tộc, gia
tăng nhập khẩu công nghệ gây ô nhiễm môi trường, chuyển giá.
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc: Thực trạng và giải
pháp”, (2007), luận văn thạc sỹ của Tô Thị Lan Anh. Trong nghiên cứu này ,tác giả
đã tập trung phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc và những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh.
“Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2006 – 2012”, ( 2013) , luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thanh Tùng. Nghiên cứu đã
tập trung phân tích và đánh giá thực trạng thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2006 -2012, từ đó làm rõ những hạn chế và nguyên nhân hạn chế
trong thu hút FDI và đề xuất một số gsiải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI đến
năm 2020.
Như vậy, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhưng số công trình nghiên cứu về thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên còn khá hạn chế. Cho đến nay, cũng chưa có nghiên cứu nào về đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên xuyên suốt quãng thời gian 30 năm
kể từ sau khi có dự án FDI đầu tiên vào Thái Nguyên, nhất là trong vài năm trở lại
đây, khi FDI tỉnh Thái Nguyên đang có những chuyển biến rất mạnh mẽ. Chính vì
vậy, đòi hỏi cần có những nghiên cứu một cách đầy đủ hơn về thực trạng đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1995 – 2014 và từ đó
tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thái
Nguyến đến năm 2020.
1.6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt xem xét đối với
phạm vi một tỉnh, địa phương của một quốc gia.
Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số



5

địa phương đề có thể vận dụng vào thực tiễn ở tỉnh Thái Nguyên.
Trên cơ sở phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
và thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, luận văn
đưa ra những hạn chế cần phải khắc phục nhằm tăng cường đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bản tỉnh Thái Nguyên.
Đề xuất được một số giải pháp tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
1.7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn Tỉnh.
Chương 3: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1995 – 2014.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2014.


86

CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
2.1 Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là “một khoản đầu tư với những quan hệ

lâu dài, theo đó, một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được
lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà
đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại
nền kinh tế khác đó”
Theo Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc, FDI là “một sự đầu
tư thực hiện để có được lợi ích lâu dài trong doanh nghiệp hoạt động bên ngoài của
nền kinh tế của nhà đầu tư ... mục đích của chủ đầu tư là để đạt được một tiếng nói
hiệu quả trong việc quản lý của doanh nghiệp.
Theo điều 3, Luật Đầu tư Số 59/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005 quy
định “ Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư”, “ Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư”. Từ các khái niệm này, ta có thể hiểu một cách khái quát về FDI như sau:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư mà nhà đầu tư ở một nước đóng
góp một số vốn bằng tiền hoặc tài sản đủ lớn theo quy định của luật pháp nước sở
tại để sở hữu, điều hành và kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích
thu lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác”
Đối với nhà đầu tư: Khi quá trình tích tụ, tập trung vốn đạt đến trạng thái bão
hòa, thị trường trong nước trở nên chật hẹp, lợi nhuận trên vốn đầu tư không được
như mong muốn. Trong khi đó, đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử
dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao


87

tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư, xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn
định với giá cả phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp
bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín thương hiệu.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư của nước sở tại: Các nước tiếp nhận đầu tư là
các nước có lợi thế so sánh về tài nguyên, lao động…nhưng lại chưa có điều kiện về

vốn, về khoa học công nghệ. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm giải
quyết khó khan về vốn và công nghệ giúp khai thác có hiệu quả những lợi thế so
sánh của nước đó, mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội.
2.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Một là, các chủ đầu tư phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định.
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng
góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án,
Hai là, đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp
mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ
phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Ba là, quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp
100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lý
Bốn là, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
Năm là, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà
còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý
và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Sáu là, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư bằng vốn tư nhân do
các chủ đầu tư tự quyết định và chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư, do đó không bị
gắn kết với bất kỳ điều kiện chính trị nào nên nước nhận đầu tư sẽ không bị ràng
buộc bởi bất kỳ điều kiện chính trị nào của nước đầu tư.
2.1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp
doanh) để cùng tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh trên cơ sở quy


