Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

“ Một số biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề thế giới thực vật ”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.86 KB, 30 trang )

Lêi CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo khoa
Giáo dục mầm non; Ban chủ nhiệm khoa - Trường Đại học sư phạm Hà Nội
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo – PGS.TS. Lã
Thị Bắc Lý – Người đã trực tiếp giảng dạy và tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để em có thể hoàn thành bài tập tốt
nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm lớp
mẫu giáo 4 tuổi trường mầm non Hà An đã tạo điều kiện thuận lợi để em
hoàn thành bài tập tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân và tập thể lớp Mầm Non
K9A đã quan tâm, giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Quảng Yên , ngµy 1 th¸ng 08 n¨m 2014
Tác giả

Bùi Thị Hạnh


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu

B. Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Khảo sát thực trạng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ
thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề thế giới thực


vật.
Chương 3: Đề xuất các biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ
thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề thế giới thực
vật.

C. Phần kết luận
D. Tài liệu tham khảo
Phụ lục


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Chăm sóc giáo dục mầm non hiện nay đây là vấn đề mà cả xã hội quan
tâm, là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
quá trình chăm lo đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành chủ nhân tương lai của
đất nước. Giáo dục mẫu giáo là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
là mảnh đất thuận lợi cho việc hình thành nhân cách con người mới. Chính vì
thế mà lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy:
“ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm phải trồng người ”
Sự nghiệp trồng người là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó
giáo dục đào tạo là then chốt. Chính vì vậy Đảng và nhà nước ta có những
đường lối chính sách ưu tiên cho giáo dục phát triển. Đặc biệt trong nghị quyết
trung ương II, đã chỉ rõ mục tiêu của giáo dục đào tạo là: “ Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân tài ” để đáp ứng được yêu cầu. Xây dựng nền kinh tế nước nhà trong
giai đoạn công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ
thống giáo dục mầm non, có vai trò đặc biệt quan trọng đó là nền tảng, là cơ sở
giáo dục các bậc học, là lớp học đầu tiên trong cuộc đời đi học của trẻ đòi hỏi
phải công phu để trẻ có tâm thế vững vàng. Chính vì vậy mục đích của giáo viên
mầm non nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người

mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như sự khỏe mạnh nhanh nhẹn, cơ thể phát triển
hài hòa cân đối, giáo dục trẻ lòng yêu thương, biết quan tâm nhường nhịn những
người gần gũi xung quanh mình, thật thà, lễ phép, mạnh dạn tự tin, hồn nhiên,
trẻ biết yêu cái đẹp trong cuộc sống. Từ đó giáo dục trẻ lòng nhân ái, tính vị tha,
giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn.
- Do vậy nhiệm vụ của trường mầm non là chăm sóc giáo dục trẻ phát
triển toàn diện để trẻ có đủ thể lực, đủ trí tuệ trong học trường phổ thông, một
trong những tiền đề để trẻ phát triển nhân cách toàn diện về mọi mặt dặt nền
móng cho sự phát triển trí tuệ, năng lực phẩm chất, nhân cách con người mới xã
hội chủ nghĩa trong đó ngôn ngữ là mấu chốt.


- Việc phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non được tích hợp trong các
hoạt động và trong những tiền đề để trẻ hoạt động đem lại hiệu quả cao cho trẻ
phát triển ngôn ngữ là hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chính vì
thế mà em chọn đề tài “ Một số biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu
giáo nhỡ qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề thế giới
thực vật ”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Để tìm ra những biện pháp thích hợp để phát triển vốn từ cho trẻ nhằm giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
Tổng hợp các tư liệu có liên quan đến đề tài, đề cập đến một số vấn đề cốt lõi
về phát triển vốn danh từ qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh về thế
giới thực vật cho trẻ 4-5 tuổi.
2. Nghiên cứu thực trạng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm
non thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh.
3. Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ mầu giáo nhỡ qua hoạt
động làm quen với môi trường xung quanh về thế giới thực vật.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp đọc tài liệu và xử lí thông tin
Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài và sử dụng các phương
pháp như: phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa để làm rõ
vấn đề nghiên cứu, để tìm hiểu các khía cạnh, xác định các thành phần trong cấu
trúc của thông tin đó, để tìm ra những đặc điểm riêng biệt của nó, đồng thời lĩnh
hội những nhân tố tích cực, chỉ ra được các biện pháp tích cực nhằm phát triển
vốn từ cho trẻ 4- 5 tuổi.
2. Sử dụng phương pháp điều tra
- Tôi tiến hành điều tra đối tượng là giáo viên mầm non và trẻ mầm non.
- Địa điểm: lớp mẫu giáo 4 tuổi A1 trường mầm non Hà An, thị xã Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh.


- Số lượng: 20 trẻ.
- Thời gian: từ ngày 9/9 đến ngày 9/11 năm 2013
- Mục đích: Điều tra để làm rõ nhận thức, tổ chức hoạt động giáo dục mầm non
3. Phương pháp quan sát
- Đối tượng nghiên cứu: trẻ.
- Địa điểm: Trường mầm non Hà An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
- Số lượng: 20 trẻ
- Mục đích: quan sát sự hứng thú của trẻ, quan sát hoạt động của giáo viên đối
với trẻ 4-5 tuổi nhằm tìm hiểu những biện pháp tích cực nhằm phát triển vốn từ
cho trẻ 4- 5 tuổi.
4. Phương pháp đàm thoại
- Đối tượng nghiên cứu: trẻ.
- Địa điểm: Trường mầm non Hà An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
- Số lượng: 20 trẻ.
- Mục đích: đàm thoại với giáo viên về sự nhận thức của trẻ, những khó khăn
khi thực hiện.

