Tải bản đầy đủ (.docx) (228 trang)

Nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 228 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

TRẦN QUỐC HOÀN

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TẠI TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

TRẦN QUỐC HOÀN

NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TẠI TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 09.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS. DƯƠNG ĐĂNG CHINH

HÀ NỘI – 2018

2


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, góp ý, động
viên của nhiều tổ chức và cá nhân, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới
tất cả các tổ chức và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
PGS,TS. Dương Đăng Chinh đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Sau Đại học, Bộ môn Tài chính
Ngân hàng của Học viện Tài chính đã giúp đỡ, góp ý và tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu và viết luận án.
Tôi xin cảm ơn các ý kiến đóng góp vô cùng quý báu của các nhà khoa
học trong và ngoài Học viện Tài chính để tôi hoàn thiện luận án này.
Trân trọng cảm ơn các cơ quan, ban ngành, các chi nhánh ngân hàng
thương mại và các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Phú Thọ đã cung cấp số
liệu, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin cám ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Hùng Vương và các
đồng nghiệp tại Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh đã góp ý, động viên, tạo
điều kiện về thời gian và hỗ kinh phí học tập để tôi hoàn thành chương trình
đào tạo trình độ Tiến sĩ khóa 2016 – 2019 của Học viện Tài chính.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, vợ và con tôi đã luôn bên cạnh,
giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất để tôi có đủ nghị lực và sự tập trung để hoàn
thành luận án này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn đến tất cả mọi người!
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Quốc Hoàn

3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu khoa học do
chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS,TS. Dương Đăng Chinh. Kết
quả nghiên cứu của luận án là trung thực và không có phần sao chép bất hợp
pháp nào từ các công trình nghiên cứu của các tác giả khác. Các nội dung mà
tôi có kế thừa, tham khảo từ các nguồn tài liệu đều được trích dẫn đầy đủ theo
quy định và nêu rõ trong danh mục tài liệu tham khảo, mọi sự giúp đỡ được
thể hiện trong lời cảm ơn.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Quốc Hoàn

4


MỤC LỤC

5



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

St
t
1
2
3
4
5
6
7
8

Chữ viết tắt

Giải nghĩa

Agribank

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt

BIDV

Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển

CIEM


Việt Nam
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (Bộ Kế

Co-opBank
DNNVV
DoE
EFA
ILSSA

hoạch và Đầu tư)
Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khoa Kinh tế của Trường Đại học Copenhagen
Phân tích nhân tố khám phá
Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội)
9 KMO
Kaiser – Meyer – Olkin
10 LienVietPostbank Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt
11 Maritime Bank
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam
12 MB
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
13 Nam A Bank
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á
14 NHNN
Ngân hàng nhà nước
15 NHTM
Ngân hàng thương mại

16 OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
17 Sacombank
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
18 Sig.
Mức ý nghĩa quan sát
19 SPSS
Phần mềm thống kê cho khoa học xã hội
20 Techcombank
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
St
Chữ viết tắt
Giải nghĩa
t
21 UBND
22 UNU-WIDER

Ủy ban nhân dân
Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển Thế giới của

23 VCCI
24 VIB
25 Vietcombank

Trường Đại học Liên Hợp Quốc
Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt

6



St

Chữ viết tắt

Giải nghĩa

t
26 Vietinbank

Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt

27 VPBank

Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh
vượng

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

8


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC CÁC HÌNH

9


10


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Vốn là điều kiện tiên quyết để DNNVV tồn tại và phát triển. Các
DNNVV thành lập thường không cần nhiều vốn đầu tư ban đầu, có thể dùng
vốn tự có của chủ doanh nghiệp và vốn góp của các cổ đông. Tuy nhiên, để
tồn tại và phát triển các DNNVV phải tìm cách mở rộng thị trường, nâng cao
năng lực hoạt động. Khi DNNVV phát triển càng nhanh thì càng cần đầu tư
nhiều và vì thế cần phải huy động thêm nhiều vốn đầu tư mới. DNNVV phải
tìm kiếm và sử dụng các hình thức tiếp cận vốn phù hợp và có lợi nhất cho
doanh nghiệp. Vốn cho DNNVV gồm hai nguồn chính là vốn bên trong và
vốn bên ngoài doanh nghiệp. Trong đó, vốn tín dụng ngân hàng là nguồn bên
ngoài tài trợ quan trọng cho DNNVV, giúp DNNVV mở rộng và phát triển
sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp DNNVV phản ứng linh hoạt trước những
biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, có một nghịch lý là thị trường tín dụng
DNNVV bao gồm các doanh nghiệp có nhu cầu tài chính quá lớn đối với hoạt
động tài chính vi mô nhưng lại quá nhỏ để tận dụng hiệu quả các mô hình
dịch vụ ngân hàng dành cho doanh nghiệp lớn [57], do đó các DNNVV sẽ gặp
rất nhiều khó khăn để có thể tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Hiện nay, DNNVV đang chiếm ưu thế về số lượng so với doanh nghiệp
lớn và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của từng quốc gia, từng địa phương. Tại tỉnh Phú Thọ, tính đến

