Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận nhập siêu của việt nam , sức ép và giải pháp kiềm chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.66 KB, 38 trang )

KHOA KINH TẾ THƯƠNG MẠI
NGÀNH KẾ TOÁN
LỚP QT102DV01_L3

ĐỀ ÁN KINH TẾ VĨ MÔ

Gv. Trần Thị Minh Ngọc

Tên đề án:

NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM

SỨC ÉP VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ

TP.HCM, 16 tháng 11 năm 2010


KHOA KINH TẾ THƯƠNG MẠI
NGÀNH KẾ TOÁN
LỚP QT102DV01_L3

ĐỀ ÁN KINH TẾ VĨ MÔ
Tên đề án:

NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM

SỨC ÉP VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ
Danh sách sinh viên nhóm thực hiện
Nguyễn Hoàng Đoan Thanh

090647



Phan Thị Ngọc Ánh

093328

Nguyễn Lê Hồng Hạnh

093343

Lê Thị Phương Thảo

090656

Nguyễn Thị Thảo Trang

093385

Võ Thị Ngọc Thúy

090661

Vũ Thị Phương Thanh

093371

Đàm Ngọc Phương

090641

Ngày nộp báo cáo: 16/11/2010

Người nhận báo cáo: GV. Trần Thị Minh Ngọc


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

TRÍCH YẾU

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 3


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

MỤC LỤC

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 4


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

LỜI CẢM ƠN

Xin cảm ơn cô Trần Thị Minh Ngọc, giảng viên môn Kinh tế vĩ mô, trường Đại
Học Hoa Sen đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành đề án. Trong quá trình thực hiện
đề án không tránh khỏi những sai sót, kính mong sự thông cảm và ý kiến đóng góp từ
phía giảng viên và nhà trường. Chân thành cảm ơn.

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 5


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 6


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại
NHẬP ĐỀ

Để hoàn tất đề án một cách hoàn hảo cũng như giúp mọi người có thể tiếp cận đề
án một cách dễ dàng và có kết quả như mong đợi, nhóm chúng tôi đã đưa ra các mục tiêu
và phân công như sau:
Các mục tiêu đề ra:



Xác định được nội dung chính của đề tài.



Tham khảo nhiều loại tài liệu để thu thập thông tin.



Phối hợp và phân công công việc hợp lí giữa các thành viên trong nhóm để hoàn

thành tốt đề tài này


Rèn luyện kỹ năng làm báo cáo theo tiêu chuẩn ISO 5966



Rèn luyện khả năng thuyết trình



Nâng cao khả năng làm việc nhóm

Với các mục tiêu trên cùng sự nghiên cứu đề tài của nhóm, chúng tôi đã có sự phân công
như sau:
PHẦN
1. Cơ sở lý thuyết
2. Liên hệ tình hình VN

3. Nhận xét, đánh giá, kiến nghị
- Nguyên nhân
- Giải pháp
Hoàn thành bản Word
Làm Power Point

Đề án Kinh tế vĩ mô

NGƯỜI PHỤ TRÁCH
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 1
Nhóm 1

Page 7


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Nhóm 1

Nguyễn Hoàng Đoan Thanh
Võ Thị Ngọc Thúy
Nguyễn Lê Hồng Hạnh
Vũ Thị Phương Thanh
Đàm Ngọc Phương
Nguyễn Thị Thảo Trang

Phan Thị Ngọc Ánh
Lê Thị Phương Thảo

Nhóm 2
Nhóm 3

Để làm được đề án này chúng tôi đã tham khảo nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác
nhau, từ đó trích lọc và mở rộng vấn đề cần nêu.
Tất cả các thành viên trong nhóm chúng tôi đã cố gắng hết sức và hỗ trợ lẫn nhau
trong mọi hoạt động, mọi vấn đề liên quan đến đề tài.