5. Pương pháp tổng kết kinh nhiệm
- Địa điểm: Trường mầm non Hà An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
- Mục đích: nhận xét rút kinh nghiệm.
6. Phương pháp thực nghiệm
- Đối tượng nghiên cứu: trẻ.
- Địa điểm: Trường mầm non Hà An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
- Số lượng: 20 trẻ.
- Mục đích: kiểm nghiệm cách thực hiện, kiểm chứng hiệu quả tổ chức.
7. Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phân tích, đánh giá thực tiễn biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mầu giáo 4-5
tuổi thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề thế giới
thực vật từ đó rút ra những kết luận nhằm nâng cao chất lượng vốn từ ở trẻ 4-5
tuổi.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I Cơ sở lí luận của đề tài
I. Cơ sở sinh lí
1. Sự phát triển của bán cầu đại não liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ
Cho tới lúc ra đời, não bộ của trẻ vẫn chưa được phát triển đầy đủ, mặc dù
hình thái và cấu tạo giải phẫu của nó không khác với não người lớn là mấy. Nó
có kích thước nhỏ hơn và trọng lượng khoảng 370- 392 g. Trọng lượng của não
tăng lên mạnh mẽ trong 9 năm đầu tiên. Lớp trong của não bộ phát triển chậm so
với lớp vỏ ngoài, chính sự phát triển quá mạnh đó của lớp vỏ tạo thành
nhuwngxneeps nhăn, những rãnh trên vỏ não.
Một đặc điểm phát triển của vỏ não là sự phát triển của dduwwongf dẫn
truyền diễn ra rất mạnh mẽ theo sự tăng lên của tuổi.
Sự myêlin hóa các sợi thần kinh là một giai đoạn phát triển quan trọng của
não bộ. Quá trình này có một ý nghĩa sinh học to lớn, bởi nó góp phần làm cho
hưng phấn được truyền đi một cách riêng biệt theo các sợi thần kinh, do đó hưng

phấn đi đến vỏ não một cách chính xác hơn, làm cho hoạt động của đứa trẻ được
hoàn thiện hơn.
Não của trẻ em được lập trình sẵn về mặt di truyền với các quá trình cần thiết
cho việc học tập và đặc biệt là học tập ngôn ngữ. Thông qua ngôn ngữ, trẻ cũng
biết gì nên, không nên, từ đó sẽ dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu
về đạo đức. Khi não xử lý nhiều thông tin ngôn ngữ nhập vào hơn, não sex trở
thành một bộ xử lý ngôn ngữ có kỹ năng và hiệu quả hơn.
2. Sự phát triển của bộ máy phát âm
Mỗi người sinh ra đã có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để sản sinh
âm thanh ngôn ngữ. Nó là một trong những điều kiện vạt chất quan trọng nhất
mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ, nếu như trong cấu tạo của nó có khiếm
khuyết nào đó ( chẳng hạn như hở hàm ếch, lưỡi ngắn, sứt môi...0nthif việc hình
thành lời nói cũng hết sức khó khăn.
Khi sinh ra, mỗi con người không phải đã có ngay bộ máy phát âm hoàn
chỉnh. Chính lứa tuổi mầm non là giai đoạn hoàn thiện dần bộ máy đó: sự xuất


hiện và hoàn thiện dần của hai hàm răng, sự vận động của môi, lưỡi, của hàm
dưới.... Quá trình đó diễn ra tự nhiên theo các quy luật sinh học. Tuy nhiên, bộ
máy phát âm hoàn chỉnh mới chỉ là tiền đề vật chất. Cùng với thời gian, quá
trình học tập, rèn luyện một cách có hệ thống sẽ làm cho bộ máy phát âm đáp
ứng được nhu cầu thực hiện các chuẩn mực âm thanh ngôn ngữ.
Rèn luyện bộ máy phát âm: phát triển sự linh hoạt của lưỡi, lưỡi có thể
chuyển động, phối hợp nhịp nhàng với các bộ phận khác như: răng, môi,
ngạc,...phát triển sự linh hoạt của môi ( kéo môi về phía trước, làm tròn môi,
giãn môi, mím môi, tạo khe hở giữa môi và răng, ...) phát triển kĩ năng làm cho
hàm dưới trong tư thế xác định phù hợp.
II. Cơ sở tâm lí
1. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo nhỡ
- Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ đã biết tư duy bằng những hình ảnh trong đầu,

nhưng do biểu tượng cong nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình
diện bên ngoài vào bìn diện bên trong nên trẻ mới chỉ giải được một số bài
toán đơn giản theo kiểu tư duy trực quan hình tượng. Cùng với sự hoàn thiện
hoạt động vui chơi và sự phát triển các hoạt động khác như kể chuyện, đi
chơi, dạo chơi,... vốn biểu tượng của trẻ mẫu giáo nhỡ được giàu lên thêm rất
nhiều, chức năng kí hiệu phát triển mạnh, lòng ham hiểu biết và hứng thú
tăng lên rõ rệt. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tư duy trực quan –
hình tượng, đây cũng là thời điểm kiểu tư duy đó phát triển mạnh mẽ nhất.
- Trẻ bắt đầu đề ra cho mình những bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích
những hiện tượng mà mình nhìn thấy được. Trẻ thường thực nghiệm, chăm
chú quan sát các hiện tượng và suy nghĩ về những hiện tượng đó để rút ra kết
luận.
- Phần lớn ở trẻ mẫu giáo nhỡ đã có khả năng suy luận. Trẻ có khả năng giải
các bài toán bằng các phép thử ngầm trong óc, dựa vào các biểu tượng, kiểu
tư duy trực quan hình tượng bắt đầu chiếm ưu thế.
- Tư duy trực quan- hình tượng phát triển mạnh cho phép trẻ em ở độ tuổi
mẫu giáo nhỡ giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ thường gặp trong đời


sống. Tuy vậy, vì chưa có khả năng tư duy trừu tượng nên trẻ chỉ mới dựa
vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận ra
những vấn đề mới. Do vậy nhiều trường hợp chỉ dừng lại ở các hiện tượng
bên ngoài mà chưa đi được vào bản chất bên trong.
2. Khả năng chú ý và ghi nhớ của trẻ mẫu giáo nhỡ.
- Trẻ mẫu giáo 4- 5 tuổi, sự chú ý phát triển mạnh. Nhưng sự thay đổi cơ bản
của chú ý ở lứa tuổi này là ở chỗ trẻ bắt đầu biết điều khiển chú ý của mình,
biết tự giác hướng chú ý của mình vào đối tượng nhất định, có nghĩa là chú ý
có chủ định bắt đầu hình thành ở tuổi mẫu giáo nhỡ.
- Chú ý có chủ định gắn liền với hành động có mục đích , với ngôn ngữ.
- Ở lứa tuổi này chú ý có chủ đã được hình thành nhưng chú ý không chủ