31/12/2017 toàn tỉnh có 3.680 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó số
DNNVV chiếm 89,3% [5]. Các DNNVV tại tỉnh Phú Thọ có quy mô vốn nhỏ,
nhưng đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực, đã giải quyết tốt vấn đề việc làm, thu
nhập cho người lao động, đặc biệt là người lao động địa phương; khai thác và
phát huy các nguồn lực sẵn có của địa phương, đóng góp đáng kể vào nguồn
thu ngân sách của tỉnh, và góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp

11


hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh những thế mạnh của mình, các DNNVV
tại tỉnh Phú Thọ cũng đã và đang bộc lộ nhiều yếu điểm, trong đó nhiều
DNNVV thiếu vốn, khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Đặc biệt, hiện nay
với sự thông thoáng của các quy định pháp lý về điều kiện thành lập doanh
nghiệp cũng như chính sách khuyến khích hộ kinh doanh chuyển lên hoạt
động ở loại hình DNNVV đã giúp gia tăng nhanh chóng số lượng DNNVV
trong thời gian ngắn, nhưng điều này cũng làm số DNNVV không tiếp cận
được vốn tín dụng ngân hàng tăng lên do các DNNVV mới thành lập này khó
đáp ứng được các điều kiện cấp tín dụng của NHTM. Do đó, nếu không có
các giải pháp kịp thời để cải thiện thì đây sẽ trở thành thách thức lớn đối với
sự tồn tại và phát triển của khối doanh nghiệp này.
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và
phát triển doanh nghiệp yêu cầu NHNN Việt Nam chủ trì, phối hợp với các
Bộ, cơ quan liên quan tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện một số
giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là DNNVV tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng [6]. Bám sát chủ trương của Chính phủ, NHNN đã và đang có
những bước đi đúng đắn, kịp thời ban hành những chính sách hợp lý định
hướng cho các tổ chức tín dụng từng bước nâng cao khả năng tiếp cận các
dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, trong đó chú trọng đẩy mạnh tiếp cận vốn
tín dụng ngân hàng cho DNNVV,... Qua đó, theo Báo cáo Môi trường kinh

doanh (Doing Business Report) của Ngân hàng Thế giới từ năm 2015 đến nay
thì chỉ số tiếp cận tín dụng (getting credit) của Việt Nam đã được cải thiện và
giữ ổn định trong nhóm 30 nước có chỉ số cao nhất, chỉ số tiếp cận tín dụng
năm 2018 của Việt Nam xếp thứ 29 trên tổng số 190 quốc gia, tăng 3 bậc so
với năm 2017, tăng 7 bậc so với năm 2014 [72, tr.204]. Mặc dù vậy, kết quả
cấp tín dụng cho DNNVV còn nhiều bất cập như tỷ lệ dư nợ tín dụng
DNNVV chiếm tỷ trọng thấp (trung bình 22% đến 25%) trong tổng dư nợ tín

12


dụng toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn 2013 – 2017; số lượng DNNVV tiếp
cận vốn tín dụng ngân hàng còn khá khiêm tốn, chỉ hơn 30% DNNVV tiếp
cận được vốn tín dụng ngân hàng, gần 70% còn lại sử dụng vốn tự có hoặc
vay từ các nguồn vốn khác với chi phí cao và nhiều rủi ro [43]. Các DNNVV
tại tỉnh Phú Thọ cũng không ngoại lệ, khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng thì
các DNNVV thường gặp trở ngại như thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp,
lãi suất cho vay còn cao, các điều kiện cấp tín dụng của NHTM vẫn chưa phù
hợp với đặc thù riêng của DNNVV,…
Phú Thọ là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng kinh tế
của tỉnh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Bám sát sự chỉ đạo của
Chính phủ, của UBND tỉnh Phú Thọ và NHNN Việt Nam trong điều hành
hoạt động tiền tệ ngân hàng, trong những năm qua, ngành ngân hàng trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ đã thực hiện nhiều chương trình kết nối giữa ngân hàng doanh nghiệp, nhất là các DNNVV, từng bước tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện
để DNNVV tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nhằm phục hồi, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tính đến 31/12/2017 tổng dư nợ tín dụng DNNVV là
9.449 tỷ đồng (chiếm 19,33% tổng dư nợ) với 2.081 DNNVV còn dư nợ và
2.147 DNNVV được tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng trong năm 2017 (chiếm
35,73% tổng số DNNVV đăng ký kinh doanh) [26]. Thực tế này cho thấy dư