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 8


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

A. CƠ SƠ LÝ THUYẾT


Nhập siêu: tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn hơn kim ngạch xuất khẩu trong
cán cân thương mại của một nước (hay khối lượng hàng hóa nhập khẩu vào trong
nước nhiều hơn khối lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài). Trong đó, “kim
ngạch xuất – nhập khẩu” chính là tổng số tiền thu được trong quá trình xuất khẩu

và nhập khẩu trong một khoảng thời gian nhất định (tháng, quý, năm …).
• Nhập siêu là tình trạng một quốc gia có giá trị nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.

Được tính bởi công thức:
∆=X-N
-

X : Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.

-

N : Tổng km ngạch nhập khẩu hàng hóa.
è ∆ > 0 : xuất siêu
∆ < 0 : nhập siêu
∆ = 0 : thăng bằng

 Các định nghĩa liên quan:
-

Nhập khẩu: là những hàng hóa, dịch vụ sản xuất ở nước ngoài và được bán ở
trong nước. Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ
(Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất
định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số
lượng hoặc trọng lượng (cái, tấn, v.v...)

-

Xuất khẩu: là những hàng hóa dịch vụ sản xuất ở trong nước và được bán ra nước
ngoài. Đơn vị tính khi thống kê về xuất khẩu như đơn vị tính của nhập khẩu

-

Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của

một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 9


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn
hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ
hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán
cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang
giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư
thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 10


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

B. LIÊN HỆ TÌNH HÌNH VIỆT NAM


I. Tình hình nhập siêu của Việt Nam:
1. Giai đọan 1995 – 2008

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009
HÌNH 1: Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế, 1995 – 2008
(triệu USD)
Kể từ năm 1995 trở lại đây, Việt Nam tiến hành mở cửa, hội nhập là để tìm thị trường
tiêu thụ, nhưng gần như càng mở cửa, hội nhập thì càng nhập siêu. Đặc biệt nhập siêu lại
bùng lên khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam chủ yếu
nhập siêu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, các mặt hàng chính như
giấy, clinker, sắt thép, phân bón, và gỗ (> 80% tổng giá trị nhập khẩu các mặt hàng này),
hàng may mặc (> 70%), và máy móc thiết bị (khoảng 40%). Nhưng lại xuất siêu sang Mỹ
và châu Âu (hình 1). Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng tư liệu sản xuất (máy
móc thiết bị và nguyên – nhiên vật liệu), khoảng trên dưới 90% tổng giá trị nhập khẩu,

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 11


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

trong khi xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô, sản phẩm nông nghiệp, và hàng dệt
may.
Nhập siêu hàng tư liệu sản xuất từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc
không phải là một lựa chọn tồi của các doanh nghiệp Việt Nam. Với các hàng hoá nguyên
vật liệu, do tính chuẩn hoá của chúng, nhập khẩu từ các nước trong khu vực giúp doanh
nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận chuyển. Với các mặt hàng máy móc thiết bị,

do trình độ tay nghề của nhân công Việt Nam còn kém, cộng với yêu cầu về chất lượng
sản phẩm của thị trường trong nước chưa cao, việc lựa chọn các công nghệ lạc hậu hơn,
thậm chí đã sử dụng, với chi phí thấp hơn rất nhiều so với công nghệ tiên tiến ở các nước
Âu – Mỹ, sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tạo ra được sản phẩm với giá
thành thấp. Đây rõ ràng là một lợi thế địa lý của Việt Nam so với các nước khác, như ở
châu Phi hoặc Đông Âu, vốn nằm cách xa các nước công nghiệp mới thuộc ASEAN và
Đông Á. Với giá thành thấp, hàng hoá chế biến của Việt Nam có thể xuất khẩu và cạnh
tranh được với hàng hoá sản xuất trên khắp các châu lục, ở thị trường các nước phát triển
như châu Âu và Mỹ. Hình 1 cho thấy xuất siêu của Việt Nam sang Mỹ và châu Âu đã
tăng liên tục trong những năm gần đây.
Nhập siêu hàng tư liệu sản xuất với giá thành thấp từ các nước trong khu vực là một
yếu tố quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài (FDI). Một mặt,
khu vực FDI có thể nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng với giá cả phải chăng từ trong khu
vực. Mặt khác, nhờ hàng tư liệu sản xuất có giá thành rẻ, các doanh nghiệp trong nước có
thể cung cấp được cho các doanh nghiệp FDI các chi phí đầu vào như điện, ximăng, sắt
thép, các mặt hàng tiêu dùng... với mức giá thấp hơn so với các nơi khác trên thế giới.
Hình 2 cho thấy mối tương quan giữa FDI (đăng ký và thực hiện) vào Việt Nam cùng với
nhập siêu từ riêng Trung Quốc, Trung Quốc và ASEAN.