định vẫn chiếm ưu thế.
- Trẻ mẫu giáo nhỡ trí nhớ không chủ định vẫn chiếm ưu thế, ở lứa tuổi này,
tài liệu trực quan được ghi nhớ tốt hơn nhiều so với tài liệu chỉ bằng ngôn
ngữ. Đến độ tuổi này trí nhớ ngôn ngữ cũng tăng một cách đáng kể, với tốc
độ có khi nhanh hơn cả trí nhớ trực quan,
- Bên cạnh trí nhớ không chủ định, vào tuổi mẫu giáo nhỡ ghi nhớ có chủ
định bắt đầu hình thành. Có những thay đổi đó là vì điều kiện hoạt động phức
tạp hơn, người lớn yêu cầu cao hơn, buộc trẻ không những định hướng vào
hiện tại mà cả vào quá khứ và tương lai nữa.
III. Cơ sở giáo dục học
1. Nói về quan điểm giáo dục hiện đại
- Quan điểm giáo dục hiện đại hướng tới quan điểm “ Lấy trẻ làm trung tâm ”
hay còn gọi là xu hướng giáo dục “ hướng vào đứa trẻ ”, “ vì lợi ích của
chính bản thân đứa trẻ ”.
Trẻ em vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoạt động. Những kinh nghiệm,
tri thức của trẻ phải là sản phẩm của chính hành động trực tiếp của trẻ với
môi trường xung quanh. Tính tích cực là một phẩm chất quan trọng của nhân
cách, có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của con người nói chung
và trẻ mẫu giáo nói riêng.


Hứng thú và nhu cầu là nguồn gốc bên trong của tính tích cực, là động lực
thúc đẩy con người hoạt động. Trong quá trình giáo dục, người lớn phải chú
ý đến trẻ, hướng vào đứa trẻ, phải lấy trẻ làm trung tâm, vì sự phát triển của
chính đứa trẻ, tạo điều kiện cho chúng tích cực hoạt động.
Mọi tác động giáo dục muốn có hiệu quả cần phải chú ý đến biện pháp giáo
dục phù hợp với từng đứa trẻ, giúp cho mỗi đứa trẻ trở thành chính nó, tránh
lối giáo dục đồng loạt. Trẻ em chính là một chủ thể tích cực trong hoạt động
nhưng chúng rất cần đến sự giúp đỡ và hợp tác của cô giáo, của bạn bè.
Khi tổ chức cho trẻ hoạt động, nhà giáo dục không áp đặt trẻ theo ý muốn

chủ quan của họ mà luôn luôn cho trẻ tự do chọn góc chơi, tự do hoạt động
theo nhu cầu hứng thú của mình. Tạo cơ hội, điều kiện cho trẻ được trải
nghiệm, được thực hành, được chia sẻ, được khám phá mình trong thế giới
muôn hình muôn vẻ xung quanh chúng.
Nhà giáo dục với tư cách là “ thang đỡ ”, là “ điểm tựa ” của trẻ, trong quá
trình giáo dục trẻ, giáo viên quan tâm đến dòng suy nghĩ của trẻ hơn là những
điều trẻ hiểu biết. Họ quan tâm đến cách dạy trẻ học như thế nào hơn là cho
trẻ học cái gì. Họ tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ tích cực hoạt động, kích thích
óc sáng tạo của trẻ trong các hoạt động của chúng ở trường mầm non.
Việc lấy trẻ là trung tâm, luôn luôn coi trẻ là chủ thể tích cực trong mọi
hoạt động của chúng và nhà giáo dục tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho trẻ
bộc lộ tính tự lập, tự quyết định làm những điều chúng muốn, chúng thích và
chúng nghĩ là một nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng quan trọng trong
giáo dục mầm non.
Theo “ Lí thuyết hoạt động ” của Leeonchep thì nhân cách của con người,
trong đó có trẻ em mầm non chỉ hình thành trong hoạt động và thông qua
hoạt động. Sự phát triển của trẻ em là một quá trình liên tục, trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn lại có một hoạt động chủ đạo mang nét
đặc thù riêng ở lứa đó. Thông qua hoạt động chủ đạo để giáo dục và phát
triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ.


Chỉ trong quá trình hoạt động tích cực thì trẻ mới có thể hiểu được và hiểu
đúng những quy luật của thế giới xung quanh và trên cơ sở đó mới có thể
biến đổi và cải tạo nó. Quá trình giáo dục trẻ không thể tồn tại nếu thiếu tính
tích cực của chính bản thân trẻ mà tính tích cực này của trẻ là do nhà giáo
dục tạo ra. Chỉ ở trong đều kiện như vậy, trẻ mới có thể chiếm lĩnh được tri
thức mới và nắm được các kĩ năng mới, phát triển được các năng lực và
phẩm chất tâm lí cá nhân.
Quan điểm của giáo dục mầm non của nước ta cũng rất quan trọng nguyên

tắc “ lấy trẻ làm trung tâm ” trong quá trình giáo dục và phát huy tính tích
cực của trẻ trong hoạt động, coi đó là điều kiện bắt buộc trong đổi mới giáo
dục mầm non hiện nay. Nhấn mạnh quá trình chăm sóc – giáo dục phải
hướng vào đứa trẻ, giáo dục phải xuất phát từ nhu cầu, hứng thú của trẻ, nhà
giáo dục không được áp đặt trẻ theo ý muốn chủ quan của mình, đứa trẻ phải
được coi là chủ thể tích cực trong các hoạt động của chúng còn giáo viên giữ
vai trò là “ điểm tựa ”, là người tổ chức hướng dẫn, tạo cơ hội, điều kiện
thuận lợi cho trẻ trong các hoạt động của hchungs trong trường mầm non.
2. Vấn đề giáo dục tích hợp ở trường mầm non
Trường mầm non cần phải là nơi đào tạo và đảm bảo cho những giá trị
quan trọng của xã hội, cần phải phát triển những năng lực của. Giáo viên
không chỉ có chức năng truyền thụ kiến thức và thông tin cho trẻ em học mà
phải là người giúp đỡ và dạy cho trẻ em biết sử dụng vốn kiến thức, kinh
nghiệm của mình vào những tình huống có ý nghĩa đối với chúng.
Ngày nay, trong giáo dục mầm non, vấn đề cần hay không cần tích hợp các
môn học cũng như các hoạt động giáo dục trẻ không đặt ra nữa mà hiển
nhiên đã được khẳng định chắc chắn rằng, cần tích hợp các “ tiết học ”, các
hoạt động của trẻ với nhau. Xu hướng tiếp cận tích hợp trong giáo dục mầm
non cũng xuất phát từ nhận thức thế giới tự nhien- xã hội con người nói
chung và trẻ ở lứa tuổi mầm non nói riêng là một tổng thể thống nhất. Trẻ
được phát triển trong hoạt động và chỉ thông qua hoạt động mà hoạt động


