Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.85 KB, 17 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MỤC LỤC
Mở đầu.....................................................................................................................
Nội dung

...................................................................................................

I. Khái quát về công ty cổ phần...............................................................................
1. Khái niệm công ty cổ phần..................................................................................
2. Đặc điểm của công ty cổ phần.............................................................................
3.Khái quát chung về vốn của công ty cổ phần.......................................................
II. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần........................................
1. Phát hành cổ phiếu...............................................................................................
2. Phát hành trái phiếu.............................................................................................
3. huy động vốn thông qua hình thức tín dụng
III. Một số nhân xét về các quy định của pháp luật vốn trong công ty cổ phần và
giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về huy động vốn của
công ty cổ phần........................................................................................................
KẾT LUẬN.............................................................................................................

Các từ viết tắt trong bài :
LDN : Luật Doanh nghiệp.
LCK : Luật chứng khoán.
CTCP : công ty cổ phần.

TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

0



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MỞ ĐẦU
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, nó góp phần phát triển nên kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Trên thế giới, công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần có lịch sử phát triển
khá lâu đời, tuy nhiên ở Việt Nam, công ty cổ phần còn là một điều khá mới mẻ và
chưa được nhiều người biết đến. Để giúp mọi người hiểu hơn về loại hình công ty
này, em xin trình bày đề bài : “ Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ
phần”.
Bài làm này là sự cố gắng nghiên cứu, tìm tòi của em trong thời gian qua, tuy
nhiên vì thời gian và kiến thức có hạn nên bài làm không tránh khỏi những sai xót,
rất mong thầy cô góp ý để bài làm của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn !

NỘI DUNG
I. Khái quát về công ty cổ phần.
1. Khái niệm công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là
cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ
phần mà họ sở hữu.
Trong hệ thống khoa học pháp lý của các quốc gia khác nhau có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa
ra định nghĩa về công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu nhận biết về công
ty cổ phần, được quy định rõ tại khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp năm 2005 :
“1. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó :
a, Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b, Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa;

c, Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d, Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 54 của luật này.
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

1


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

2.Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
3.Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn”.
2. Đặc điểm của công ty cổ phần
Đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần giúp chúng ta phân biệt với những loại
hình công ty khác,đó là:
- Về thành viên công ty: Trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có ba
thành viên tham gia công ty cổ phần.
- Về vốn công ty: vốn do các cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời
hạn nhất định được ghi trong Điều lệ tạo thành vốn điều lệ của công ty.
- Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: Phần vốn góp( cổ phần) của các
thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát
hành là một loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo
quy định của pháp luật.
- Về chế độ trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty bằng tài sản của công ti. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ti trong phạm vi số vốn đã góp vào công ti ( tức là
đến hết phần giá trị cổ phần mà họ sở hữu).

- Trong quá trình hoạt động, công ti cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
(như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng
khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ti
cổ phần.
- Công ti cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Công ti có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3.Khái quát chung về vốn của công ty cổ phần.
 Khái niệm vốn của công ty cổ phần.
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, CTCP phải có vốn. Dưới khía cạnh
kinh tế có thể hiểu vốn của CTCP là giá trị toàn bộ tài sản tính bằng tiền của CTCP
được đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lợi nhuận
cho công ty. Dưới khía cạnh pháp lý thì cho đến nay vốn của CTCP vẫn chưa có
một định nghĩa chính thức và đầy đủ.
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

2


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

 Đặc điểm về vốn của công ty cổ phần.
Thứ nhất, vốn của CTCP được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó
chủ yếu là vốn huy động từ bên ngoài.
Thứ hai, đặc trưng về vốn của CTCP thường biểu hiện ở vốn điều lệ. Khác với
vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn của CTCP bắt buộc phải chia
thành những phần nhỏ nhất có giá trị bằng nhau gọi là cổ phần.
Thứ ba, vốn của CTCP có ảnh hưởng tới tổ chức nội bộ của CTCP.
Thứ tư, phần vốn của các cổ đông trong công ty có thể tự do chuyển nhượng
thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ một số trường hợp nhất định) mà
biểu hiện về mặt hình thức là chuyển nhượng cổ phiếu.