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 12


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Nguồn: tổng hợp từ số liệu của tổng cục Thống kê, 2009
HÌNH 2: Diễn biến nhập siêu từ Trung Quốc và ASEAN và đầu tư nước ngoài của Việt

Nam, 1995 – 2008 (triệu USD)
Ta sẽ thấy rõ thực trạng nhập siêu những năm gần đây của Việt Nam qua bảng 1.
BẢNG 1: Thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu qua các năm
Đơn vị: triệu USD

Năm

Kim ngạch XK

Kim ngạch NK

Nhập siêu

2000

14482,7

15636,5

-1153,8

2001

15029,2

16217,9

-1188,7

2002


16706,1

19745,6

-3039,5

2003

20149,3

25255,8

-5106,5

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 13


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

2004

26485,0

31968,8


-5483,8

2005

32447,1

36761,1

-4314,0

2006

39826,2

44891,1

-5064,9

2007

48380,0

60830,0

-12450,0

2008 dự kiến 67000,0

86000,0


-19000,0

6 tháng 2008 29695,0

44470,0

-14775,0

2008

86320,0

-18740,0

67580,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Kể từ năm 1995 đến nay, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD song
đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến hết
tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD.
Xét theo quy mô GDP, nhập siêu tương đối cao (trên 10% GDP) những năm 1995
- 1996, 2003 - 2004 và đặc biệt cao từ năm 2007 (trên 20% GDP), nhưng xét theo tỷ lệ
nhập siêu trên tổng kim ngạch xuất khẩu thì nhập siêu năm 2007 (gần 30% kim ngạch
xuất khẩu) lại không đáng lo ngại bằng giai đoạn 1995 - 1996 (trên dưới 50% kim ngạch
xuất khẩu).
Nhập siêu năm 2007 đạt 12,450 tỉ USD, tăng gấp gần 2,5 lần so với năm 2006. Để
phân tích nguyên nhân dẫn đến nhập siêu, cần đi vào hai khía cạnh của nhập siêu là kim
ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 có tăng so với
Đề án Kinh tế vĩ mô


Page 14


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

năm 2006 nhưng lại chỉ tăng có 8.553,8 triệu USD, tương ứng 21,47%; trong khi kim
ngạch nhập khẩu tăng tới 15.938,9 triệu USD, tương ứng với 35,5% (gấp rưỡi so với tốc
độ tăng xuất khẩu). Việc tăng đột biến nhập khẩu năm 2007 xuất phát từ 3 nguyên nhân
chính: trước hết, đầu tư trực tiếp nước ngoài do việc thu hút đầu tư tăng mạnh với tốc độ
cao; thứ hai, nhập khẩu để triển khai các dự án vay vốn ODA xây dựng các công trình hạ
tầng quy mô lớn; thứ ba, nhập khẩu máy móc thiết bị cho khu vực kinh tế để phát triển
kinh tế.
Theo Tổng cục Thống kê, các mặt hàng nhập khẩu trị giá trên 1 tỉ USD trong năm
2007 là: máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng (10 tỉ USD), xăng dầu (7 tỉ USD), sắt
thép (gần 5 tỉ USD), vải (4 tỉ USD), điện tử, máy tính và linh kiện (1,3 tỉ USD), thức ăn
gia súc (1,1 tỉ USD), gỗ và nguyên phụ liệu gỗ (trên 1 tỉ USD), phân bón (trên 1 tỉ USD).
Nhiều chuyên gia kinh tế trong nước cho rằng, nhập siêu như trên là cần thiết, vẫn nằm
trong tầm kiểm soát, chủ yếu là để phục vụ sản xuất và đổi mới kỹ thuật - công nghệ ở
trong nước; rằng nhập siêu cao vẫn là lành mạnh và chủ yếu là do nguyên nhân khách
quan, như do giá các mặt hàng nhập khẩu tăng: xăng dầu (tăng 7%), sắt thép (tăng
21,9%), phân bón (tăng 13,4%), chất dẻo (tăng 9,8%), giấy (tăng 7,5%), sợi dệt (tăng
9%), bông (tăng 4,6%), lúa mì (tăng 56,6%)...
Cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng, tình hình nhập siêu của Việt Nam 2007 là do
việc tiêu dùng quá khả năng của đất nước. Việc người dân tăng cường sử dụng các mặt
hàng xa xỉ nhập khẩu như ô-tô, mỹ phẩm, điện thoại di động... trong thời gian qua đã ảnh
hưởng mạnh đến trị giá nhập siêu. Việc thu hút đầu tư nước ngoài một cách ồ ạt, không
cân nhắc đến chất lượng các dự án đầu tư cũng ảnh hưởng đến nhập siêu...