nợ tín dụng DNNVV tại tỉnh Phú Thọ chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ
tín dụng và thấp hơn trung bình cả nước, số DNNVV chưa tiếp cận được vốn
tín dụng ngân hàng còn ở mức cao. Ngoài ra, trong tổng số 6.402 doanh
nghiệp có đăng ký kinh doanh thì chỉ có 3.680 doanh nghiệp thực tế đang hoạt
động (chiếm 57,5%), số còn lại không phát sinh hoạt động sản xuất kinh
doanh, tạm ngừng hoạt động hoặc chờ làm thủ tục giải thể, phá sản [5]. Đây là
vấn đề đáng quan ngại đối với tỉnh Phú Thọ nói riêng và Việt Nam nói chung,

13


đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng cùng với
những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều này đòi
hỏi Chính phủ, các địa phương, ngành ngân hàng và các DNNVV,… cần phải
có những giải pháp để thúc đẩy quan hệ tín dụng giữa NHTM với DNNVV,
giải quyết triệt để những khó khăn, trở ngại trong quá trình tiếp cận vốn tín
dụng ngân hàng của DNNVV.
Những phân tích trên chỉ rõ tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học và thực
tiễn của đề tài nghiên cứu về khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của
DNNVV. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao khả năng tiếp
cận vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Phú
Thọ” làm luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học công bố trong và ngoài nước
có liên quan đến nội dung của luận án. Tác giả chọn lọc và phân loại các công
trình mà luận án có so sánh, kế thừa và phát triển theo 2 nhóm:
(i) Nhóm các công trình nghiên cứu lý thuyết để làm căn cứ khoa học,
tạo nền tảng lý thuyết cơ bản khi nghiên cứu về khả năng tiếp cận vốn tín
dụng ngân hàng của DNNVV, bao gồm lý thuyết phân bổ tín dụng, lý thuyết
kinh tế học thể chế, lý thuyết mạng lưới quan hệ xã hội và lý thuyết kinh tế có

điều tiết.
(ii) Nhóm các công trình nghiên cứu thực nghiệm gồm các luận án tiến
sĩ, các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo được công bố trên các tạp
chí khoa học uy tín mô tả kết quả nghiên cứu thực nghiệm về khả năng tiếp
cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV ở một số nước có những nét tương
đồng với Việt Nam hoặc ở một số tỉnh của Việt Nam.
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý thuyết
2.1.1. Lý thuyết phân bổ tín dụng

14


Lý thuyết phân bổ tín dụng (credit rationing) được đề xuất bởi Stiglitz
& Weiss (1981) trong nghiên cứu “Credit rationing in markets with imperfect
information” (Phân bổ tín dụng trong các thị trường có thông tin không hoàn
hảo). Theo quy luật cung cầu tín dụng, bên cầu tín dụng (người đi vay DNNVV) với mong muốn tối đa lợi ích kỳ vọng của mình từ việc vay tiền của
bên cung tín dụng (người cho vay - NHTM), và để có quyền sử dụng số tiền
vay này, DNNVV phải trả cho NHTM một khoản chi phí (lãi vay) trên cơ sở
thỏa thuận của hai bên. Tuy nhiên, nghiên cứu của Stiglitz & Weiss (1981)
cho thấy quy luật cung cầu tín dụng dựa vào lãi suất không thể giải thích khả
năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV do quyết định cấp tín
dụng không chỉ đơn thuần bị điều chỉnh bởi lãi suất trên thị trường, mà quyết
định cấp tín dụng phụ thuộc vào cách mà NHTM lựa chọn, đánh giá DNNVV
dựa trên thông tin của DNNVV mà NHTM thu thập được [69]. Điều này có
nghĩa không phải tất cả DNNVV đều được cấp tín dụng khi có nhu cầu,
NHTM sẽ quyết định cấp tín dụng và cấp bao nhiêu dựa trên một tập hợp các
thông tin mà NHTM có được về DNNVV. Nói cách khác, dòng chảy vốn tín
dụng không chỉ tuân theo lý thuyết cung cầu, nó là một quá trình cân nhắc,
trong đó DNNVV nộp hồ sơ vay vốn, sau đó NHTM xác định số tiền cho vay
dựa trên cách đánh giá của NHTM đối với DNNVV.