Thứ năm, vốn của CTCP có sự liên quan mật thiết tới thị trường chứng khoán.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, CTCP có quyền phát hành các loại chứng
khoán ra công chúng để huy động vốn. Trong quá trình huy động vốn, CTCP là chủ
thể sản xuất “hàng hóa” cho thị trường chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động sản xuất
kinh doanh của CTCP còn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Nếu CTCP làm ăn có lãi, các nhà đầu tư sẽ yên tâm, giá cổ
phiếu tăng, thị trường sẽ phát triển, ngược lại, công ty làm ăn không hiệu quả, hoặc
có hành vi lừa lọc, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, giá cổ phiếu giảm gây
phản ứng không tốt cho thị trường.
 Cấu trúc vốn của công ty cổ phần
CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý, những vấn đề quản lý nội bộ, quyền và nghĩa vụ của các cổ đông được giải
quyết chủ yếu dựa trên nguyên tắc đối vốn (nghĩa là dựa trên giá trị cổ phần mà các
cổ đông nắm giữ). Mặt khác với cấu trúc vốn linh hoạt, khả năng chuyển cổ phần
dễ dàng trên thị trường làm cho công ty cổ phần có phạm vi, quy mô kinh doanh
lớn, số lượng cổ đông đông đảo. Khi tham gia vào CTCP các cổ đông không quan
tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp. Cổ phần của công
ty gồm: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Sự đa dạng hóa các loại cổ phần với
các quyền và mức độ khác nhau cho phép công ty cổ phần tạo lập được cấu trúc
vốn linh hoạt phù hợp với khả năng, yêu cầu phát triển cũng như yêu cầu quản lý
công ty.
Với tính chất đa sở hữu, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế quản lý trong
CTCP dựa trên sức mạnh kinh tế của các nhóm sở hữu trong công ty. Trong cơ cấu
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

3


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


tổ chức bộ máy quản lý trong công ty có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các
bộ phận. Sự phân chia quyền lực này trước hết phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của các
cổ đông, nhằm đảm bảo một cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ, bảo vệ đến mức tối
đa quyền lợi của các cổ đông. Về cơ bản, bộ máy quản lý của doanh nghiệp đối
vốn có sự phân chia quyền lực và cơ cấu hoàn chỉnh, rõ ràng hơn so với doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. CTCP là một trong những loại hình doanh
nghiệp có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhất và hoàn thiện nhất, có sự phân chia quyền
lực rõ ràng nhất đồng thời cơ cấu tổ chức này chịu sự chi phối quyết định của cấu
trúc vốn.
Ưu thế của công ty cổ phần trong việc huy động vốn
* Khả năng tiếp cận thị trường vốn của CTCP đa dạng hơn các loại hình doanh


nghiệp khác.
Khoản 3 Điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có quyền phát hành
chứng khoán các loại để huy động vốn. Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là
công cụ đặc biệt của CTCP, nó đem đến ưu thế rất lớn cho CTCP nhờ khả năng thu
hút vốn dễ dàng, có thể huy động được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng
huy động, giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư. Trong
khi đó, khoản 3 Điều 130 và khoản 2 Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì
công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân “không được phát hành bất kì loại chứng
khoán nào”. Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn
có nhiều thuận lợi hơn nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ phần” (theo
quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Doanh nghiệp năm 2005).
* Ưu thế của CTCP trong việc thu hút các nhà đầu tư.
CTCP có cấu trúc vốn rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư.
Phần vốn của cổ đông có thể tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở
hữu cổ phần với hình thức chuyển nhượng cổ phiếu (trừ một số trường hợp do pháp
luật quy định). Việc chuyển nhượng cổ phiếu mang lại cho nền kinh tế sự vận động
nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty.

* Ngòai ra cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản (tính lưu động) và
chuyển nhượng đã khuyến khích các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế
đầu tư. Chính vì thế, CTCP có thể huy động được một nguồn vốn lớn đáp ứng được
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

4


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

các dự án đầu tư cần nguồn vốn lớn và lâu dài, mở rộng và đa dạng hóa các ngành
nghề kinh doanh một cách thuận lợi và dễ dàng

II. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần.
1. Phát hành cổ phiếu
a. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành chứng nhận
việc góp vốn vào công ty của các cổ đông. Cổ phiếu chính là bằng chứng chứng
minh quyền sở hữu cổ phần của cổ đông công ty.
Điều 85 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định : “cổ phiếu là chứng chỉ do
công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc
một số cổ phần của công ty đó…”
Cổ phiếu có nhiều loại khác nhau. Theo quy định của pháp luật, công ty cổ
phần được phép phát hành cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu phổ
thông là loại cổ phiếu mà tất cả các công ty cổ phần được phép phát hành. Loại cổ
phiếu này là loại chứng khoán không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của
công ty phát hành ra nó. Cổ phiếu phổ thông không có lãi xuất cố định mà phụ
thuộc vào khả năng kinh doanh của công ty
b, Phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần cho người

đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ
phần sẽ đảm bảo huy động đủ vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ
làm tăng vốn điều lệ của công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động.
Phát hành cổ phiếu có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người
mua cổ phiếu, tức là người mua cổ phiếu sẽ trở thành chủ sở hữu công ty. Các cổ
đông nắm giữ quyền sở hữu công ty tùy thuộc vào tỷ lệ phần vốn góp của họ trên
vốn điều lệ. Nên khi cổ phần mới được bán hết thì một phần quyền sở hữu công ty
của cổ đông cũ bị giảm sút do có sự tăng vốn điều lệ. Điều này dẫn đến việc thay
đổi vị thế của từng cổ đông và vì vậy có thể thay đổi cơ cấu quản lý và kiểm soát
công ty. Do vậy, việc quyết định số lượng cổ phiếu, loại cổ phiếu phát hành cũng
như phương thức phát hành phải được cân nhắc thận trọng. Việc chào bán cổ phần
ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có trong công ty nên việc quyết
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

5


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

định loại cổ phần, tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông.
c, Quy định của pháp luật về phát hành cổ phiếu.

Phát hành cổ phiếu lần đầu tiên khi thành lập công ty.
Khoản 4 Điều 84 LDN 2005 quy định: “Trường hợp các cổ đông sáng lập
không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại
phải được chào bán và phải bán hết trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Điều này được đặt ra để yêu cầu
CTCP nếu đã tiến hành chào bán cổ phiếu thì phải thực hiện đến cùng để huy động
được số vốn điều lệ như đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Việc quy

định thời hạn này có liên quan đến thời hạn mà cổ phần phổ thông của cổ đông
sáng lập được tự do chuyển nhượng, nhằm gắn trách nhiệm của cổ đông sáng lập
đối với công chúng đầu tư cũng như đối với CTCP phát hành trong giai đoạn đầu
thành lập, buộc cổ đông sáng lập chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của
mình cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty khi CTCP đã
hoàn thành đợt phát hành cổ phiếu lần đầu. Tuy nhiên, vì không quy định về trách
nhiệm pháp lý khi CTCP không thực hiện đúng điều luật nên việc thực hiện điều
luật này trên thực tế gặp nhiều khó khăn.


Phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần trong quá trình hoạt động

Phát hành cổ phiếu có thể thực hiện bằng hai phương thức:
Phát hành riêng lẻ( phát hành hẹp): là phương thức trong đó cổ phiếu có thể
được bán cho phạm vi một số người nhất định với khối lượng hạn chế. Phát hành
hẹp thường không chịu ràng buộc về điều kiện và thủ tục phát hành. Điều 87 LDN
quy định về việc CTCP phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán cổ phần
phổ thông cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty: “
Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần
trong số cổ phần được quyền chào bán. Giá chào bán cổ phần không được thấp
hơn giá trị thường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của
cổ phần tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp sau đây:
a, Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải cổ đông sáng
lập.
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

6


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


b, Cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của công ty
họ.
c, Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bản lãnh. Trong trường
hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số
cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
d, Các trường hợp khác và mức chiết khấu trong các trường hợp đó do Điều
lệ công ty quy định.”[…]
Nhưng hiện nay, việc chào bán cổ phần riêng lẻ không chỉ hướng tới các thành
viên trong CTCP mà còn mở rộng ra các nhà đầu tư bên ngoài có nhu cầu. Do đó,
để đảm bảo cho thị trường chứng khoán phát triển ổn định, sôi nổi và để đưa
phương thức này vào khuôn khổ có sự quản lý của pháp luật thì Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 4 của Nghị định có thể hiểu phát hành cổ phiếu
riêng lẻ là hình thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phần được chào bán hoặc
quyền mua cổ phần một cách trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng cho một trong các đối tượng sau: các nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp; dưới 100 nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Phát hành ra công chúng ( phát hành rộng rãi): Căn cứ vào khoản 12 Điều 6
Luật chứng khoán năm 2006 (LCK 2006) về chào bán chứng khoán ra công chúng
thì phát hành cổ phiếu ra công chúng được hiểu là phương thức phát hành trong đó
cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư với
khối lượng cổ phiếu phát hành đạt độ lớn nhất định theo một trong các phương
thức sau đây: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; Chào
bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp; Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật chứng
khoán về điều kiện, trình tự, thủ tục phát hành. Ngoài ra công ty phải thực hiện chế
độ báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp
luật.