Nhìn qua số liệu trên, chúng ta không khỏi băn khoăn về tình hình nhập siêu của
nước ta, nó đang trong tình trạng ở mức cao, nhất là trong 6 tháng đầu năm 2008 và chỉ
giảm dần trong các tháng cuối năm. Nhập siêu trong 6 tháng đầu năm 2008 đã tăng hơn
cả nhập siêu của cả năm 2007 và tăng gấp gần 3 lần năm 2006. Nếu so với mục tiêu kiềm
Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 15


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

chế nhập siêu của năm 2008 là dưới 20 tỉ USD thì nhập siêu của 6 tháng đầu năm đã
chiếm tới 73,8%.
Nếu như phải đến tháng 4 năm 2008, xuất khẩu mới tăng, thì ngay từ đầu năm,
nhập khẩu đã “hăng xái bứt phá”, nên nhập siêu tại thời điểm đó đã lên trên 14,3 tỉ USD
– nhỉnh hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14,1 tỉ USD), khiến nhiều người lo ngại cho
rằng nhập siêu cả năm sẽ tới 30 tỉ USD. Song do xuất khẩu được cải thiện dần, nhập khẩu
ngày càng thu hẹp, khiến cơn sốt nhập siêu sớm cắt cơn. Quý 3- 2008 trị giá nhập siêu chỉ
còn trên 1,2 tỉ USD, quý 4 xấp xỉ 1,3 tỉ USD, tổng cộng cả năm là 17,5 tỉ USD, tăng
24,1% so với năm 2007. Dù trị giá cao hơn năm ngoái, song tỷ lệ lại giảm, chỉ có 27,8%
so với 29,1% của năm 2007.
BẢNG 2: Nhập khẩu phân theo nhóm hàng (%)

Năm
1995 2000 2003 2004 2005 2006
Nhóm hàng
A. Tư liệu sản xuất


84,8

93,8

93,6

93,1

89,6

91,3

Máy móc và thiết bị

25,7

30,6

32,4

30,4

14,3

14,8

Nguyên, nhiên, vật liệu

59,1


63,2

61,2

62,7

75,3

76,5

B. Vật phẩm tiêu dùng 15,2

6,2

6,4

6,9

10,4

8,7

Thực phẩm

3,5

1,9

2,3


2,4

-

-

Hàng y tế

0,9

2,2

1,6

1,9

1,4

1,2

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 16


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Hàng tiêu dùng khác


10,8

2,1

2,5

2,6

8,9

7,5

Tổng số

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc
thiết bị và nguyên vật liệu, còn hàng tiêu dùng thì chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000
đến nay, nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 6067%, còn lại là máy móc thiết bị.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ
chế giá trị gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu
thô và khoáng sản khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt
hàng liên quan đến nông nghiệp sơ chế như nông lâm thủy hải sản chiếm trên 15-17%.
Những mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia
công may mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá
trị gia tăng từ mặt hàng này tương đối thấp. Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và
giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong mặt hàng xuất khẩu.
Điều này chứng tỏ xuất khẩu có những tiến bộ đáng kể nhưng lại chưa phù hợp
với sự phát triển kinh tế. Theo đánh giá của TS. Vũ Đình Ánh - Viện Nghiên cứu Khoa