88

định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành

lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có đặc điểm:
+ Là một hình thức đầu tư trực tiếp, chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư, do
vậy nó khác với các hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế về trao đổi mua bán
thông thường (các hợp đồng này không bị Luật Đầu tư điều chỉnh).
+ Các bên hợp doanh vẫn giữ nguyên sở hữu riêng đối với tài sản góp vào
hợp doanh.
+ Không hình thành một pháp nhân mới.
+ Kết quả hoạt động phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên
hợp doanh.
Nội dung hoạt động kinh doanh, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, cách
thức xác định và phân chia kết quả, thời hạn hợp đồng, cách giải quyết tranh chấp…
tất cả đều được xác định cụ thể trong hợp đồng. Hình thức đầu tư trực tiếp của nước
ngoài này phải được xét duyệt và cấp giấy phép kinh doanh của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.
2.1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh
Là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng kinh doanh giữa bên
hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở hiệp định
giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Doanh nghiệp liên doanh là pháp nhân Việt Nam và được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), mỗi bên liên doanh chịu trách
nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh và bên thứ ba trong phạm vi
phần vốn của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp liên doanh có tài sản riêng, do các bên liên doanh đóng góp
và là sở hữu chung của các bên liên doanh.
+ Doanh nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc: tự chủ tài chính trên cơ
sở hợp đồng liên doanh, phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam.



89

+ Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp
giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ doanh nghiệp
2.1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế, cá nhân nước
ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, được thành lập theo hình thức công ty TNHH
là pháp nhân Việt Nam. Tài sản của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc tổ
chức, cá nhân nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy quản lý, điều hành
doanh nghiệp, tự quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
Cơ sở pháp lý để thành lập và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài là Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, giấy phép đầu tư, điều lệ doanh
nghiệp và pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký Điều lệ doanh nghiệp.
2.1.3.4 Hợp đồng BOT, BTO, BC.
Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao ( BOT): Là hình thức đầu
tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn , nhà
đầu tư chuyển giao không bồi hoàn cho phía Việt Nam.
Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh ( BTO): Là hình thức đầu tư
được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho phía Việt Nam; Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh
công trình đó trong một thời gian nhất định để nhà đầu tư thu hồi vốn và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng, chuyển giao ( BT): Là hình thức đầu tư được ký kết giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư bàn giao cho phía Việt Nam, đồng thời tạo
điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và lợi nhuận hoặc
thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận được ký kết trong hợp đồng BT.



8
10

2.2 Các lý thuyết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều quan
điểm, lý thuyết về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế và những tác động của nó
đến nền kinh tế thế giới. Những quan điểm, lý thuyết này được chia chủ yếu thành
hai nhóm: Các lý thuyết vĩ mô và các lý thuyết vi mô.
2.2.1. Các lý thuyết vĩ mô
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô về lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế được coi là
các lý thuyết cơ bản của đầu tư quốc tế. Các lý thuyết này giải thích hiện tượng đầu
tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư giữa các nước,
đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển.
A.Mac Dougall (1960) đã giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế từ phân tích so
sánh giữa chi phí và lợi ích của di chuyển vốn quốc tế. Ông cho rằng, chênh lệch về
năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân dẫn đến lưu chuyển vốn
quốc tế. Đồng quan điểm này, M.Kemp (1964) đã kế thừa và phát triển thành mô
hình Mac Dougall - Kemp (hình vẽ). Theo tác giả, những nước phát triển (dư thừa
vốn đầu tư) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng xuất cận biên của vốn ở
các nước đang phát triển (thiếu vốn). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa
hai nhóm nước này.