Tóm lại, trình tự ,thủ tục phát hành cổ phiếu ra công chúng bao gồm các giai
đoạn:
Giai đoạn chuẩn bị phát hành: Công ty cổ phần quyết đinh loại, số lượng,
mệnh giá, mẫu mã của cổ phiếu dự kiến phát hành, lựa chọn và ký hợp đồng với tổ
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

7


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phát hành, chuẩn bị tài liệu hồ sơ xin
phép phát hành sau đó nộp hồ sơ xin phép phát hành đến UBCK Nhà nước.
Giai đoạn phát hành cổ phiếu: Sau khi được cấp giấy phép phát hành, công ty
thực hiện các hoạt động phát hành chứng khoán, công bố việc phát hành , thời hạn
phát hành, tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán cổ phiếu sau khi
kết thúc đợt phân phối.
d, Điều kiện chào bán cổ phẩn
 Đối với cổ phần phổ thông: LDN 2005 quy định: “các cổ đông sáng lập
phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền
chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày,
kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Yêu cầu này
đặt ra thường nhằm vào các CTCP mới thành lập và phát hành cổ phiếu lần đầu.
Bởi vì đối với các công ty này, đây là thời điểm công ty chưa khẳng định được
năng lực hoạt động của mình cũng như khả năng tài chính để đảm bảo an toàn
trong các quan hệ với đối tác bên ngoài và với công chúng đầu tư. Chính vì vậy,
pháp luật đưa ra quy định này để gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của các cổ
đông sang lập (thường là những người thông qua Điều lệ đầu tiên của CTCP) với
lợi ích của công ty và đề cao trách nhiệm của họ trong giai đoạn đầu thành lập của
CTCP đối với công chúng đầu tư.

 Điều kiện để chào bán cổ phần riêng lẻ:
Theo quy định tại Nghị định số 01/2010/NĐ – CP ngày 04/01/2010 về chào
bán cổ phần riêng lẻ : Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc
quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng cho một trong các đối tượng sau:
- Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
- Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Theo đó, điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ gồm có:
- Có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án
sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
quản trị theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội
đồng quản trị ( đối với công ty cổ phần); hoặc Hội đồng thành viên, chủ sở hữu
công ty ( đối với công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển thành công ty cổ phần); hoặc
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

8


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên
doanh ( đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty
cổ phần).
Phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được
chào bán dưới 100 nhà đầu tư, và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong
vòng 1 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
Trường hợp chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được
chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác
chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản
trị doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển

thị trường tiêu thụ sản phẩm, gắn bó với lợi ích lâu dài của doanh nghiệp;
Những người có quyền lợi liên quan đến đợt chào bán riêng lẻ không được
tham gia biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về việc này.
- Có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ theo quy định
gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến
thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
 Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng.
- Doanh nghiệp có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ
đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán ( điều kiện này đã thỏa mãn vì
Công ty đã phát hành được 2 triệu cổ phiếu tương đương với mức vốn là 20 tỷ
đồng).
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,
đồng thời không có lỗ lũy tiến đến năm đăng ký chào bán.
- Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Sau khi đã đáp ứng các điều kiện trên, doanh nghiệp sẽ nộp hồ sơ đăng ký
chào bán cổ phiếu ra công chúng lên Ủy ban chứng khoán nhà nước để xin phép
phát hành.
2. Phát hành trái phiếu.
a. Trái phiếu.
Trái phiếu là chứng từ xác nhận quyền làm chủ một món nợ và quyền hưởng
lãi trên món nợ đó của người sở hữu đối với công ty cổ phần. Người sở hữu trái
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