học (NCKH) Thị trường giá cả: “hiện tượng nhập siêu của Việt Nam không nằm trong
quy luật bình thường của các nước đang phát triển”.
TS. Ánh chỉ ra rằng, các nước đang phát triển nói chung xuất siêu tới 525 tỷ USD
(tương đương 12,3% tổng kim ngạch xuất khẩu), ngay cả khối các nước kém phát triển và
châu Phi, Nam Mỹ cũng không nhập siêu.

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 17


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

2. Giai đoạn năm 2009
Nhập siêu tháng 9/2010 (sao ở đây là tháng 9 năm 2010 vậy H??? mih đang nói về gđ
D
2009 mà fai ko?) khoảng 1,05 tỷ USD. Như vậy, 9 tháng đầu năm, tổng nhập siêu lên tới

8,6 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (XK), dưới mức cho phép của Quốc
k hội (20%).
i Trong một bản kế hoạch của Bộ Công thương, kim ngạch nhập khẩu cả nước năm 2009 ở
ế mức 90,3 tỉ USD, tăng 13% so với năm 2008. Như vậy, nhập siêu ở mức 19,2 tỉ USD,
n bằng 27% kim ngạch xuất khẩu. (cho Th số liệu kim ngạch xuất khẩu năm 2009? Vì có
nói ra thì ta mới so sánh vs kim ngạch nhập khẩu như đã ghi ở trên đc. Và số liệu nhập
k khẩu ở trên chỉ là dự kiến thôi fai ko H, mức 90,3 tỉ, H có cách nào kiếm số liệu chính
i xác

đc


ko?

Số

liệu

thực

tế

tính



cuối

năm

2009?)

m

Nhập siêu là một vấn đề bất ổn lớn, có khả năng làm mất cân bằng cán cân thanh

toán của Việt Nam. Nếu không sớm cải thiện trong năm 2009, hậu quả càng lớn bởi các
n yếu tố để giúp cân bằng cán cân thanh toán trong năm nay sẽ không còn được như năm
g 2008.



Các cơ quan dự báo của Chính phủ, các bộ đánh giá (các yếu tố giúp cân bằng cán

c cân thanh toán): kiều hối, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư gián tiếp,
h v.v... có khả năng giảm so với năm 2008. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu, chỉ có thể tăng ở
mức 5%, chứ không phải 13% như chỉ tiêu Quốc hội giao, cùng với làn sóng hàng hoá
n nhập ngoại giá rẻ, khiến cho bài toán nhập siêu phức tạp hơn lúc nào hết.
h

Tuy nhiên, có sự xuất hiện của một số yếu tố có thể giảm bớt tỷ lệ nhập siêu trong

ậ năm 2009. Theo bộ Công thương, giá nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu đầu vào giảm
p mạnh 30 – 50% so với năm 2008 như: sắt thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu, làm cho
k

trị giá nhập khẩu giảm nhiều, mặc dù lượng có thể tăng nhẹ so với năm 2008.