Theo Stiglitz & Weiss (1981), thông tin bất cân xứng sẽ dẫn đến việc
các NHTM hạn chế cấp tín dụng cho DNNVV do NHTM khó có thể phân
biệt mức độ rủi ro và khả năng trả nợ giữa các DNNVV [69]. Thông tin bất
cân xứng xuất hiện trong quan hệ tín dụng khi NHTM có ít thông tin hơn
DNNVV về tình hình tài chính, mục đích và quá trình sử dụng vốn vay của
DNNVV,... dẫn đến NHTM ra quyết định cấp tín dụng không còn chính xác.
Thông tin bất cân xứng làm nẩy sinh hai vấn đề làm cho NHTM không sẵn
lòng cấp tín dụng cho DNNVV đó là sự chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Để

15


giảm thiểu rủi ro, NHTM đã thực hiện nghiệp vụ thu thập và xử lý thông tin
về DNNVV và các dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh của DNNVV,
việc sử dụng tài sản thế chấp là phương thức phổ biết nhất để giảm thiểu rủi
ro cho NHTM. Trong nhiều trường hợp, NHTM sẽ quyết định không cấp tín
dụng, cấp tín dụng ít hơn nhu cầu của DNNVV hoặc cấp tín dụng nhưng với
lãi suất cao để bù đắp thiệt hại rủi ro mất vốn có thể xảy ra và các chi phí giao
dịch phát sinh khi cấp tín dụng cho DNNVV.
2.1.2. Lý thuyết kinh tế học thể chế
Lý thuyết kinh tế học thể chế (institutional economics) được khởi
xướng trong nghiên cứu của Olson (1971) và nghiên cứu của Hardin (1982).
Sau đó tiếp tục được nghiên cứu bởi North & Thomas (1973) và được phát
triển đầy đủ nhất trong nghiên cứu “Institutions, Institutional Change and
Economic Performance” (Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh
tế) của North (1991). Các nghiên cứu này xuất phát từ một thực tế là có
những hành động mà chỉ có sự hợp tác giữa các bên mới mang lại lợi ích tối
ưu, tuy nhiên mỗi bên tham gia hợp tác đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình
nên điều này có thể ảnh hưởng đến bên còn lại. Việc hành động vì động cơ cá
nhân hay chi phí giao dịch phát sinh làm cho các bên tham gia không muốn

hợp tác, thậm chí cả khi hoạt động hợp tác đem lại lợi ích cho tất cả các bên
tham gia. Thể chế được hiểu là một loạt các quy tắc, quy định (luật chơi) mà
các bên tham gia trong hoạt động hợp tác đặt ra, các bên tham gia phải tuân
thủ luật chơi này.
Lý thuyết kinh tế học thể chế chỉ ra rằng thể chế giúp gia tăng cơ chế
kiểm soát nhằm đảm bảo các bên thực hiện đúng cam kết của luật chơi và làm
gia tăng chi phí nếu không thực hiện đúng cam kết trong quá trình hợp tác.
North (1991) đã chỉ ra rằng hợp tác lần đầu (trò chơi không lặp lại) thì người
chơi phải mất nhiều thời gian và công sức để đảm bảo tài sản của mình không

16


bị mất đi và không bị lừa gạt [64]. Lý thuyết này hàm ý rằng quan hệ tín dụng
giữa NHTM và DNNVV chỉ diễn ra khi các bên tuân thủ luật chơi chung (các
quy định trong hợp đồng tín dụng), các DNNVV sẽ gặp khó khăn trong quá
trình tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nếu DNNVV chưa có thương hiệu, chưa
tạo được lòng tin với NHTM hoặc thiếu các mối quan hệ cần thiết. Do đó, các
NHTM thường ưu tiên cấp tín dụng cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
thường xuyên giao dịch với NHTM hơn là cho các doanh nghiệp nhỏ,
DNNVV mới thành lập vay vốn do phải mất nhiều thời gian và công sức để
đưa ra “luật chơi” phù hợp nhằm tránh rủi ro không thu hồi được vốn.
2.1.3. Lý thuyết mạng lưới quan hệ xã hội
Trong số các công trình nghiên cứu về lý thuyết mạng lưới quan hệ xã
hội (social network) thì tiêu biểu là nghiên cứu của Granovetter (1973) trong
bài báo khoa học “The strength of Weak Ties” (Sức mạnh của các mối liên kết
yếu). Nghiên cứu chỉ ra rằng mạng lưới quan hệ xã hội dùng để chỉ các mối
quan hệ xã hội do con người xây dựng, duy trì và phát triển trong cuộc sống
của họ với tư cách là thành viên của xã hội [54]. Lý thuyết này gợi ý rằng với
mạng lưới quan hệ xã hội rộng lớn có thể mang lại cho DNNVV các cơ hội