I

Mô hình Mac Dougall - Kemp


811


Theo mô hình này, tổng vốn đầu tư của hai nước là O1O2 , trong đó vốn ở nước
đầu tư (I) là O1Q và ở nước nhận đầu tư (II) là O 2Q. Năng suất cận biên của vốn ở
nước (I) là O1M, ở nước (II) là O 2m. Các đường MN và mn là giới hạn năng suất
cận biên của vốn ở hai nước (nước I thấp hơn nước II) và đều có xu hướng giảm
dần. Trước khi có sự di chuyển vốn giữa hai nước, tổng sản lượng của nước (I) là
O1MNQ và của nước (II) là O 2muQ. Do có sự chênh lệch năng suất cận biên của
vốn ở hai nước cân bằng tại điểm P (SP = O 1E = O2e). Kết quả là làm tăng sản
lượng hai nước là PuN, phần rôi ra ngoài tổng sản lượng của hai nước trước khi có
sự chuyển dịch vốn đầu tư.
Mô hình lý thuyết thương mại quốc tế của Heckcher & Ohlin (1993), Richard
S. Eckaus (1987) đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất giữa
các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế. Theo tác
giả, nguyên nhân chủ yếu xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế xuất phát từ
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Vì vậy
giữa các nước đã xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế.
Một cách lý giải khác của K.Kojima (1978) về nguyên nhân xuất hiện đầu tư
quốc tế là do sự khác nhau về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước. K.Kojima đã phát
triển dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình HO, để chứng minh rằng
những nước có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Theo tác giả,
nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế là có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa
các nước, sự chênh lệch này được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong
phân công lao động quốc tế.
Ngoài ra, nguyên nhân di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế còn được giải thích
bởi lý thuyết phân tán rủi ro. Lý thuyết này giải thích rằng ngoài việc quan tâm đến
hiệu quả sử dụng của đồng vốn (lãi suất cao, các nhà đầu tư còn chú ý đến mức độ
rủi ro trong từng hạng mục đầu tư cụ thể (D.Salvatore -1993). Vì lãi suất của các cổ
phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và khả năng kinh doanh của doanh



8
12

nghiệp, để tránh tình trạng mất trắng (phá sản) các nhà đầu tư không muốn bỏ hết
vốn của mình vào một hạng mục đầu tư ở một thị trường nội địa. Vì thế họ quyết
định dành một phần tài sản của mình để mua cổ phiếu, chứng khoán và đầu tư ra thị
trường nước ngoài.
2.2.2. Các lý thuyết vi mô
Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô về đầu tư quốc tế đều xoay quanh trả lời
câu hỏi là tại sao các công ty, cá nhân lại đầu tư ra nước ngoài?
Các lý thuyết về tổ chức công nghiệp ra đời từ thập kỷ 60 của thế kỳ XXI giải
thích đầu tư quốc tế (FDI) như là kết quả tự nhiên từ sự tăng trưởng và phát triển
của các công ty lớn độc quyền ở Mỹ. Nổi bật là mô hình lý thuyết của Stephen
Hymer (1976). Theo tác giả, để khai thác các lợi thế của mình về công nghệ, kỹ
thuật, quản lý mà các công ty trong cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư
không có được, các công ty Mỹ đã mở rộng ra thị trường quốc tế. Còn theo 2 tác giả
Charles Kindleberger (1969) và Richard E. Caves (1971), những sản phẩm mới
thường có xu hướng độc quyền và có giá thành hạ. Vì thế, các công ty có sản phẩm
mới đã tích cực mở rộng phạm vi sản xuất của mình ra thị trường quốc tế nhằm tối
đa hóa lợi nhuận dựa trên lợi thế độc quyền của mình. Như vậy, theo các lý thuyết
tổ chức công nghiệp, nguyên nhân hình thành FDI là do sự mở rộng thị trường ra
nước ngoài của các công ty lớn nhằm khai thác lợi thế độc quyền.
Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm lại giải thích hiện tượng FDI trên cơ sở
phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất
hàng loạt), đạt mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả của lý
thuyết này, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển như Mỹ vì ở đó mới
có điều kiện để nghiên cứu và phát triển, sản xuất với khối lượng lớn. Sản phẩm được
sản xuất ra hàng loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hòa. Để
tránh lâm vào suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, do đó công ty

phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra quốc tế để tránh lâm vào suy thoái và khai thác
hiệu quả sản xuất theo quy mô. Nhưng do các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại


8
13

bởi hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển, vì thế công ty di chuyển sản xuất ra
quốc tế để vượt qua những trở ngại này. Như vậy, theo cách giải thích của Vernon thì
FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển của sản phẩm theo chu kỳ.
Trên đây là một phần nhỏ các lý thuyết về đầu tư quốc tế nhằm giải thích sự
xuất hiện của FDI và bản chất kinh tế của nó. Do cách tiếp cận từ phân tích những
điều kiện để các công ty đầu tư ra nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vi mô giải thích
một cách cụ thể hơn về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế trong khi các lý
thuyết kinh tế vĩ mô mới chỉ giải thích được những điều kiện cần để xuất hiện đầu
tư quốc tế. Vì thế, có thể nói rằng các lý thuyết vi mô đã giải thích rõ ràng hơn về
nguyên nhân hình thành FDI và tác động của nó đối với công nghiệp hóa ở các
nước đang phát triển.
2.3 Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển
kinh tế xã hội trên địa bàn Tỉnh
FDI với tư cách là hoạt động đầu tư tạo ra những biến đổi nhất định trong quá
trình tái sản xuất xã hội nói riêng và đời sống xã hội nói chung không những ở
phạm vi quốc gia mà trên từng địa phương, trong đó có cấp tỉnh của quốc giá đó.
Những thay đổi đó thể hiện tác động của FDI tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia, địa phương tiếp nhận FDI. Có thể xem xét tác động của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội theo hai phương diện tích cực và tiêu cực.
2.3.1 Tác động tích cực
Việc thu hút và sử dụng hợp lý FDI có vai trò vô cùng quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như từng địa phương tiếp nhận. Những
tác động tích cực chủ yếu của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn

tỉnh được thể hiện:
Thứ nhất, vốn FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho sự thiếu hụt nguồn
vốn trong nước trên địa bàn tỉnh.
Trong mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh:
Nguồn vốn nhà nước ( nguồn vốn ngân sách của Nhà nước và địa phương, nguồn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn Tỉnh, nguồn vốn đầu tư phát


8
14

triển doanh nghiệp nhà nước, nguồn viện trợ, hỗ trợ phát triển), nguồn vốn của khu
vực dân cư và tư nhân, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,… thì đầu tư trong
nước là nguồn đầu tư chủ yếu. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn đầu tư trong
nước đang gặp khó khăn thì vấn đề tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên
nguyên tắc bảo đảm chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc là rất cần thiết và trở thành
nguồn vốn bổ sung đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa. Chính vì vậy các địa phương thường cạnh tranh rất gay gắt với nhau trong
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi do số lượng các bộ phận thay đổi hoặc mối tương
quan về tốc độ tăng trưởng giữa các bộ phận thay đổi. Do tác động của vốn, của
khoa học công nghệ, FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: cơ
cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế sẽ được biến đổi theo chiều
hướng tiến bộ.
Cơ cấu kinh tế được chuyển biến rõ nét nhất là cơ cấu ngành. Khi thu hút được
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI, sẽ có tác động đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương cấp tỉnh theo hướng công nghiệp
hóa. Sự tập trung của FDI vào công nghiệp làm cho công nghiệp tại địa phương tiếp
nhận có khả năng phát triển vượt trội so với các ngành nông nghiệp và dịch vụ, từ

đó nhanh chóng nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong GDP. Công nghiệp phát
triển tất yếu kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ
gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu như ban đầu địa phương tiếp nhận FDI
chuyển dịch cư cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, thì tới trình
độ nhất định sẽ kích thích tăng trưởng mạnh mẽ hơn của các ngành dịch vụ.
Song song với việc làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, FDI còn là
yếu tố có tác động mạnh mẽ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng ngành.
Trong công nghiệp, FDI tạo liên kết các tiểu ngành công nghiệp trên cơ sở phân
công hiệp tác lao động, trong đó các công ty trong nước thường nắm giữ nguồn
nguyên liệu, hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho các công ty nước ngoài trong lĩnh