9


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

phiếu là chủ nợ của công ty. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu và công ty là

quan hệ giữa chủ nợ với con nợ. Trái phiếu chính là bằng chứng cho quan hệ đó.
Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được LDN 2005 quy định tại khoản 1
Điều 88 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và
các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”.
Khoản 3 Điều 6 LCK quy định: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức
phát hành”. Trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền của người sở hữu được
trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Nên người mua trái
phiếu của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và
cũng không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
Khoản 3 Điều 88 LDN 2005 quy định: “Trong trường hợp Điều lệ công ty
không có quy định khác thì Hội đồng quản trị có quyền quyết định loại trái phiếu,
tổng giá trị trái phiếu và thời điểm phát hành nhưng phải báo cáo Đại hội đồng cổ
đông tại các cuộc họp gần nhất. Báo cáo phải kèm theo tài liệu và hồ sơ giải trình
quyết định của Hội đồng quản trị về phát hành trái phiếu” . Quy định này nhằm
đảm bảo đảm bảo quyền cho phép cao nhất vẫn thuộc về Đại hội đồng cổ đông của
CTCP nơi mà bao gồm các cổ đông có quyền biểu quyết.
b. Phát hành trái phiếu
Phát hành trái phiếu là cách thức vay vốn, theo đó người vay phát hành một
chứng chỉ thường là với một mức lãi suất xác định, đảm bảo thanh toán một thời
hạn xác định trong tương lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty,
được nhận một mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn. Phát
hành trái phiếu là một trong những cách thức vay vốn quan trọng của công ty cổ
phần. Kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng vốn vay của công ty.
Lợi thế của công ty cổ phần khi phát hành trái phiếu đó là các cổ đông của
công ty không phải chia sẻ quyền điều hành công ty; chi phí để có vốn được giữ ở
một mức độ nhất định do đó tính toán được và so với cổ tức là một khoản không
tính được nên huy động vốn bằng phát hành trái phiếu sẽ rẻ hơn so với việc phát
hành cổ phiếu.
c. Những quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu.

TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

10


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Theo Luật chứng khoán ( LCK) năm 2006, CTCP có quyền phát hành trái
phiếu theo hai phương thức phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như đối
với phát hành cổ phiếu. Cũng như phát hành cổ phiếu riêng lẻ, phát hành trái phiếu
riêng lẻ không chịu sự ràng buộc của pháp luật về chứng khoán( về điều kiện, trình
tự, thủ tục phát hành) mà việc mua bán dựa trên sự thỏa thuận giữa công ty với
người mua.Phát hành trái phiếu ra công chúng là việc trái pháp luật được bán cho
một khối lượng nhà đầu tư với một số lượng nhất định. Trái phiếu phát hành ra
công chúng là đối tượng giao dịch tại trung tâm giao dịch tại trung tâm giao dịch
tập trung.Tuy nhiên, phát hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân theo
quy định của LDN 2005, còn phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ tuân theo các
quy định của LCK 2006.
Theo quy định tại Điều 88 Luật doanh nghiệp năm 2005, công ty cổ phần có
quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo
quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Hội đồng quản trị quyết định loại trái
phiếu, tổng giá trị trái phiếu và thời điểm phát hành. Việc phát hành trái phiếu
không làm thay đổi vốn cổ phần của công ty nên không làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của cổ đông cũng như không sửa đổi Điều lệ công ty, do đó, không cần phải
triệu tập Đại hội đồng cổ đông để quyết định vấn đề này.
3. Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng
a .Quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng.
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy
động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng
áp dụng trên thực tế. Thông qua hình thức này, công ty cổ phần có thể có được các

khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng công ty phải đáp
ứng được những điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có
phương án sử dụng vốn khả th và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện
pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng trừ những trường hợp công ty được ngân
hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay vốn của ngân hàng phải
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