tiếp cận với các nguồn lực, giảm các chi phí giao dịch, do mối quan hệ xã hội
không những gắn kết các thành viên với nhau mà còn cung cấp thông tin
chính xác, cần thiết cho các bên tham gia mạng lưới.
2.1.4. Lý thuyết kinh tế có điều tiết
Lý thuyết kinh tế có điều tiết (economic regulation) là lý thuyết điển
hình về nền kinh tế có sự can thiệp của Nhà nước do Keynes (1936) khởi
xướng trong nghiên cứu “The General Theory of Employment, Interest and
Money” (Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ).
Keynes (1936) đề cao vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế thị trường thông qua các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó

17


Keynes đặc biệt nhấn mạnh đến chính sách tài chính, tín dụng. Keynes (1936)
cho rằng Nhà nước cần can thiệp mạnh vào kinh tế bằng cách tăng đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng, sử dụng ngân sách nhà nước để
bảo đảm hiệu quả ở mức có lợi cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp yên
tâm đầu tư và áp dụng những biện pháp như giảm lãi suất, giảm thuế, thực
hiện tín dụng ưu đãi với các doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư,… [59].
Sau đó một số lý thuyết hiện đại khác như lý thuyết kinh tế học thể chế,
lý thuyết điều tiết,… các lý thuyết này cũng tán thành với tư tưởng lý thuyết
của Keynes là Nhà nước cần can thiệp vào kinh tế, nhưng là can thiệp một
cách thích hợp, có mức độ [36].
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu thực nghiệm
2.2.1. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm về khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trên thế giới đã có một số kết quả nghiên cứu về khả năng tiếp cận vốn
tín dụng ngân hàng của DNNVV tại một số quốc gia, nhưng để đánh giá một
cách toàn diện, tổng hợp về khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của

DNNVV thì tiêu biểu là nghiên cứu “The SME Banking Knowledge Guide”
(Cẩm nang kiến thức dịch vụ ngân hàng cho DNNVV) của International
Finance Corporation (2009). Nghiên cứu đã đánh giá các trở ngại, khó khăn
khi NHTM cấp tín dụng cho DNNVV, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm
cho các NHTM muốn mở rộng tín dụng DNNVV. Kết quả nghiên cứu cho
thấy tiếp cận tài chính là một trong những trở ngại lớn nhất đối với sự tăng
trưởng và phát triển của DNNVV, tỷ lệ các DNNVV gặp trở ngại khi tiếp cận
vốn tín dụng ngân hàng cao hơn gần 1/3 so với các doanh nghiệp có quy mô
lớn. International Finance Corporation (2009) đưa ra nhiều bằng chứng cho
thấy DNNVV vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ về các sản phẩm, dịch vụ tài
chính nói chung và về tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nói riêng. Rào cản cơ

18


bản khiến các NHTM khó mở rộng tín dụng DNNVV là do thiếu hụt thông
tin, DNNVV không đủ tài sản thế chấp và chi phí phục vụ cao hơn các doanh
nghiệp lớn do cần phải thực hiện các giao dịch có quy mô nhỏ. Ngoài ra,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng DNNVV ở các quốc gia phát triển dễ dàng tiếp
cận tài chính hơn ở các quốc gia đang phát triển, một mặt do ngành dịch vụ
ngân hàng dành cho DNNVV ở các quốc gia đang phát triển còn non yếu, khi
mà các NHTM thường cố gắng tránh rủi ro khi cấp tín dụng cho DNNVV;
mặt khác, do NHTM ở các quốc gia đang phát triển có nhiều yêu cầu thế chấp
hơn, quy mô tín dụng thấp và mức lãi suất cho vay cao hơn ở các quốc gia
phát triển [57].
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu đánh giá về khả năng tiếp cận
vốn tín dụng ngân hàng của các DNNVV tại một số tỉnh, thành phố khác
nhau, điển hình là các nghiên cứu của Nghiêm Văn Bảy (2010), Trần Trọng
Huy (2013), Đặng Thị Huyền Hương (2016), Ngô Thị Mai Linh (2015),
Nguyễn Thị Kim Lý (2013).