8
15

vực công nghiệp và có thể trở thành các DN công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra, FDI
thường tập trung vào các KCN, tạo ra xu hướng các công ty trong KCN liên kết với
nhau nhằm giảm chi phí đầu vào.
Bên cạnh đó, FDI góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thông qua việc tạo ra những lĩnh vực những ngành sản xuất mới, và khiến một số
ngành cũ giảm tỷ trọng hoặc bị loại bỏ. Việc tiếp nhận FDI tạo điều kiện cho địa
phương có những bước “đột phá” sâu vào những ngành nghề sản xuất kinh doanh
còn hết sức mới mẻ. Nhiều dây chuyền sản xuất công nghệ chưa hề có trước đó đã
xuất hiện nhờ việc thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như công
nghệ chế tạo mặt hàng điện tử, ôtô, công nghệ luyện kim, công nghệ hoá chất, khai
thác dầu khí...
Thứ ba, cùng với tiếp nhận FDI có thể tiếp thu công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến của nước ngoài
Có thể nói, công nghệ là một yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và phát
triển của mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Vì vậy, tăng

cường khả năng công nghệ luôn là mục tiêu ưu tiên phát triển của quốc gia nói
chung và của các Tỉnh, địa phương nói riêng. Việc thực hiện được mục tiêu này
luôn gặp những khó khăn do thiếu vốn và những hạn chế về khoa học, kỹ thuật.
Hơn nữa, đầu tư cho lĩnh vực này thường phải chịu nhiều rủi ro.Thông qua tiếp
nhận FDI, các Tỉnh có thể phát triển khả năng công nghệ. Vai trò này được thể hiện
qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ nước ngoài vào và phát
triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trên địa bàn Tỉnh.
Mặt khác, thông qua FDI, chúng ta có dịp tiếp xúc với trình độ quản lý tiên tiến
của nước ngoài. Qua đó, từng bước học tập và áp dụng được các mô hình, các hình
thức quản lý kinh doanh, kỹ năng kinh doanh, khả năng thích nghi với công nghệ, đặc
biệt là kỹ năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo việc làm và phát triển nguồn
nhân lực.
Để thực hiện hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, chủ đầu tư nước ngoài cần
phải thuê lao động của địa phương. Mặt khác, dự án FDI ngoài việc góp phần thu


8
16

hút một lực lượng lớn lao động cũn ảnh hưởng dây chuyền đối với các doanh
nghiệp cỏc ngành cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, do đó FDI góp
phần tăng thêm việc làm gián tiếp, điều này góp phần giải quyết lao động dư thừa
của địa phương, tạo công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động.
Do vậy mà bài toán khó thất nghiệp của Tỉnh được giải quyết phần nào. Nhờ đó
nâng cao chất lượng của sống của dân cư trên địa bàn Tỉnh. Đồng thời, khi chất
lượng cuộc sống được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên sẽ lại kích
thích sản xuất phát triển.
Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động, do đó yêu cầu
khách quan phải nâng cao chất lượng nguồn lao động về ngoại ngữ và trình độ

chuyên môn. Mặt khác, các chủ đầu tư nước ngoài cũng góp phần tích cực bồi
dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động của Tỉnh tiếp nhận đầu tư, thông qua các khóa học
chính quy, không chính quy, đào tạo dạy nghề, huấn luyện ngắn ngày… cho người
lao động. Đồng thời, với trình độ quản lý tiên tiến, chặt chẽ và yêu cầu cao từ chủ
đầu tư sẽ khiến người lao động nhanh chóng nâng cao ý thức trách nhiệm, tác phong
làm việc chuyên nghiệp và trình độ chuyên môn cũng được nâng cao.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự mạnh mẽ hoạt động xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu,
những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có
hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước
ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài của nước chủ nhà. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, xuất khẩu cũng
đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua việc sử dụng nhiều yếu tố đầu vào rẻ, khai
thác được hiệu quả nhờ quy mô (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường nước chủ
nhà), và thực hiện chuyên môn hóa sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có điều
kiện lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành thành phẩm.
Với vai trò quan trọng của FDI, Đảng ta xác định: "Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam", và chiến lược phát triển là:
"Hướng vào mục tiêu phát triển của các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh


8
17

tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện
đại, tạo thêm nhiều việc làm"
Thứ sáu, tác động của FDI tới nguồn thu ngân sách.
Rõ ràng việc thu hút và sử dụng FDI trước hết có vai trò thúc đẩy hoạt động
kinh doanh và tạo thu nhập. Các doanh nghiệp FDI với tư cách là chủ thể kinh doanh
lớn về hàng hóa, dịch vụ cũng đã tạo nguồn thu ngân sách lớn trực tiếp từ các khoản

đóng góp ngân sách của FDI. Đồng thời, với tác động lan tỏa thúc đẩy sản xuất kinh
doanh của các chủ thể khác, nguồn thu ngân sách của từng địa phương nói riêng và cả
quốc gia nói chung ngày càng được mở rộng. Do đó, tiêu chí để đánh giá tác động
của FDI đến nguồn thu ngân sách của Tỉnh là đóng góp của FDI cho ngân sách cùng
sự gia tăng của nguồn thu ngân sách địa phương với sự hiện diện của FDI.
Thứ bảy, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển cơ sở hạ tầng,
kích thích sự tăng trưởng kinh tế .
Đối với các nước đang phát triển là nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng
không đủ khả năng khai thác lợi thế về tự nhiên này. Sự phát triển của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo sức ép và điều kiện để hiện đại hoá cơ sở
hạ tầng của nền kinh tế như hệ thống đường xá, kho tàng, bến cảng, sân bay, thông
tin liên lạc, cung cấp điện nước... đồng thời góp phần tăng năng lực sản xuất và
năng suất lao động cho các cơ sở sản xuất hiện có.
Thực tiễn cho thấy, các địa phương có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật nói chung và trong từng KCN nói riêng, hoàn thiện hơn luôn có ưu thế trong
thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
FDI tác động mạnh mẽ đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng
trưởng như: vốn đầu tư, công nghệ và kỹ thuật, nguồn nhân lực, xuất khẩu…qua đó
giúp nước chủ nhà đạt được mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện thành
công chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
2.3.2 Tác động tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc
lộ nhiều mặt hạn chế.


8
18

Thứ nhất, tác động xấu đến môi trường của tỉnh tiếp nhận đầu tư.
Một trong những tác động tiêu cực nhất của FDI đối với Tỉnh tiếp nhận đầu tư

