Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.89 KB, 28 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong thực tế, việc đưa ra khái niệm nhỏ và vừa của 1 nước được cân nhắc với
từng giai đoạn phát triển của kinh tế, tình hình làm việc nói chung và tính chất nền
kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa không có
tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất hoạt động của nó, mục
đích của việc xác định và mức độ phát triển của doanh nghiệp.
Một số tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng vốn đầu tư
được huy động và sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử
dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn
bình quân cho một lao động… Mỗi nước có một quan niệm và lựa chọn các tiêu
thức khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trình độ phát triển của mỗi nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các
tiêu chí càng tăng. Ở các nước càng phát triển thì chỉ số về lao động, vốn để phân
loại doanh nghiệp nhỏ và vừa càng cao. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, doanh nghiệp
có 300 lao động và nguồn vốn là một triệu USD được xem là 1 doanh nghiệp nhỏ
và vừa nhưng ở Thái Lan một doanh nghiệp có quy mô như vậy là một doanh
nghiệp lớn.
Tính chất nghành nghề: Tuỳ thuộc vào yêu cầu và tính chất của từng nghành mà
có ngành sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giày da, thủ công, mỹ nghệ…, có
nghành sử dụng ít lao động, nhiều vốn như hoá chất, điện… Trong phân loại doanh
nghiệp cũng cần căn cứ vào những tính chất này để có những quy định phù hợp giữa
các nghành với nhau. Các nước thường phân thành các nhóm nghành với những tiêu
chí phân loại khác nhau.
Vùng lãnh thổ: Mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về quy mô và
số lượng doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh giữa
các vùng với nhau thì cũng cần tính đến hệ số vùng trong tiêu chuẩn xác định
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vùng có nền kinh tế phát triển cao thì số lượng và quy
mô doanh nghiệp phải cao hơn vùng có nền kinh tế phát triển thấp.


Tính chất lịch sử: Trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô các doanh nghiệp
không ngừng tăng. Các tiêu chí phân loại cũng thay đổi tỉ lệ với tốc độ tăng trưởng
quy mô của các doanh nghiệp.
Thông thường khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên số lao động
được sử dụng rộng rãi vì nó không dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của những khác biệt
về thu nhập và những thay đổi giá trị của đồng tiền nội địa qua các thời kì khác của
mỗi quốc gia.
Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được đưa ra tại điều 3, Nghị
định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa:
"Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động hàng năm không quá 300 người".
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
Nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị định 20/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 của chính phủ về đăng kí kinh doanh.
Căn cứ tình hình kinh tế cụ thể của nghành, địa phương trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai
chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Ở Việt Nam cần phân định doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản xuất: doanh
nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ,
còn doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng, 100 đến 500 lao động là doanh
nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có vốn dưới
500 triệu và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ
500 triệu đến 5 tỷ và lao động từ 50 đến 250 người là doanh nghiệp vừa.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 170.000 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh

theo Luật Doanh nghiệp, 2.6 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 18.000 hợp tác xã.
Trong số đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 96% tổng số hộ kinh doanh cá thể.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút khoảng 450.000 lao động với thu nhập bình
quân 1.05 triệu đồng/tháng.
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh
Như ta đã biết doanh nghiệp nhỏ và vừa với số vốn và tài sản nhỏ, ít lao động
nên rất dễ thành lập và chuyển hướng kinh doanh khi thị trường biến động. Đây
chính là lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ
dàng xâm nhập vào các "khe hở" của thị trường để tồn tại và phát triển. Khi thị
trường trở nên khan hiếm, khó khăn thì doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng chuyển
sang lĩnh vực kinh doanh khác. Tuy sức chịu đựng cạnh tranh của doanh nghiệp
nhỏ và vừa tương đối yếu. Nhưng sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của luật cạnh
tranh sẽ càng đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp,
giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có nhiều cơ hội để tồn tại và phát triển
thành những doanh nghiệp lớn.
Hơn nữa tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa đơn giản, dễ đưa ra
quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ dàng thay đổi tình
thế, nội bộ dễ đi đến thống nhất. Trước những biến động của thị trường, họ rất linh
hoạt và mạnh dạn đầu tư, thay đổi trong sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật với chi phí
bổ sung không cao. Nhu cầu đầu tư ít, sử dụng nhiều nguyên liệu sẵn có ở địa
phương, chi phí đào tạo người lao động và quản lý ít tốn kém. Đây là một điểm lợi
thế rất lớn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cơ chế thị trường, góp phần quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính vì đặc điểm dễ thành lập, năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nên doanh nghiệp nhỏ và vừa tồn tại và phát
triển ở mọi nghành nghề, mọi thành phần kinh tế, chỉ cần số vốn hạn chế, một mặt
bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành hoạt động kinh doanh như nhận gia công theo
đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn đặc biệt là trong nghành dệt, may, cơ khí…
Ngày nay, vòng đời của sản phẩm nhiều khi ngắn hơn thời gian tồn tại của