11


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn
vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Việc đề ra những biện pháp đảm bảo bằng tài sản là biện pháp hữu hiệu để
ngân hàng dễ dàng thu hồi nguồn vốn cho vay đồng thời khuyến khích công ty cổ
phần hoạt động có hiệu quả. Các biện pháp đó là :
- Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng: là việc công ty cổ phần( bên vay vốn)
dùng tài sản là bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Tài sản dùng để thế chấp là những tài sản có giá
trị tài sản lớn và khó chuyển dịch được. Chính vì đặc điểm này mà ngân hàng
thường quản lý tài sản thế chấp thông qua giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hoặc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng: là việc công ty cổ phần( bên vay vốn) có
nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Khi cầm cố tài sản, công ty có nghĩa vụ giao tài sản cho
ngân hàng, nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì giữa ngân hàng và công ty có

thể thuận tài sản do công ty giữ hoặc giao cho bên thứ ba giữ, ngân hàng sẽ quản lý
gián tiếp tài sản đó thông qua bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
- Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc người thứ ba (pháp nhân hoặc cá nhân)
sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho công ty cổ phần( bên vay vốn) nếu khi đến
hạn trả nợ mà công ty không trả nợ được toàn bộ hay một phần nợ vay cho ngân
hàng. Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Ngân
hàng và bên bảo lãnh có thể thỏa thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên
bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản, công ty và ngân hàng
phải lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của công chứng
Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.Việc kiểm tra
tính hợp pháp và điều kiện cua tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực hiện.
Việc xác định tài sản đảm bảo tiền vay được thực hiện theo quy định tại Nghị
định 178/1999/NĐ – CP.
b. Quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng khó
tiếp cận vốn vay ngân hàng. Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính với chức
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

12


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

năng thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ vốn trung và dài hạn cho doanh
nghiệp. Thuê mua tài chính đang là phương thức huy động vốn thích hợp với khả
năng tài chính và tình trạng thực tế của nhiều công ty.
Theo Nghị định 16/2001/ NĐ – CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của công ty cho thuê tài chính Việt Nam đã nêu rõ: Cho thuê tài chính là một hoạt
động tín dụng trung hạn, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị,

phương tiện vẫn chuyển và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc,thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê
và thành toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được các bên thỏa thuận và
không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên
thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều
kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định
tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó
tại thời điểm ký hợp đồng. Như vây,thê thuê tài chính thực chất là các công ty tài
chính cấp tín dụng bằng tài sản cho các doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, huy động vốn thông qua hình thức tín dụng này có
nhiều thuận lời như thủ tục nhanh gọn, khi thỏa thuận xong hợp đồng, công ty có
thể nhận được tài trợ ngay. Thứ hai, công ty cho thuê tài chính có thể không yêu
cầu ngặt ngèo đối với công ty cổ phần về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp
đồng ( cầm cố, thế chấp, bảo lãnh) trong khi đó đây là điều kiện gần như bắt buộc
đối với doanh nghiệp khi vay vốn tại ngân hàng. Nguyên nhân là công ty cho thuê
tài chính đã nắm quyền sở hữu tài sản thuê này, qua đó hạn chết rủi ro tín dụng.
Một ưu điểm nữa và cũng được coi là thế mạnh của hoạt động tín dụng này là
công ty có thể đổi mới máy móc, thiết bị tiên tiến,bắt kịp sự đòi hỏi của thị trường
về mẫu mã, chủng loại ,chất lượng sản phẩm…điều này quyết định sự thành công
của công ty. Hơn nữa, khi lựa chọn hình thức này, công ty được tự mình lựa chọn
với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật,chủng loại, giá cả, cách thức, thời hạn giao
nhận, lắp đặt và bảo hành tài sản cho thuê. Tùy theo điều kiện thực tế, lĩnh vực
hoạt động kinh doanh mà tài sản có thể là tài sản mua ở trong nước hoặc tài sản
nhập khẩu từ nước ngoài.Khi kết thúc thời hạn thuê, công ty cổ phần được quyền
mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện thỏa thuận trong hợp
đồng thuê tài chính.
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

13



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Điều kiện để công ty cổ phần được thuê mua tài chính theo hợp đồng cho thuê
tài chính : phải có năng lực trách nhiệm pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Hình thức pháp lý của tín dụng thuê mua là hợp đồng cho thuê tài chính. Hợp
đồng cho thuê tài chính là thỏa thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho
thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác
theo quy định của pháp luật, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp
đồng cho thuê tài chính phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ việc xử lý khi
hợp đồng chấm dứt trước hạn. Hợp đồng cho thuê tài chính không được đơn
phương hủy bỏ
III. Một số nhân xét về các quy định của pháp luật vốn trong công ty cổ
phần và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về huy
động vốn của công ty cổ phần.
1. Về vốn chủ sở hữu.
Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có nhiều
điểm tiến bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên
cạnh đó vẫn còn những hạn chế không tránh khỏi. Vì vậy, pháp luật cần có những
sửa đổi thích hợp với xu thế của thời đại
2. Về vốn tín dụng.