là ảnh hưởng về môi trường. Tình trạng xuất khẩu ô nhiễm từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước tiếp
nhận đầu tư có nguy cơ trở thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao, ảnh
hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thủy sản, khí hậu và gia tăng ô
nhiễm các lưu vực sông ngày một rõ ràng và nghiêm trọng. Các khu công nghiệp
mở rộng làm cho diện tích rừng bị thu hẹp, nơi cư trú của động vật hoang dã, thực
vật bị xáo trộn, hủy hoại.
Vì mục tiêu lợi nhuận FDI có thể sử dụng những biện pháp tinh vi gây ô nhiễm
môi trường. Để đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế FDI luôn tìm cách giảm chi phí
sản xuất, tận dụng khai thác tối đa những công nghệ hiện có. Tại các nước phát triển
những yêu cầu cao về xã hội môi trường đã làm cho các chi phí về môi trường đối
với một số những ngành sản xuất ngày càng tăng cao, gây bất lợi cho hoạt động đầu
tư. Vì vậy, một trong những nguyên nhân của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại các nước phát triển với yêu cầu thu hẹp một
số ngành truyền thống, trong đó có những ngành sử dụng các công nghệ gây nhiều
ảnh hưởng không tốt tới môi trường sinh thái. Đối với các nước đang phát triển, do
những bức bách về vốn đầu tư phát triển nên nhiều khi phải chấp nhận sự hiện diện
của những công nghệ cũ tương đối, từ đó có ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Trong những năm qua, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mục tiêu lợi
nhuận đã ảnh hưởng đáng kể tới môi trường sinh thái nước ta. Chi phí xây dựng hệ
thống xử lý chất thải cùng với cơ chế hỗ trợ chưa thoả đáng từ phía Nhà nước cũng
là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chậm triển khai các hệ thống này. Bên cạnh đó,
hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta còn chưa hoàn chỉnh, chưa hình
thành hệ thống các quy định thống nhất về công tác quản lý môi trường theo các
loại hình ô nhiễm rắn, lỏng, khí và chưa thích hợp với đặc điểm của các KCN...
Thứ hai, FDI dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế không hợp lý trên địa bàn tỉnh.
Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận và họ chỉ tập trung đầu
tư vào các ngành có thể thu lợi nhuận cao, do đó họ chủ yếu đầu tư vào các ngành



8
19

công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao và các vũng lãnh thổ có
điều kiện phát triển. Điều này gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế theo
ngành và vùng lãnh thổ. Năm 2010 vốn FDI đăng ký của cả nước tập trung chủ
yếu vào ba lĩnh vực là: dịch vụ lưu trú và ăn uống; kinh doanh bất động sản; công
nghiệp chế biến, chế tạo. Cụ thể như sau: lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo
vẫn là lĩnh vực thu hút FDI lớn nhất (chiếm 61,9% số dự án và 50,7% vốn đăng ký
tại Việt Nam). Lĩnh vực kinh doanh bất động sản trở thành lĩnh vực đứng thứ hai
trong thu hút FDI với 312 dự án, tổng vốn đăng ký 38,4 tỷ USD, chiếm 2,9% số
dự án và 22% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Tiếp theo là các lĩnh vực dịch vụ
lưu trú và ăn uống, xây dựng, thông tin và truyền thông, nghệ thuật và giải trí.
Trong khi đó, vốn FDI vào các lĩnh vực như nông, lâm nghiệp, thủy sản; tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm hay y tế; giáo dục và đào tạo chưa nhiều. Ví dụ FDI vào
ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 4% về số dự án và 1,7% về vốn đăng ký
hay FDI vào ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chỉ chiếm 0,7% về số dự án và
vốn đăng ký.
Thứ ba, chuyển giao công nghệ
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật, quá trình nghiên
cứu – ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy móc thiết bị nhanh chóng trở nên
lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho chuyển giao sang các nước
nhận đầu tư như một phần vốn góp. Việc làm đó đã làm cho trình độ công nghệ
của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu. Phần lớn máy móc, thiết bị được
đưa vào VN là lạc hậu, đã qua sử dụng, tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm
môi trường; nổi lên hiện tượng xả thải ra môi trường. Việc chuyển giao công
nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại như:
- Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do đó
Việt Nam thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp và
hậu quả là thiệt hại trong việc phân chia lợi nhuận

- Gây tổn hại môi trường sinh thái: do các quy định về bảo vệ môi trường ở
các nước nhận đầu tư chưa chặtchẽ.
Thứ tư, chuyển giá.
Một số các doanh nghiệp FDI đã lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý của