h
ẩ Đề án Kinh tế vĩ mô
u

Page 18


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Hơn nữa, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, sản xuất, kinh doanh trong
nước cũng khó khăn, nhiều ngành bị đình trệ, người dân và doanh nghiệp phải tiết kiệm
nhiều hơn trong sản xuất và tiêu dùng, nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, xuất

khẩu sẽ giảm mạnh. Việc kiểm soát nhập khẩu vàng sẽ chặt hơn so với sáu tháng đầu năm
2008.
Đặc biệt, một yếu tố rất quan trọng có thể làm giảm nhập siêu là lượng xăng dầu
nhập khẩu sẽ giảm do nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ đi vào hoạt động đầu năm 2009.
Lượng nhập khẩu năm 2009 ước tính khoảng 11 triệu tấn với kim ngạch khoảng 6 tỉ
USD, giảm trên 5 tỉ USD so với năm 2008.
Mặc dù đã thấy rõ những yếu tố giúp giảm mạnh nhập siêu, nhưng Bộ Công
thương lại đưa ra dự kiến mức nhập siêu của năm 2009 vẫn còn khá cao.
Bộ Công thương dự kiến sẽ áp dụng các giải pháp nhằm giảm nhập siêu như:
 Kiểm soát việc tiếp cận ngoại tệ theo ba nhóm hàng: nhóm cần nhập khẩu, nhóm cần

kiểm soát và nhóm hạn chế nhập khẩu.
 Siết chặt kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu và sử dụng hàng rào kỹ thuật để hạn

chế nhập khẩu.
 Giảm nhập khẩu bằng việc đẩy mạnh sản xuất hàng trong nước, các loại nguyên liệu,
các mặt hàng phụ trợ cho sản xuất tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng
nhập khẩu…
Các giải pháp trên đều rất cần thiết, quan trọng, nếu quyết liệt thực hiện, cũng làm
giảm nhập siêu. Nhưng dường như nó chưa đầy đủ. Giảm nhập khẩu bằng việc đẩy mạnh
sản xuất hàng trong nước, nhưng nếu chỉ để xuất khẩu tăng ở mức 5%, thì đó là mức tăng
quá thấp trong 5 – 10 năm trở lại đây.
Theo các chuyên gia thương mại, xuất khẩu vẫn có thể đẩy cao hơn do phần lớn
các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như lương thực, thực phẩm (gạo, thuỷ hải sản), đồ
may mặc... có thể tăng do hàng Việt Nam thuộc nhóm giá rẻ. Nhiều tham tán thương mại
ở các nước: Tây Nam Á, châu Phi, Trung Đông... cho rằng, năm 2009, có thể đẩy mạnh
xuất khẩu ở các thị trường này do lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam ở đây chưa lớn,
trong khi nhu cầu tiêu thụ cao.
Đề án Kinh tế vĩ mô


Page 19


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Hoặc ngay trong việc nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị... là một nguồn làm tăng
giá trị nhập khẩu hàng tỉ USD mỗi năm. Hiện nay, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước
khi tổ chức xây dựng các công trình lớn, tổ chức đấu thầu quốc tế lại không tách các gói
thầu mà các doanh nghiệp trong nước hoàn toàn có khả năng cung ứng với chất lượng,
giá rẻ hơn.
Ở nhiều nước, nhập siêu không bị coi là tiêu cực, nếu nhập ở những thị trường
cung cấp công nghệ cao, công nghệ nguồn, những sản phẩm, vật tư quan trọng, thiết yếu
để phát triển kinh tế có chiều sâu (như các nước ở châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật..). Trong khi
nên nhập siêu từ thị trường này thì tình hình hoạt động thương mại ở Việt Nam đối với
các nước ấy lại là xuất siêu. Việt Nam vẫn nhập siêu ở các thị trường không có công nghệ
nguồn, nhập khẩu những máy móc, công nghệ lỗi thời, tiêu hao nhiều năng lượng (như
Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước ASEAN...).
Năm 2008, nhập siêu từ Trung Quốc lớn nhất, lên tới 10,8 tỉ USD, tăng hơn 1,7 tỉ
so với năm 2007, là con số thực sự đáng báo động.