Nghiên cứu của Nghiêm Văn Bảy (2010) trong luận án tiến sĩ “Các giải
pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển DNNVV ở Việt Nam” đã làm rõ
những lý luận về tín dụng đối với sự phát triển của DNNVV trong nền kinh tế
thị trường; kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các DNNVV Việt Nam gặp phải rất
nhiều trở ngại về quy trình, thủ tục đi vay, do đó rất ít DNNVV có thể vay
được vốn từ NHTM, còn lại đa phần DNNVV đi vay ngoài theo các mối quan
hệ và với lãi suất rất cao so với lãi suất cho vay của NHTM [1]; từ đó, luận án
đề xuất 6 nhóm giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNNVV.
Nghiên cứu của Trần Trọng Huy (2013) trong luận án tiến sĩ “Tín dụng
ngân hàng đối với DNNVV tại các Chi nhánh Agribank trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh” đã hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về tín dụng
ngân hàng và DNNVV; kết quả nghiên cứu thực trạng quy mô và chất lượng

19


tín dụng trong giai đoạn 2008 – 2012 cho thấy nguyên nhân dẫn đến các
DNNVV tại thành phố Hồ Chí Minh không tiếp cận được vốn tín dụng ngân
hàng thì có tới 96,9% thuộc về DNNVV (không đủ điều kiện cấp tín dụng,
năng lực tài chính thấp,…), các nguyên nhân từ phía NHTM chiếm khoảng
2,1% (thiếu vốn, khả năng thẩm định thấp), còn lại chỉ 1% nguyên nhân thuộc
về cơ chế chính sách [15]; từ đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp đối với
DNNVV và các NHTM để mở rộng quy mô tín dụng đối với DNNVV.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lý (2013) trong luận án tiến sĩ
“Nghiên cứu khả năng tiếp cận vốn cho các DNNVV ở tỉnh Thái Bình” đã hệ
thống được các vấn đề lý luận về nguồn vốn và khả năng tiếp cận vốn của
DNNVV; nghiên cứu đã đánh giá tình hình tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng
của các DNNVV tỉnh Thái Bình giai đoạn 2004 – 2010 qua việc phân tích
theo 09 điều kiện cấp tín dụng của NHTM, qua đó nghiên cứu nhận định ở
tỉnh Thái Bình thì lý do làm cho NHTM không yên tâm khi cấp tín dụng cho

DNNVV là do năng lực của nhà quản lý doanh nghiệp còn hạn chế, doanh
nghiệp chưa xây dựng được dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, tình hình tài chính thiếu lành mạnh, báo cáo tài chính thiếu minh bạch, tài
sản đảm bảo không đủ về mặt giá trị và thiếu tính pháp lý [23]. Từ đó, nghiên
cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận vốn của
DNNVV tỉnh Thái Bình.
Nghiên cứu của Ngô Thị Mai Linh (2015) trong luận án tiến sĩ “Giải
pháp tài chính phát triển DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời kỳ
hội nhập” đã tổng hợp những vấn đề lý luận cơ bản về giải pháp tài chính đối
với phát triển DNNVV. Kết quả nghiên cứu thực trạng sử dụng giải pháp tài
chính để phát triển DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2008 –
2014 đã chỉ ra rằng, chỉ gần 21% số DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội
cho rằng thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, số còn lại gặp rất

20


nhiều khó khăn, điều này xuất phát từ cả hai phía NHTM và DNNVV [20].
Nghiên cứu đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện việc sử dụng các
giải pháp tài chính từ phía các cơ quan quản lý nhà nước đối với sự phát triển
DNNVV trên địa bàn Hà Nội.
Nghiên cứu của Đặng Thị Huyền Hương (2016) trong luận án tiến sĩ
“Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận nguồn vốn vay của các DNNVV trên
địa bàn Hà Nội” đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nguồn vốn và các
nhân tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận nguồn vốn vay của DNNVV; trên cơ sở
phân tích thực trạng nguồn vốn vay và sự tiếp cận nguồn vốn vay của các
DNNVV trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2010 – 2015, nghiên cứu đã chỉ ra các
nhân tố thuộc về DNNVV có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng của DNNVV trên địa bàn Hà Nội, đồng thời nghiên cứu cũng nhận
định rằng DNNVV Hà Nội có xác suất tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng cao

hơn DNNVV cả nước nhưng lượng vốn vay được của mỗi doanh nghiệp lại
thấp hơn so với DNNVV ở các địa phương khác [17]. Từ đó, nghiên cứu đã
đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường sự tiếp cận nguồn vốn vay của các
DNNVV trên địa bàn Hà Nội.
2.2.2. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến khả
năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong các nghiên cứu trước đây đã công bố, ngoài các phân tích định
tính thì các nghiên cứu cũng sử dụng khá đa dạng các mô hình kinh tế lượng
để kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân
hàng của DNNVV như mô hình hồi quy đa biến, mô hình Probit, mô hình
Tobit, mô hình EFA,… Nền tảng của các nghiên cứu thực nghiệm này mô
hình 5C của Jankowicz & Hisrich (1987) trong nghiên cứu “Intuition in small
business lending decisions” (Phán xét và cảm nhận trong việc ra quyết định
cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ).