nào cũng liên quan đến nhiều lĩnh vực kiến thức, kỹ năng. Vì thế mà cần
phải cung cấp cho trẻ những kiến thức, kinh nghiệm sống một cách tổng thể.
Có nhiều cách tích hợp trong giáo dục mầm non và một trong những cách
đó là tích hợp theo chủ đề. Cách tiếp cận này xoay quanh một “ môn học ”
hoặc một hoạt động “ công cụ ”, “ môn học ” hoặc hoạt động này có đặc
điểm là chỉ có một phần nội dung là đặc thù nhưng lại có thể nhận những
môn khác làm nội dung của mình. Ví dụ như hoạt động với đồ vật là hoạt

động chủ đạo của trẻ lứa tuổi ấu nhi và hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo
có thể trở thành hoạt động chính để tích hợp, lồng ghép và đan cài các hoạt
động khác của trẻ theo các chủ đề gần gũi với cuộc sống thực của chúng.
Tích hợp, lồng ghép, đan cài nội dung đó thông qua các hoạt động giáo dục
đa dạng, phong phú và tạo điều kiện cho trẻ vận dụng những điều đã biết vào
những hoàn cảnh mới, tình huống mới, tạo cơ hội cho trẻ phát huy tính độc
lập, chủ động và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của mình.
Giáo dục tích hợp đòi hỏi cô giáo quan tâm đến tiềm năng phát triển của
đứa trẻ hơn là tạo ra cơ hội tương ứng với mức độ phát triển hiện tại của
chúng. Cô giáo nâng đỡ trẻ bằng cách giảm dần mức độ trợ giúp khi trẻ có
khả năng hơn trong việc tự điều khiển hoạt động của mình.
Giáo dục tích hợp theo chủ đề dựa trên quan điểm tiến bộ lấy trẻ làm trung
tâm, khai thác tiềm năng vốn có của trẻ, dựa vào các đặc điểm cá nhân, phù
hợp với hứng thú, nguyện vọng và năng khiếu trên tinh thần tự do, tự
nguyện, chủ động tích cực tham gia vào hoạt động của đứa trẻ, giáo viên giữ
vai trò là người tổ chức hướng dẫn, giúp đỡ trẻ trong những lúc cần thiết, kịp
thời động viên khích lệ trẻ.
Giáo dục tích hợp ở trường mầm non chính là quá trình tác động sư phạm
một cách phù hợp với sự phát triển tình cảm, đạo đức và trí tuệ của trẻ, cho
trẻ được tham gia vào nhiều hoạt động theo chủ đề nhằm cung cấp cho trẻ
nhiều cơ hội được học tập và luyện tập để trở thành nhà nghiên cứu, trẻ tích
cực, năng động trong việc tìm hiểu, khám phá, kích thích trẻ tư duy tích cực,


vận dụng các kiến thức, kỹ năng, lựa chọn và đưa ra quyết định tron hoàn
cảnh có ý nghĩa đối với cuộc sống thực của chúng.
Tích hợp trong giáo dục mầm non cần được hiểu và thể hiện trong quá trình
chăm sóc- giáo dục trẻ. Xây dựng chương trình giáo dục mầm non không
xuất phát từ logic phân chia các bộ môn khoa học như ở trường phổ thông
mà phải xuất phát từ yêu cầu hình thành những năng lực chung nhằm hướng

tới sự phát triển của trẻ.
IV. Cơ sở ngôn ngữ
1. Danh từ tiếng việt
* Khái niệm: Danh từ là những từ chỉ về người, sự vật, sự việc ý tưởng.....
* Đặc điểm
- Danh từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật ( sự vật được hiểu theo nghĩa khái
quát nhất: đồ vật, con vật, cây cối, người, khái niệm...)
- Danh từ có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng ở trước và từ chỉ định
ở sau để tạo nên cụm danh từ mà nó là thành tố trung tâm.
Ví dụ: hai ngôi nhà ấy, những người này
- Danh từ có khả năng đảm nhiệm thành phần chính và thành phần phụ trong
câu.
Ví dụ: Hoa là học sinh giỏi. ( Hoa là chủ ngữ )
Mẹ Hoa là công nhân ( Hoa là định ngữ )
Học sinh được tặng bằng khen là Hoa ( Hoa là vị ngữ )
* Phân loại
- Danh từ riêng: là tên riêng của một người, một địa danh hay một vật.
Ví dụ: Hồ Chí Minh, Hà Nội, ...
- Danh từ chung: là tên gọi của một lớp sự vật đồng chất về một phương diện
nào đó.
Ví dụ: bàn, ghế, giường, sách, bát, đũa, xe đạp,....
Danh từ chung gồm:
+ Danh từ tổng hợp: là những danh từ chỉ gộp các sự vật khác nhau nhưng
gần gũi với nhau, thường đi đôi với nhau và hợp thành một loại sự vật.


Ví dụ: sách vở, gà vịt, quần áo....
+ Danh từ trừu tượng: là những danh từ chỉ các khái niệm trừu tượng thuộc
phạm vi tinh thần.
Ví dụ: tư tưởng, thái độ, ý nghĩ, đạo đức, niềm vui, nỗi buồn....