máy móc thiết bị sản xuất ra, nó đòi hỏi phải khấu hao nhanh, đặc biệt là hao mòn
vô tình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể kết hợp, hợp lý hoá, cơ khí hoá với
lao động thủ công để sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện
kết cấu hạ tầng hạn chế.
1.1.2.2 Tiềm lực tài chính kém
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn tài chính hạn chế, khả năng tiếp cận
nguồn tín dụng còn thấp. Bất kì doanh nghiệp nào cũng muốn tiến hành sản xuất
kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường
khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao, nhưng họ chủ yếu hoạt động nhờ nguồn
vốn này. Cơ cấu vốn nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ thấp trong cơ
cấu vốn thường bao gồm: nguồn vốn vay từ bạn bè, gia đình, các khoản tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính…
Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo quy mô
phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả thì càng có
nhiều điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn. Tuy nhiên để có thể huy động được vốn
nợ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt trội nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa không
dễ tiếp cận được. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng phải
chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực tài chính nội tại
của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo
được yêu cầu của ngân hàng, thêm vào đó doanh nghiệp không có tài sản giá trị để
làm tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng…
Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt
nhưng mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác lâu bền có tín
nhiệm lẫn nhau. Tín dụng thương mại được hình thành trong quan hệ mua bán
chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ
và vừa có độ tuổi kinh doanh không cao trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định,
uy tín đối với thị trường không lớn. Vì vậy tiềm lực tài chính yếu kém luôn là vấn
đề khó khăn khách quan mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đối mặt thường
xuyên trong quá trình hoạt đồng động sản xuất kinh doanh.

1.1.2.3 Trình độ khoa học công nghệ và quản lý thấp
Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, bất kì một
doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương
pháp và bí quyết sản xuất. Vì khoa học công nghệ cao và trình độ quản lý tiên tiến
giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí
sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Năng lực tiếp nhận, ứng dụng công nghệ vào
sản phẩm và quản lý phụ thuộc vào nhận thức, thông tin, nguồn nhân lực và nguồn
vốn của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt là
những doanh nghiệp thường xuyên có những thay đổi công nghệ và cần nhiều vốn.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế nên có ít
thay đổi công nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử dụng đều rất lạc
hậu. Các doanh nghiệp chưa đánh giá hết tầm quan trọng và tính bức bách trong
việc đổi mới công nghệ. Hoặc nếu có nhận thức được thì cũng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận và đầu tư đổi mới công nghệ và phương thức quả lý. Vì để
đổi mới công nghệ và cách thức quản lý thì phải có nguồn nhân lực cao để tiếp
nhận và sử dụng, nguồn vốn lớn để mua. Chính vì những khó khăn trên đã khiến
các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi đầu tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp
và bí quyết sản xuất, đầu tư "nhỏ giọt", thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng
công nghệ không cao.
Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, lạc hậu so
với các nước trong khu vực từ 2-3 thế hệ, thiết bị máy móc khấu hao đã hết nhưng
vẫn được sữa chửa và sử dụng. Khoảng 8% doanh nghiệp nhỏ và vừa ở phía bắc
đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Các doanh nghiệp còn ít kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề
liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
nước ta được thành lập trong thời kì đổi mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia đình.
Do vậy trình độ quản lý, điều hành thường theo thói quen, kĩ năng quản lý theo
định hướng thị trường hiện tại còn thiếu. Tuy trình độ công nghệ thấp nhưng các
doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có nhu cầu đào tạo về kĩ thuật, công nghệ cũng như
trình độ quản lý.

Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam gia tăng rất nhanh. Từ năm
2000 đến năm 2004 cả nước có gần 120.000 doanh nghiệp được thành lập, trong đó
chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng đặt mục tiêu đến năm 2010 có khoảng 320.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được
thành lập, trong đó có khoảng 3-6% doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia
xuất khẩu. Tuy nhiên, đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng đầu tư
ban đầu thấp, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỉ đồng, gần 75% số
doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỉ đồng và 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỉ
đồng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ, trình độ
quản lý, khả năng tiếp cận thị trường…Hậu quả của những hạn chế đó là năng
suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả đầu tư thấp. Hàng hoá của các doanh
nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá
sản. Khó khăn lớn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là thiếu các chính
sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Hệ thống chính sách, pháp luật và các tổ
chức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa hoàn thiện. Trong quá trình Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều
cơ hội để phát triển và rất cần đến sự hỗ trợ từ phía của nhà nước.
1.1.2.4 Nguồn lao động chất lượng thấp
Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút nhiều lao động nhưng tay nghề lao động
chưa cao. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố
định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn. Đặc biệt là những
nước lực lượng lao động dồi dào và nhân công rẻ để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm trong doanh nghiệp nhỏ và vừa thường
chỉ bằng 10% doanh nghiệp lớn.
Một trong những khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải gặp là
thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn ở các doanh nghiệp nhỏ và
vừa rất thấp. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các doanh nghiệp nhỏ và
vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
người lao động ngay cả khi chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về đào tạo

nguồn nhân lực và không thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Trong số 30% lao động có chuyên môn thì có 8% lao động có trình độ cao
đẳng, đại học. Chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ trung cấp trở
xuống chiếm 55.63%, có 40.81% chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên
nhưng họ cũng ít được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Như
vậy, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu kinh nghiệm về mọi mặt từ khả năng quản
lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Họ thường chỉ quan tâm lợi nhuận
trước mắt mà thiếu quan tâm nhìn chiến lược dài hạn để phát triển doanh ngiệp.
Có tới 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại
chỗ, chế biến nông sản thực thẩm, gỗ, sản xuất gạch ngói, dệt may… Người lao
động có tay nghề kém, ít có đào tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu cha
truyền con nối. Lao động phổ thông, trình độ tay nghề còn đơn giản, chưa được
đào tạo chiếm 55-65% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước mà vai trò của nó
cũng được thể hiện khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao, các
tập đoàn kinh tế lớn chi phối nền kinh tế, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn có
vai trò quan trọng trên các mặt. Ở Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏlà một nguồn
lực đảm bảo sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu
quy mô nhiều tầng của các công ty lớn xuyên quốc gia. Đối với các nước đang phát
triển, ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp
nhỏ và vừa còn đóng vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là đối với nước ta trong
giai đoạn tham gia hội nhập quốc tế. Nền kinh tế chậm phát triển, nguồn ngân sách
của chính phủ hạn hẹp, các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm thị phần lớn trong
thị trường nhưng hoạt động kinh doanh yếu kém. Chính vì vậy các nguồn lực xã
hội bị lãng phí nghiêm trọng. Việc tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để các doanh
nghiệp nhỏ và vừa phát triển đã thành yêu cầu khách quan hết sức quan trọng,
nhằm tận dụng tối đa hiệu quả các nguồn lực trong nước. Hơn nữa, sự xuất hiện
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tăng sức ép cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp

lớn phải nhìn nhận lại "mình" và phải luôn cải tiến về công nghệ cũng như cách
thức quản trị để tồn tại và phát triển. Từ đó nền kinh tế được hoàn thiện về cơ cấu
các thành phần kinh tế, môi trường cạnh tranh trở nên sôi động và linh hoạt. Các
nguồn lực được chu chuyển với tốc độ lớn, giúp nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế có hiệu quả. Phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể:
1.1.3.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội
Về tiềm lực vốn: Nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình sản xuất kinh doanh,
khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút được đông đảo
người dân tham gia. Do đó, các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu
tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi. Từ đó các nguồn vốn
được sử dụng một cách hiệu quả đóng góp lớn vào sự
Với phương diện mặt hàng sản xuất kinh doanh: dù một nền kinh tế có phát
triển đến đâu thì thị trường cũng luôn có "khe hở" để các doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thừa cơ xâm nhập. Bởi vì với các doanh nghiệp lớn, tập đoàn có nhiều lĩnh vực
kinh doanh, mặt hàng. Nếu họ kinh doanh sẽ kém hiệu quả mà ít lợi nhuận, vì vậy
họ sẽ bỏ qua. Nhưng với quy mô nhỏ thì doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ kinh doanh
hiệu quả và đem lại lợi nhuận có giá trị đối với họ. Hơn nữa các doanh nghiệp lớn,
tập đoàn rất khó chiếm lĩnh 100% thị trường, vì để đạt được mục đích đó thì họ sẽ
phải bỏ ra chi phí rất lớn để cạnh tranh và từ đó đạt được lợi nhuận tối ưu. Tóm lại
sự tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa làm tăng khả năng
tận dụng các nguồn lực xã hội, làm phong phú đa dạng các chủng loại hàng hoá
dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Về lao động: Mặc dù số lượng lao động ở từng doanh nghiệp không nhiều
nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm khoảng 90-99% tổng số lượng các
doanh nghiệp cả nước. Do đó tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp
nhỏ và vừa chiếm tỉ lệ đáng kể từ 60-85%. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường nhằm
vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử
dụng nhiều lao động, ít vốn với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực
này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà

chỉ cần bồi dưỡng hoặc đạo tạo ngắn hạn, ngắn ngày là người lao động có thể tham
gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ
tự động hoá, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh
nghiệp giảm mạnh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nơi thu hút, tiếp nhận và
đảm bảo thu nhập cho họ. Có thể nói doanh nghiệp nh v vừa là "van điều hoà lao
động" trong x h i. Đóng góp rất lớn vào vấn đề giảm thất nghiệp, vốn là căn bệnh
kinh niên của nền kinh tế thị trường.
Trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay,
đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dư thừa, với những kinh nghiệm đã
tích luỹ trong quá trình lao động, họ có thể thành lập các doanh nghiệp nhỏ hay tìm
kiếm việc làm tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những người lao động này có thể
đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy
trong xã hội đã hình thành một cơ cấu phân tầng trình độ lao động, làm cho nguồn
nhân lực của xã hội được tận dụng triệt để. Từ đấy làm động lực thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề về chính trị xã hội khác.
Về kĩ thuật: Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường lựa chọn kĩ thuật phù hợp với
trình độ lao động, khả năng về vốn. Họ kết hợp kĩ thuật thủ công với kĩ thuật mà
người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Tuy sử
dụng công nghệ kỹ thuật cũ thì họ vẫn có thể dùng nhiều nhân công giá rẻ để tăng
số lượng sản phẩm. Khi có điều kiện về vốn, nguồn nhập công nghệ mới thì họ
cũng dễ dàng chuyển giao công nghệ với giá đánh đổi cho việc bỏ cộng nghệ, máy
móc thiết bị cũ không cao. Như vậy sự thích ứng với công nghệ kỹ thuật của
DNNVV năng động hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều.
1.1.3.2 Tạo sự phát triển giữa các vùng, góp phần to lớn vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển khắp mọi nơi lấp vào những
khoảng trống của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động. Do đó giải quyết được tình trạng thất
nghiệp ở các địa phương.

Là một nước đi lên từ kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề thủ
công truyền thống nổi tiếng. Trong thời gian gần đây, các làng nghề này đã thu hút
được sự đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều đó đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá
đói giảm nghèo, tạo ra sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Đây cũng
là biện pháp hữu hiệu thực hiện tích luỹ vốn quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã hình thành nên những vùng sản xuất lớn, nhiều
làng nghề xuất hiện. Việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ góp phần tham gia
tăng sản phẩm hàng hóa tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường,
thúc đẩy các nghành nghề phát triển.
Quá trình phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là quá trình tích tụ và
tập trung vốn, tìm kiếm và mở rộng thị trường để trở thành các doanh nghiệp lớn.
Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều trải qua quy mô nhỏ và vừa trừ những doanh
nghiệp lớn thuộc sở hữu của nhà nước. Chính vì vậy thúc đẩy sự phát triển của
doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của địa
phương.
Trong thời gian qua, cùng với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
hệ thống thủ tục hành chính ngày càng thông thoáng. Đặc biệt chính sách thành lập
doanh nghiệp chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đã thúc đẩy khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam có bước phát triển cả vế số lưỡng lẫn chất lượng,
đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của cả nước. Theo số liệu thống kê: mỗi
năm doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 25% đến 29% GDP cả nước. Vốn
kinh doanh của khu vực nhỏ và vừa chiếm 4% so với vốn kinh doanh của tất cả các
doanh nghiệp.

×