3. Giai đoạn năm 2010

HÌNH 3: Tình hình xuất nhập khẩu từ đầu năm 2010. Nguồn: GSO. (*): Ước tính
Điểm qua kết quả nhập khẩu 10 tháng đầu năm, trong khi 8 tháng đầu năm tốc độ
tăng trưởng nhập khẩu luôn cao hơn xuất khẩu thì từ tháng 9 đến nay xu hướng này đã
Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 20



Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

ngược lại. Nguyên nhân chính là do xuất khẩu tăng mạnh và nhập khẩu chững lại từ
tháng 4/2010. Tỷ lệ nhập siêu và xuất khẩu cũng đã giảm dần qua các tháng, cụ thể trong
4 tháng đầu năm tỷ lệ này là 23,4%, 6 tháng là 19,38%, 8 tháng là 16,6% và 10 tháng chỉ
là 16,45%.
Theo quy luật, kim ngạch nhập khẩu thường tăng cao hơn trong những tháng cuối
năm. Tuy nhiên, do giá cả trên thị trường thế giới có thể giữ ổn định, lượng hàng tồn kho
trong nước đối với một số mặt hàng còn tương đối lớn, cùng với việc triển khai tích cực
các biện pháp kiềm chế nhập siêu nên dự báo kim ngạch nhập khẩu trong hai tháng cuối
năm sẽ không tăng mạnh.
Tính đến tháng 9, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước ước đạt 51,5 tỷ USD,
tăng 23,2% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu đạt 60,08 tỷ USD, tăng 22,7% trong
cùng kỳ năm ngoái. Nhập siêu đến hết tháng 9 vào khoảng 8,58 tỷ USD, bằng 16,7%
tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng.
Vào thời điểm này, có 3 mặt hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng âm so với cùng
kỳ năm ngoái là cà phê, sắn, sản phẩm của sắn và dầu thô. Trong 9 tháng đầu năm mặt
hàng dầu thô đạt giá trị xuất khẩu là 3,675 tỷ USD, riêng tháng 9 ước đạt 370 triệu USD,
bằng 64% so với tháng 8.
Một số mặt hàng xuất khẩu có mức tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước là sắt
thép (tăng 193%); cao su (tăng 95,6%) và hoá chất và sản phẩm hoá chất (tăng 84,2%) so
với cùng kỳ năm 2009.
Trong 9 tháng đầu năm, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc đã giảm 12,5% về giá trị so
với cùng kỳ năm trước, xe máy nguyên chiếc giảm 7,5%, phân bón giảm 34,5%. Tuy
nhiên nếu gộp chung trong nhóm hàng ô tô, xe máy thì 9 tháng qua mức tăng tương ứng
là 8,2% và 28,3%.

Mặt hàng bông, phương tiện vận tải khác nhập khẩu tăng tương ứng 80% và 85%
so với cùng kỳ năm 2009.
Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 21


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Trong tháng 9, nhập siêu khoảng 1,05 tỷ USD. Tính chung 9 tháng, tổng nhập siêu
lên tới 8,6 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhập siêu từ Trung Quốc tăng mạnh nhất, chiếm gần 80% tổng nhập siêu cả nước.
Xét về châu lục, Việt Nam vẫn nhập siêu đối với thị trường châu Á và xuất siêu với tất
các các châu còn lại. Cụ thể, nhập siêu với châu Á hiện nay khoảng 22,5 tỷ USD, gấp hơn
2 lần mức nhập siêu cả nước. Trong khi đó, xuất siêu sang châu Âu đạt 4,5 tỷ USD, với
châu Mỹ khoảng 6,6 tỷ USD, châu Đại Dương gần 1,15 tỷ USD.
Nhập khẩu cả năm được dự báo sẽ đạt 82,5 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2009.
Để đạt được mức này, bình quân nhập khẩu hai tháng cuối năm sẽ phải ở mức 7,6 tỷ
USD/tháng.
Như vậy, nhập siêu cả năm 2010 sẽ trong khoảng 12,5 tỷ USD, tỷ lệ nhập
siêu/xuất khẩu khoảng 17,8%.