+ Danh từ cụ thể: là những danh từ chỉ sự vật cụ thể, có thể tri nhaannj bằng
các giác quan ( nghe, nhìn, sờ, ngửi... ). Danh từ cụ thể có thể phân thành các
nhóm sau:
 Danh từ đơn vị: chỉ các đơn vị sự vật. Danh từ đơn vị bao gồm:
Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên: chiếc, cái, con, bức, tờ, tẩm,...
Danh từ chỉ đơn vị đo lường: mẫu, sào, tạ, tấn,....
Danh từ chỉ đơn vị tập thể: tốp, bọn, lũ, đống....
Danh tù chỉ đơn vị thời gian: giờ, phút, giây, năm, tháng,...
Danh từ chỉ đơn vị tổ chức hành chính: làng, xã, tỉnh, huyên,...
Danh từ chỉ đơn vị hành động, sự việc: cuộc, chiến, phen, lần,...
 Danh từ chỉ sự vật đơn thể: là những danh từ chỉ các sự vật có thể tồn
tại thành từng đơn vị cụ thể.
Ví dụ: sách, quần áo, chó, lợn,...
 Danh từ chỉ chất liệu: là những danh từ chỉ các chất, không phải các
vật.
Ví dụ: nước, đường, sữa,...
2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
- Trẻ 4-5 tuổi đã phát triển và thành thục với ngôn ngữ hơn, các lỗi đã giảm
nhiều và trẻ bắt đầu tham gia sử dụng ngôn ngữ như là một phương tiện để tham
gia vào cuộc sống xã hội và giao tiếp với những người khác, thể hiện nhu cầu
của trẻ và thuật lại những trải nghiệm của chúng.
- Vốn từ vựng tăng lên, trẻ có thể nắm được xấp xỉ 700 từ. Ưu thế thuộc về danh
từ và động từ. Hầu hết các loại từ đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
- Trẻ biết nói đúng ngữ pháp. Sử dụng các câu đơn mở rộng thành phần trạng
ngữ chỉ thời gian, địa điểm.


- Trẻ thuộc và hiểu được các bài hát, bài thơ dành cho trẻ nhỏ, trẻ có khả năng kể
lại câu chuyện.
V. Hoạt động làm quen với môi trường xung quanh

1. Nội dung
- Qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh trẻ học được các từ chỉ
tên gọi đồ vật, sự vật, hành động, hiện tượng. Nghe và hiểu nội dung các câu
đơn, câu mở rộng. Trẻ biết dùng từ để bày tỏ tình cảm, nhu cầu và kinh nghiệm
bản thân bằng các câu đơn, câu mở rộng. Trẻ trả lời và đặt các câu hỏi: Ai? Cái
gì? Quả gì....
- Trẻ được làm quen với môi trường tự nhiên xung quanh trẻ gồm các yếu tố như
nước, không khí, ánh sáng, động vật....Là phương tiện để giáo dục trẻ. Nó chứa
đụng các yếu tố cần thiết để hình thành ở trẻ biểu tượng về tự nhiên hữu sinh và
tự nhiên vô sinh, giáo dục tình cảm tốt của trẻ vói chúng.
- Hiện thực xã hội chỉ ra cho trẻ thấy mối quan hệ diễn ra trong xã hội , giúp trẻ
tích lũy kinh nghiệm xã hội, hiểu vị trí của mình trong đó, là thành viên của xã
hội loài người, có thể tham gia vào các sự kiện và cải tạo nó.
2. Phương pháp
Khi hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh cần sử dụng 3 nhóm
phương pháp cơ bản như:
- Nhóm phương pháp trực quan bao gồm các phương pháp như: quan sát, sử
dụng đồ dung trực quan.
- Nhóm phương pháp dung lời bao gồm các phương pháp như: đàm thoại, kể
truyện, thơ ca, tục ngữ, câu đố, bài hát…
- Nhóm phương pháp thực hành bao gồm các phương pháp như: sử dụng các
loại trò chơi ( Học tập, vận động, sáng tạo); phương pháp thí nghiệm, lao động.


Chương II Khảo sát thực trạng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ mẫu
giáo nhỡ thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề
một số loại quả
I. Khái quát địa bàn điều tra
Điều tra ở trường mầm non Hà An thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
1. Đặc điểm của trường

- Trường thành lập năm 1984
- Cơ sở vật chất: Quy mô trường lớp không tập chung ở một điểm trường, cò
nhiều cơ sở lẻ,trường mầm non Hà An có 4 điểm trường, một điểm chính, 3
điểm lẻ. Cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng đồ chơi phong phú đa dạng, không gian
rộng rãi, thoáng đủ cho trẻ hoạt động.
- Đội ngũ giáo viên: Tổng số giáo viên trong trường là 30 cán bộ giáo viên, trình
độ giáo viên đạt chuẩn 100% , trong đó trên chuẩn chiếm 55 %. Nhìn chung đội
ngũ cán bộ giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, luôn trao đổi học hỏi đồng
nghiệp để nâng cao trìnhđộ chuyên môn nghiệp vụ, bên cạnh đó cũng có một số
giáo viên mới ra trường, tay nghề còn yếu, chưa có kinh nghiệm giảng dạy.
2. Đặc điểm dân cư
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều. Chủ yếu là do
trình độ dân trí của người dân là không đồng đều. Một số phụ huynh có trình độ
nhận thức thấp, họ cho rằng đưa con đến trường là để gửi con để họ đi làm, họ
nghĩ con mình đến trường chỉ là chơi với các bạn, chơi với các đồ chơi, cô giáo
là người trông trẻ chứ không nghĩ các cô là người dạy, không quan tâm, hỏi han
con được học gì trẻn trường, cô giáo dạy con những gì? Tuy nhiên cũng có
những phu huynh thì rất quan tâm đén việc cho con đén trường, con được học
những gì trên lớp, họ còn có sự hợp tác với nhà trường, với cô giáo, họ hiểu
được công việc của các cô trên lớp. Khi con đi học về, phụ huynh hỏi con mình
xem cô giáo dạy con bài thơ, bài hát gì ? Và cho con đọc lại cho cả nhà cùng
nghe....
II. Đối tượng điều tra