8
20

Nhà nước để thực hiện chuyển giá bằng cách “lỗ công ty con, lãi công ty mẹ”.
Những thủ thuật lách thuế hay dấu hiệu chuyển giá phổ biến được thực hiện chủ yếu
qua các hình thức sau:
Nâng giá trị tài sản vốn góp
Do việc thẩm định giá các loại thiết bị, công nghệ chuyển vào khi thực hiện dự
án đầu tư của chúng ta còn nhiều hạn chế, như chưa đủ năng lực trình độ cũng như
điều kiện để thực hiện, nên thường bị bên đối tác nước ngoài định giá các máy móc,
thiết bị cao hơn nhiều so với giá trị thực tế nhằm nâng giá trị vốn góp trong liên
doanh của bên đối tác và nắm lấy quyền quản lý doanh nghiệp hoặc tăng giá trị tài
sản của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài)
Tình trạng nâng giá trị vốn góp theo thủ thuật này của các doanh nghiệp nước
ngoài có thể làm thiệt hại đến ba đối tượng: bên liên doanh góp vốn Việt Nam,
Chính phủ Việt Nam và người tiêu dung Việt Nam. Bên liên doanh bị thiệt trong
phần vốn góp và dễ bị các công ty xuyên quốc gia thôn tính để biến doanh nghiệp
liên doanh thành doanh nghiệp 100% nước ngoài khi không còn đủ tiền lực tài
chính, chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế còn người tiêu dùng Việt Nam phải dùng
những sản phẩm đắt hơn giá trị thực.
Mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào sản xuất của công ty mẹ với giá
cao và bán sản phẩm với giá thấp
Nhiều doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu các yếu tố đầu vào
cho sản xuất của các công ty mẹ, hoặc các công ty khác trong hệ thống các công ty

xuyên quốc gia. Giá mua nguyên của các hàng hoá, dịch vụ này thường cao hơn gía
thực tế rất nhiều và bán sản phẩm cho công ty mẹ với giá thấp dẫn đến “ lỗ công ty
con, lãi công ty mẹ”
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI còn lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước, sử
dụng các thủ đoạn gian lận thương mại, gian lận trong hạch toán để doanh nghiệp lỗ
trên sổ sách kế toán và lãi trên thực tế để trốn thuế.
Thứ năm, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh với
các doanh nghiệp trong nước.
Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các doanh


8
21

nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt về thị trường lao động và các
nguồn lực khác.
Thứ sáu, về xã hội, FDI có thể tăng cường bóc lột đối với lao động tại địa
phương như kéo dài thời gian lao động, tiền công thấp, trốn bảo hiểm, thậm chí vi
phạm thân thể và nhân quyền đối với lao động; di chuyển những tiêu cực như hối lộ
và những tệ nạn xã hội khác…tạo ra những bức xúc xã hội gay gắt, biểu hiện thông
qua các cuộc đình công của công nhân trong các DN FDI. Thực tế cho thấy nguyên
nhân trực tiếp của các cuộc đình công trong các DN FDI thường xuất phát từ lý
dochậm điều chỉnh mức lương tối thiểu đã bị trượt giá.
Thứ bảy, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể gây ra những tác
động tiêu cực khác như các bất ổn về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới.
Mặc dù vẫn còn những mặt hạn chế , nhưng không thể phủ nhận rằng đầu tư
trực tiếp nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh tiếp nhận.
2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn tỉnh

2.4.1 Những nhân tố khách quan
2.4.1.1 Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên... Đây là những yếu tố tác động quan trọng có ảnh hưởng đến tỷ suất lợi
nhuận của các dự án đầu tư. Các yếu tố này thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố
đầu vào phong phú và giá rẻ cho các hoạt động đầu tư. Thuận lợi về giao thông là
nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư vào nơi
thuận lợi về khoảng cách vận chuyển và gần nguồn nguyên liệu, vị trí thuận lợi sẽ
giảm được chi phí đầu vào, thu được lợi nhuận cao. Khí hậu cũng là nhân tố ảnh
hưởng một phần tới thu hút FDI, khí hậu ở địa phương tiếp nhận công nghệ mà xấu
sẽ có tác động đến độ bền của thiết bị, điều kiện bảo quản sản phẩm công trình nhà
xưởng và điều kiện sống của các chuyên gia nước ngoài. Tài nguyên thiên nhiên
phong phú cũng là một điều kiện quan trọng trong thu hút FDI vì thực chất của
dòng vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, mà trong lĩnh vực công


×