Trái phiếu
Cũng giống như cổ phiếu, các loại trái phiếu có lẽ vẫn chưa thực sự thu hút các
nhà đầu tư. Tại Điểm b khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2005 có quy định
rằng: “Việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn
không bị hạn chế bởi các quy định tại điểm a và điểm b khoản này” nhưng hiện nay
chưa có khái niệm chính thức về tổ chức tài chính. Để tạo thêm hàng cho thị trường
trái phiếu, một thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam còn bỏ ngỏ, pháp luật nên

có những quy định cụ thể về quyền phát hành các loại trái phiếu khác, giải thích rõ
hơn các khoản thuộc Điều 88.

Tín dụng ngân hàng.
Đây là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và được không chỉ công ty
cổ phần mà các doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại
những hạn chế không tránh khỏi như hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo
thủ tục cho vay phức tạp… Hơn nữa,khi doanh nghiệp vay vốn thì khoản vay
TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

14


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

thường lớn nên lãi xuất cao , đồng thời với việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả
lãi và thời hạn trả. Mặt khác, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ
ngắn hạn trên doanh nghiệp chỉ được vay 12 tháng. Điều này gây khó khăn rất lớn
cho các doanh nghiệp khi đi vay vốn ngân hàng

Tín dụng thuê mua.
Cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế
giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp
Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này.Hành lang pháp lý về cho
thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Vì
vậy phải từng bước bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động liên
quan đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Bên cạnh đó, các quy định về phương thức xửu lí, quản lí, sử dụng, trích khấu hao
tài sản thuê tài chính cũng nên chỉnh sửa cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tóm lại , những quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2005 về công ty cổ

phần, đặc biệt là những quy định về cơ chế góp vốn và huy động vốn của nó đã tỏ
ra thông thoáng, mềm dẻo hơn, tạp thành hành lang pháp lý an toàn cho sự ra đời
và hoạt động của công ty cổ phần. Sự ra đời và ngày càng phát triển của thị trường
chứng khoán ở Việt Nam đã tạo điều kiện cho công ty cổ phần huy động vốn có
hiệu quả,, đáp ứng nhu cầu về vốn để hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy ban hành pháp luật đã là quá trình rất phức tạp, nhưng triển khai thhi hành còn
khó khăn hơn rất nhiều. Để những quy định về huy động vốn của công ty cổ phần
đi vào thực tế cuộc sống và phát huy có hiệu quả đòi hỏi sự hỗ trợ về rất nhiều mặt
cũng như những hướng dẫn cụ thể từ phía Nhà nước.

KẾT LUẬN
Từ những phân tích, đánh giá trên, bài tiểu luận của em phần nào giúp mọi
người hiểu hơn về loại hình công ty cổ phần nói chung và cách thức huy động vốn
trong công ty cổ phần nói riêng. Nắm rõ quy định của pháp luật về công ty cổ phần
giúp các nhà đầu tư mạnh dãn hơn trong việc đầu tư vào loại hình công ty này, từ
đó giúp mô hình công ty cổ phần phát triển hơn nữa.

TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

15


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thương mại I, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân
dân, 5/2006.
2. Luật Doanh nghiệp năm 2005.
3. Luật Chứng khoán năm 2006.
4. Nghị định số 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 quy định về chào bán cổ phần

riêng lẻ.
5. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 Về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
6. Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính.
7. Một số quy định của pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần. Luận văn tốt
nghiệp đại học Nguyễn Thị Vân Anh lớp Kinh tế 23 C . Hà Nội 2002
8. Những vấn đề lí luận và thực tiễn về vốn của công ty cổ phần ở Việt Nam, Đào
Thị Hằng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012.
9. Bộ bài tập Luật thương mại của Bộ môn Luật thương mại - ĐH Luật Hà Nội.
10. Một số trang web./.

TRẦN THỊ THƠM _ LỚP N11.TL1

16



×