1. Giáo viên dạy lớp mẫu giáo nhỡ

STT

Họ tên giáo viên


Trình độ

Thâm liên

1

Ngô Thị Thủy

Đại học

5 năm

2

Dương Thị Hoa

Đại học

5 năm

3

Phạm Thị Thu

Cao đẳng

6 năm

4


Nguyễn Thị Quỳnh Chi

Cao đẳng

8 năm

5

Phạm Thị Kim Dung

Trung cấp

5 năm

6

Dương Thị Hà

Đại học

8 năm

7

Nguyễn Thị Thủy

Cao đẳng

7 năm


8

Lê Thị Vui

Trung cấp

6 năm

2. Các cháu mẫu giáo nhỡ

STT

Họ tên trẻ

Giới tính

Hoàn cảnh gia đình

1

Lê Duy Anh

Nam

Bố làm CN, mẹ buôn bán

2

Vũ Duy Mạnh


Nam

Bố làm CN, mẹ làm giáo viên

3

Phạm Tuấn Minh

Nam

Bố làm ruộng, mẹ làm CN

4

Vũ Tùng Dương

Nam

Bố làm mỏ, mẹ làm nội trợ

5

Phạm Quang Huy

Nam

Bố làm CN, mẹ làm nội chợ

6


Nguyễn Thị Thùy Linh

Nữ

Bố làm công an, mẹ làm GV

7

Ngô Thị Bảo Châu

Nữ

Bố làm CN, mẹ làm giáo viên

8

Bùi Thị Hà Vy

Nữ

Bố làm mỏ, mẹ làm nội trợ

9

Trần Thị Phương Anh

Nữ

Bố làm CN, mẹ buôn bán


10

Ngô Thị Thanh Huyền

Nữ

Bố làm CN, mẹ buôn bán

11

Vũ Thị Kim Ngân

Nữ

Bố làm lái xe, mẹ làm du lịch


12

Vũ Hoàng Thùy Linh

Nữ

Bố, mẹ làm giáo viên

13

Phạm Tiến Thành


Nam

Bố làm CN, mẹ làm nội chợ

14

Trần Hải Nam

Nam

Bố làm công an, mẹ làm GV

15

Nguyễn Lương Quảng

Nam

Bố làm lái xe, mẹ làm du lịch

16

Phạm Quang Huy

Nam

Bố làm ruộng, mẹ làm CN

17


Đồng Huy Hoàng

Nam

Bố làm du lịch, mẹ làm GV

18

Hoàng Gia Bảo

Nam

Bố, mẹ làm giáo viên

19

Nguyễn Thị Quỳnh Trang

Nữ

Bố làm lái xe, mẹ làm du lịch

20

Bùi Thu Thảo

Nữ

Bố làm CN, mẹ làm nội chợ


III. Nội dung điều tra
1. Điều tra nhận thức của giáo viên về việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông
qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh.
2. Điều tra các biện pháp giáo viên đã sử dụng nhằm phát triển vốn danh từ cho trẻ
mẫu giáo nhỡ qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh chủ đề một số
loại quả.
3. Điều tra vốn danh từ của trẻ mẫu giáo nhỡ
IV. Phương pháp điều tra
1. Phương pháp dùng phiếu hỏi
Chúng tôi đã xây dựng phiếu hỏi gồm 9 câu hỏi, trong đó có câu hỏi đóng và
có câu hỏi mở và chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra trên 8 giáo viên dạy lớp
mẫu giáo nhỡ.
2. Phương pháp quan sát
Chúng tôi tiến hành quan sát việc sử dụng các biện pháp trên các hình thức
cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh để phát triển vốn danh từ cho trẻ.
3. Phương pháp đàm thoại
4. Phương pháp sử dụng bảng từ
STT
1
2

Từ
Quả



3

Cành


4

Cây

5

Hoa

6

Hạt

7

Vỏ

8

Rau

9

Củ

10

Cuống

V. Kết quả điều tra và phân tích kết quả điều tra
1. Kết quả điều tra nhận thức của giáo viên và các biện pháp đã sử dụng

Chúng tôi phát 8 phiếu cho giáo viên và thu về 8 phiếu. Kết quả thu được
như sau:
* Câu hỏi 1: Nhận thức của giáo viên về vai trò của các biện pháp phát triển vốn danh từ
cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh.

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần thiết

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

6

75

2

25


0

0

Giáo viên
8

Phân tích: Nhìn vào bảng kết quả cho thấy:
Trong số 8 giáo viên chúng tôi điều tra thì số giáo viên cho nhận thức cho
rằng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ thông qua làm quen với môi trường
xung quanh là việc rất cần thiết có 6 người chiếm tỷ lệ 75%. Còn số ít giáo viên
cho rằng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ thông qua làm quen với môi trường
xung quanh là cần thiết có 2 người chiếm tỷ lệ 25%.
Trong số 8 giáo viên được chúng tôi điều tra thì không có giáo viên nào
trả lời cho rằng việc phát triển vốn danh từ cho trẻ thông qua làm quen với môi


trường xung quanh là không cần thiết. Như vậy, có thể nói rằng nhận thức của
giáo viên về vấn đề phất triển vốn danh từ cho trẻ là đúng đắn, phần lớn họ có ý
kiến cho rằng rất cần thiết.
* Câu hỏi 2: Trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh, chị đã thực hiện nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ nào?
Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ
ở trường mầm non thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh,
cụ thể:
5/8 giáo viên xá định nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ chủ yếu là
phát triển vốn từ và phát triển ngôn ngữ mạch .
3/8 giáo viên xác định rất chung chung là phát triển tất cả các nhiệm vụ
phát triển ngôn ngữ trong đó có nhiệm vụ dạy nói cho trẻ, một số giáo viên cũng

chú ý phải sữa lỗi ngọng, nói lắp cho trẻ.
Câu hỏi 3: Theo chị, cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh nhằm mục
đích gì?
Cung cấp kiến Phát triển vốn
thức và các kỹ
năng
Điểm
%
đạt

từ

Phát triển

Giáo dục tình

năng lực quan

yêu thiên

sát
Điểm

%

đạt

Điểm

%


đạt

nhiên
Điểm
%
đạt

Giáo viên
8
Phân tích:

20

25

21

26,2

20

25

19

23,8

Qua bảng kết quả có thể thấy trong số 8 giáo viên được điều tra thì tất cả
giáo viên đều cho rằng mục đích cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh

mà cụ thể là cung cấp kiến thức và các kỹ năng, phát triển vốn từ, phát triển
năng lực quan sát, giáo dục tình yêu thiên nhiên đều quan trọng. Điều này có thể
nói là rất tốt. Một mặt khi họ nhận thức cho rằng khi cho trẻ LQVMTXQ là
cùng lúc phải giải quyết nhiều mục đích khác nhau, chính vì vậy họ ý thức rằng
mục đích nào cũng quan trọng như nhau nên họ không xác định được trong đó


có mục đích nào là mục đích chính, là mục đích quyết định để họ có ý thức chú
ý hơn.
Như vậy, có thể nói rằng nhận thức của họ về vấn đề mục đích cho trẻ
LQVMTXQ rất dàn trải, đồng đều nhau. Trong đó mục đích nhằm phát triển vốn
từ cho trẻ là cao hơn một chút đạt 21 điểm chiếm 26,2%. Mục đích cung cấp
kiến thức và các kỹ năng, mục đích phát triển năng lực quan sát bằng điểm nhau
đạt 20 điểm chiếm 25%. Mục đích giáo dục lòng yêu thiên nhiên đạt 19 điểm
chiếm 23,8%.
Câu hỏi 4: Theo chị, chị sử dụng những nội dung nào cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh nhằm phát triển vốn danh từ cho trẻ?
Động vật
Điểm

%

đạt

Thực vật
Điểm

%

đạt


Thiên nhiên
vô sinh
Điểm
%
đạt

Hiện tượng tự
nhiên
Điểm
%
đạt

Giáo viên
8

25

31,3

23

28,7

17

21

15


19

Phân tích: Nhìn vào bảng kết quả cho thấy nội dung cho trẻ làm quen với
môi trường xung quanh nhằm phát triển vốn danh từ thì động vật và thực vật là
những nội dung được giáo viên đánh giá cao hơn. Bởi lẽ, khi tiến hành cho trẻ
làm quen với môi trường xung quanh nhằm phát triển vốn danh từ cho trẻ, giáo
viên phải có đối tượng quan sát sinh động, hấp dẫn mà động vật và thực vật có
cấu tạo ngoài rất ngộ nghĩnh và phong phú. Vì thế thông qua các nội dung đó mà
nhà giáo dục giúp cho trẻ phát triển vốn danh từ một cách tốt hơn. Cụ thể ở đây
nội dung về động vật đạt số điểm cao nhất 25 điểm chiếm 31,3%, thực vật đạt 23
điểm chiếm 28,7% .
Còn 2 nội dung về thiên nhiên vô sinh và hiện tượng tự nhiên thì thấp
điểm hơn, một phần do nội dung của nó ít gần gũi đối với trẻ và phần khác cũng
do giáo viên không chú trọng tới nó. Tuy nhiên nếu giáo viên biết cách khai


thác triệt để thì 2 nội dung này cũng rất quan trọng và có ý nghĩa với trẻ. Nội
dung về thiên nhiên vô sinh đạt 17 điểm chiếm 21% và hiện tượng tự nhiên đạt
15 điểm chiếm 19%.
Câu hỏi 5: Chị đã sử dụng những biện pháp nào để phát triển vốn danh từ cho
trẻ thông qua làm quen với môi trường xung quanh?
3/8 giáo viên sử dụng biện pháp trò chuyện, đàm thoại với trẻ theo chủ đề
là chủ yếu, đôi khi có sử dụng kết hợp cả biện pháp sử dụng trò chơi.
4/8 giáo viên sử dụng biện pháp đàm thoại kết hợp cùng với đồ dùng trực
quan và các tác phẩm văn học.
1/8 giáo viên trả lời rất chung chung là kết hợp đầy đủ các biện pháp song
không nói rõ đó là biện pháp cụ thể nào.
Như vậy, việc sử dụng các biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ thông
qua LQVMTXQ của giáo viên chưa đồng bộ, chưa triệt để. Rất nhiều giáo viên
còn lúng túng khi đưa ra các biện pháp, nhiều khi các biện pháp có được sử

dụng đầy đủ, hợp lý hay không còn phụ thuộc vào tiết học ấy có được kiểm tra
dự giờ hay không.
Câu hỏi 6: Chị đã sử dụng những hình thức nào để phát triển vốn danh từ cho
trẻ?
6/8 giáo viên phát triển vốn từ cho trẻ chủ yếu là trên tiết học là chính, tiết
văn học và tiết môi trường xung quanh.
2/8 giáo viên cho biết thêm ngoài dạy trên tiết học còn phải dạy đủ mọi
lúc mọi nơi.
Như vậy, việc phát triển vốn danh từ cho trẻ trên các hình thức còn rất hạn
hẹp, giáo viên chưa áp dụng hình thức giáo dục tích hợp để dạy trẻ trong tất cả
các môn học. Đa số giáo viên phát triển vốn danh từ cho trẻ trên tiết học.
Câu hỏi 7: Những phương tiện nào được sử dụng cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh nhằm phát triển vốn danh từ cho trẻ.
Vật thật

Tranh ảnh

Mô hình

Băng hình


Điểm

%

Điểm

đạt


%

đạt

Điểm

%

đạt

Điểm

%

đạt

Giáo viên
8

23

28,8

20

25

19

23,8


18

22,5

Phân tích: Nhìn vào bảng chúng ta thấy trong số những phương tiện cơ
bản được sử dụng cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh nhằm phát triển
vốn danh từ cho trẻ như: vật thât, tranh ảnh, mô hình, băng hình thì việc cho trẻ
LQVMTXQ bằng vật thật được giáo viên đánh giá cao nhất đạt 23 điểm chiếm
28,8%.
Theo chúng tôi sở dĩ có kết quả như vậy là do khi cho trẻ LQVMTXQ
thông qua vật thật giúp trẻ được trực tiếp tự giác, sử dụng các giác quan sờ, nếm,
ngửi đối với rau củ quả, được tận mắt quan sát nghe nó vận động, vuốt ve, chăm
sóc đối với vật nuôi. Vật thật rất sinh động, sẽ gây hứng thú cho trẻ, phát huy tư
duy, trẻ dễ nhớ, ấn tượng sâu sắc.
Còn đối với việc sử dụng băng hình đạt 18 điểm chiếm 22,5%. Theo
chúng tôi việc sử dụng băng hình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
là rất khó, bởi lẽ trẻ không được tiếp xúc trực tiếp với đối tượng, ở trường mầm
non có ít băng hình về thiên nhiên, vì thế sẽ không phát triển được vốn từ cho
trẻ.
Câu hỏi 8: Chị đã gặp những thuận lợi và khó khăn gì?
Về thuận lợi
4/8 giáo viên cho rằng do đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi và
nội dung dạy trong chương trình quy định là rất phù hợp với trình độ nhận thức
ở trẻ nên đó là điều kiện thuận lợi.
4/8 giáo viên cho rằng do trẻ sống ở địa bàn thị xã nên trẻ có điều kiện
được giao tiếp, học hỏi nhiều nên cung tạo điều kiện trong việc phát triển vốn từ
cho trẻ.
Về khó khăn