21


Jankowicz & Hisrich (1987) chỉ ra rằng khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng của doanh nghiệp phụ thuộc vào 5 nhân tố đó là Vốn của doanh
nghiệp (Capital), Tài sản thế chấp (Collateral), Năng lực trả nợ (Capacity),
Phẩm chất của chủ doanh nghiệp (Character) và Các điều kiện cấp tín dụng
của ngân hàng (Conditions) [58]. Mô hình 5C đã được áp dụng phổ biến trong
công tác thẩm định tín dụng ở các NHTM tại Việt Nam nhằm đánh giá độ tin
cậy của khách hàng, qua đó có cơ sở ra quyết định cấp tín dụng. Dựa trên mô
hình 5C, nhiều nhà nghiên cứu đã thực hiện kiểm định ảnh hưởng của các
nhân tố đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV ở các
quốc gia, địa phương khác nhau. Ngoài ra, dựa trên lý thuyết về mạng lưới
quan hệ xã hội của Granovetter (1973), nhiều nghiên cứu gần đây cũng đề
xuất thêm nhân tố mối quan hệ xã hội, quan hệ nghiệp vụ của DNNVV trong

quá trình vay vốn ngân hàng.
(1) Vốn của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư càng lớn thì khả năng tiếp cận
vốn sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác [25]. Các doanh nghiệp lớn thường có
tính minh bạch tài chính cao, có uy tín tốt hơn các DNNVV trên thị trường
vốn, nhờ vậy các doanh nghiệp lớn thường dễ dàng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng với mức lãi suất thấp [11]. Các NHTM thường hạn chế cấp tín
dụng cho DNNVV vì các dự án vay vốn của họ đa phần quy mô nhỏ, rủi ro
cao hơn các doanh nghiệp lớn [70].
(2) Tài sản thế chấp:
Các NHTM thường có xu hướng dựa vào tài sản đảm bảo để giảm thiểu
rủi ro, đảm bảo an toàn vốn cho NHTM. Vì vậy, tài sản thế chấp trở thành
nhân tố được các NHTM xem xét hàng đầu khi cấp tín dụng cho DNNVV
([14], [16], [60], [67], [70], [71]). Đối với các doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp siêu nhỏ, khi thẩm định để cấp tín dụng các NHTM thường quan tâm

22


nhất đến yếu tố tài sản bảo đảm và tài sản của chủ doanh nghiệp [17]. Nếu
doanh nghiệp quy mô nhỏ có tài sản đảm bảo sẽ dễ dàng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng hơn [61].
(3) Năng lực trả nợ:
Khi doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì càng dễ
dàng tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng [52]. Doanh nghiệp có năng lực
tài chính tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có khả
năng thực hiện đúng các cam kết khi thực hiện vay vốn từ NHTM ([17], [22]).
Doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận càng cao thì
càng có nhiều cơ hội kinh doanh, mở rộng đầu tư hơn các doanh nghiệp khác,
những dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ là minh

chứng cần thiết để doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng ([24], [25]). Dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh của
DNNVV chưa khả thi đã làm cho các NHTM chưa thật sự tin tưởng vào khả
năng trả nợ và sự phát triển của doanh nghiệp, dẫn đến các DNNVV khó khăn
trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng [10].
Ngoài ra, khi DNNVV thực hiện vay nợ nhiều hay có lịch sử tín dụng
không tốt thì NHTM sẽ rất thận trọng khi ra quyết định cấp tín dụng, do đó
DNNVV sẽ khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng hơn [61]. Doanh nghiệp có
tỷ số nợ càng cao thì xác suất nhận được sự đồng ý cấp tín dụng của NHTM
càng thấp [53].
Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn
tín dụng ngân hàng là do không có đủ số liệu báo cáo tài chính để NHTM làm
căn cứ cấp tín dụng ([10], [38], [70]). Thông tin tài chính không minh bạch,
không có đầy đủ hệ thống sổ sách kế toán đã cản trở các DNNVV tiếp cận
vốn tín dụng ngân hàng ([2], [16], [19], [60]).
(4) Phẩm chất của chủ doanh nghiệp:

23


Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng trình độ học vấn và kinh nghiệm của chủ
doanh nghiệp là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân
hàng của DNNVV ([24], [38], [52]). Phần lớn chủ DNNVV chưa qua các lớp
đào tạo kinh doanh chính thức nào, thường dựa vào kinh nghiệm cá nhân để
kinh doanh, hoặc chỉ chú trọng vào đầu tư vật chất mà không chú trọng đầu tư
cho bộ máy điều hành kinh doanh dẫn đến quy mô kinh doanh phình ra quá lớn
so với khả năng quản lý [3]. Khi người quản lý doanh nghiệp có nhiều năm
kinh nghiệm thì khả năng điều hành, quản lý doanh nghiệp tốt hơn và có nhiều
cơ hội tốt hơn, đồng thời họ có mối quan hệ rộng hơn, thông hiểu về các thể
chế, quy định cho vay hơn, đó chính là động lực và điều kiện để doanh nghiệp

đi vay thuận lợi hơn [53]. Khi lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm quản lý sẽ dễ dàng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng hơn [71].
Đồng thời, với trình độ học vấn càng cao thì chủ doanh nghiệp càng thông hiểu
các thể chế, quy định cũng như các chính sách hỗ trợ của Chính phủ có liên
quan đến trợ giúp phát triển DNNVV, do đó DNNVV dễ dàng tiếp cận với các
chương trình cho vay ưu đãi của NHTM hơn [25]. Lao động của các DNNVV
bị hạn chế về trình độ và khả năng quản lý làm cho họ khó chuẩn bị các dự án
đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh để thuyết phục các NHTM cấp tín dụng
[70].
(5) Các điều kiện cấp tín dụng của ngân hàng:
Những khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các DNNVV
là do các thủ tục vay vốn phức tạp, các sản phẩm tín dụng không phù hợp với
DNNVV, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng không ổn định, nhiều DNNVV
phải chấp nhận vay với số vốn thấp hơn và thời hạn ngắn hơn thực tế đòi hỏi
của dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh. Do đó, DNNVV phải tiếp cận
các khoản vay phi chính thức để bù đắp phần vốn bị thiếu, làm tăng chi phí sử

24


dụng vốn và giảm lợi nhuận của dự án đầu tư/phương án sản xuất kinh doanh
[21].
Nếu thời gian vay phù hợp với mục đích vay vốn, quy trình xem xét
nhanh chóng, thủ tục cấp tín dụng rõ ràng, kết hợp giảm lãi suất thì khả năng
tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV càng cao [10]. Lãi suất cho vay
có quan hệ cùng chiều với khả năng đi vay của doanh nghiệp, khi lãi suất tăng
các doanh nghiệp thường cố gắng tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên trong
doanh nghiệp thay vì đi vay NHTM [11]. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng thủ
tục vay vốn phức tạp, điều kiện cấp tín dụng khắt khe, thời gian vay vốn
không phù hợp ([3], [14], [38]), lãi suất cho vay còn cao ([14], [16], [67]),

dịch vụ tín dụng chưa đa dạng, thiếu các sản phẩm tín dụng phù hợp [16],…
là những rào cản từ phía NHTM đối với khả năng tiếp cận vốn tín dụng của
DNNVV.
(6) Mối quan hệ của doanh nghiệp:
Nhiều nghiên cứu cho rằng khi DNNVV có mối quan hệ với NHTM tốt
thì doanh nghiệp có khả năng vay vốn cao hơn ([24], [25], [61], [67]).
DNNVV có thời gian quan hệ nghiệp vụ với NHTM càng lâu thì xác xuất
được NHTM đồng ý cho vay vốn càng cao [53]. Hạn chế của DNNVV trong
mối quan hệ nghiệp vụ và quan hệ xã hội với NHTM sẽ làm giảm khả năng
tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, đồng thời mối quan hệ với các hiệp hội
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh của DNNVV có vai trò
quan trọng trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV [2].
Ngoài ra, nếu DNNVV không tham gia vào mạng lưới sản xuất cũng
khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng hơn [71]. Khi DNNVV tham gia vào
chuỗi giá trị sản xuất, tham gia hiệp hội thì sẽ có nhu cầu mở rộng đầu tư và
khi đó nhu cầu vay vốn cao hơn các doanh nghiệp còn lại [8].

25


×