6/8 giáo viên cho rằng khi gặp những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin thì cũng
rất vất vả.
2/8 giáo viên cho rằng những trẻ không được sự quan tâm của bố mẹ thì
cũng gặp khó khăn trong việc phát triển ngôn ngữ.
Câu hỏi 9: Đề xuất của chị về việc phát triển vốn danh từ cho trẻ 4-5 tuổi thông
qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh?
3/8 giáo viên đề xuất ý kiến nên tăng cường mở các lớp bồi dưỡng về các
biện pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ.
3/8 giáo viên đề xuất ý kiến nên có tài liệu hướng dẫn và tập huấn cho
giáo viên một cách cụ thể về nội dung và biện pháp phát triển vốn danh từ cho
trẻ 4-5 tuổi.
2/8 giáo viên đề xuất ý kiến cần phát huy, sáng tạo các nội dung, biện
pháp phát triển vốn danh từ cho trẻ.
3. Kết quả điều tra vốn từ của trẻ.
STT
1

Họ tên cháu
Lê Duy Anh

Số từ
6/10

%
60%

2

Vũ Duy Mạnh


7/10

70%

3

Phạm Tuấn Minh

8/10

80%

4

Vũ Tùng Dương

5/10

50%

5

Phạm Quang Huy

6/10

60%

6


Nguyễn Thị Thùy Linh

10/10

100%

7

Ngô Thị Bảo Châu

6/10

60%

8

Bùi Thị Hà Vy

8/10

80%

9

Trần Thị Phương Anh

10/10

100%


10

Ngô Thị Thanh Huyền

10/10

100%

11

Vũ Thị Kim Ngân

7/10

70%

12

Vũ Hoàng Thùy Linh

9/10

90%

13

Phạm Tiến Thành

5/10


50%

14

Trần Hải Nam

9/10

90%


15

Nguyễn Lương Quảng

5/10

50%

16

Phạm Quang Huy

6/10

60%

17


Đồng Huy Hoàng

8/10

80%

18

Hoàng Gia Bảo

9/10

90%

19

Nguyễn Thị Quỳnh Trang

7/10

70%

20

Bùi Thu Thảo

8/10

80%


Qua bảng kết quả điều tra vốn từ của trẻ cho thấy một số cháu đã sử dụng
được các danh từ, vốn danh từ của các cháu đó khá phong phú, bên cạnh đó còn
có một số cháu vốn danh từ còn ít, chưa phát triển, khi phát âm còn chưa chính
xác, do cháu nhút nhát, tự ti, còn nói tiếng địa phương, chưa tích cực tham gia
các hoạt động, gia đình chưa quan tâm tới trẻ.

CHƯƠNG 3: Đề xuất các biện pháp phát triển vốn danh từ cho
trẻ mẫu giáo nhỡ qua hoạt động làm quen với môi trường xung
chủ đề một số loại quả.
I. Khái niệm biện pháp
- Biện pháp là cách làm cụ thể trong hoạt động hợp tác cùng nhau giữa giáo viên
với trẻ nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã dặt ra.
II. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
- Dựa trên chương trình.
- Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.
- Dựa trên điều kiện địa phương và nhà trường.
III. Các biện pháp đề xuất


1. Biện pháp 1: Sử dụng trực quan
- Mục đích: Phát triển các giác quan cho trẻ, trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh
để tìm ra đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát, về các mối quan hệ của nó
với môi trường xung quanh.
- Yêu cầu: Màu sắc rõ ràng, đẹp, hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của trẻ, đảm bảo an
toàn, kích thước phù hợp với không gian lớp học.
- Cách thực hiện:
+ Bắt đầu chọn một bài thơ, câu đố,một bài hát phù hợp để khởi động.
+ Bắt đầu quan sát, cô cho trẻ tự do trao đổi những nhận xét đầu tiên và lắng
nghe, chú ý đến vốn từ của trẻ được sử dụng như thế nào.
+ Cô tiến hành hướng sự quan sát của trẻ vào mục đích cô đã đặt ra.

+ Tri giác của trẻ cần được gắn liền với những từ ngữ cô đã chuẩn bị trước. Tuy
nhiên không hạn chế các từ ngữ do trẻ tự sử dụng.
+ Cô chú ý cho các cháu quan sát kĩ và được nói nhiều các từ ngữ mới nếu được
nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác các sự vật, hiện tượng.
2. Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi
- Mục đích: Sử dụng một số trò chơi học tập để phát triển vốn danh từ cho trẻ.
- Yêu cầu: Trò chơi đơn giản, phù hợp với nhận thức của trẻ, phù hợp với chủ
đề.
- Cách thực hiện:
+ Trò chơi: Cái gì đã thay đổi? Trước mặt trẻ có bày một số đồ chơi. Yêu cầu trẻ
nhắm mắt lại, cô thay đổi vị trí của đồ chơi hoặc cất đi và bổ sung đồ chơi khác
vào vị trí đó. Yêu cầu trẻ mở mắt, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi.
+ Trò chơi: “ Chiếc túi kì diệu ”. Cho một số đồ chơi vào túi. Cô cho trẻ nhắm
mắt, không nhìn vào túi lấy vật theo yêu cầu của cô, lấy ra ngoài túi rồi phát âm
tên của vật. Lần sau cô tăng mức độ chơi bằng cách cô miêu tả vật, tự tưởng
tượng xem trong đó là vật gì và lấy vật theo sự miêu tả của cô và gọi tên.
+ Trò chơi: “ Hái hoa ”. Cô cho trẻ ngồi ghế hình vòng cung xong nói cách chơi.
Cô đặt các chậu hoa, lẵng hoa đã chuẩn bị, cô yêu càu trẻ hái hoa theo yêu cầu
của cô và nói tên hoa.


×