II. Sức ép của nhập siêu ở Việt Nam
 Bất cân đối thương mại (nhập siêu) là căn bệnh trầm kha của nền kinh tế VN từ hàng

chục năm nay, kéo theo sự căng thẳng về cán cân thanh toán, gây áp lực lên đồng tiền
Việt Nam và khi giá cả quốc tế tăng lên sẽ kéo giá trong nước lên theo, gây lạm phát.
Đồng USD trên thế giới mất giá mạnh so với các đồng tiền khác. Trong khi đồng nội tệ

của nhiều nước, nhất là những nước có buôn bán lớn với Việt Nam đã điều chỉnh tăng giá
so với USD thì việc đồng Việt Nam mất giá so với USD, tuy có tạo thuận lợi cho xuất
khẩu, nhưng cũng làm cho tình trạng nhập khẩu, lạm phát bị khuếch đại lên. Giá hàng
nhập khẩu tăng do hai yếu tố: do đơn giá tính bằng USD tăng và do tỷ giá đồng Việt
Nam/USD tăng. Giá USD ở Việt Nam từ mấy năm nay có xu hướng tăng thấp hơn những
năm trước (năm 2001 tăng 3,8%, năm 2002 tăng 2,1%, năm 2003 tăng 2,2%, năm 2005
tăng 0,4%, năm 2005 tăng 0,9%, năm 2006 tăng 1,0%, năm 2007 giảm 0,03%, năm tháng
đầu 2008 tăng 0,32%). Hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị đắt kép: vừa đắt do đơn giá tính

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 22


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

bằng USD tăng (trong khi giá USD bị giảm mạnh trên thế giới), vừa đắt do giá đồng Việt
Nam bị neo giữ vào đồng USD, vừa đắt do cánh kéo tỷ giá.
 Ngoài tác động của yếu tố tăng giá hàng hoá nhập khẩu và tăng sản lượng sản phẩm các
mặt hàng sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu, điều đáng lo ngại là tình trạng gia tăng nhập
siêu ở Việt Nam bắt nguồn từ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế - sản xuất dựa vào
gia công lắp ráp và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
 Kinh tế vĩ mô có một số biểu hiện chưa ổn định và thiếu vững chắc khi lạm phát do nhập
siêu kéo dài:
+ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý I tháng 3/2010 tăng 4,12% là mức tăng khá cao.
+ Thị trường tài chính, thị trường tiền tệ phát triển chưa ổn định; điều hành lãi suất chưa
phản ánh đúng quan hệ cung cầu thị trường.
+ Mức tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng thấp, chưa phù hợp.

+ Xuất khẩu vẫn còn nhiều khó khăn, nhập siêu lớn ảnh hưởng đến cán cân thanh toán
tổng thể.
+ Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ công có xu hướng
tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế trong những năm tới đây.
+ Nhập siêu kéo dài trong nhiều năm đã làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tăng nợ
quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng nội tệ.
+ Trong cân đối ngoại tệ và cán cân thanh toán hiện nay, cung cầu ngoại tệ trên thị trường
và sức ép của tỉ giá là rất lớn.
 Có thể thấy, nhập siêu ngày càng gia tăng. Tính bình quân, tỷ lệ nhập siêu từ ASEAN lên

tới 27%, cao hơn rất nhiều so với mức nhập siêu chung của VN trên tất cả các thị trường
khác. Điều đó chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng hóa VN kém. Nguyên nhân chính là do
Việt Nam chưa tận dụng được chế độ ưu đãi về thuế trong ASEAN. Theo quy định, hàng
hóa Việt Nam muốn hưởng ưu đãi thuế vào ASEAN phải có trên 40% tỷ lệ nội địa. Tuy
nhiên, do chủ yếu gia công, lắp ráp nên quy định này không tạo ra được lợi thế cạnh tranh
cho hàng hóa Việt Nam.

Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 23


Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

Bên cạnh ASEAN, Việt Nam nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc. Cụ thể, năm 2008 nhập
siêu 11,1 tỉ USD và xu hướng tăng dần với mức tăng bình quân hằng năm lên tới 59%.
Rõ ràng, về mặt thương mại hàng hóa, Hiệp định ACFTA ASEAN - Trung Quốc đã và
đang tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn đối với hàng hóa của Việt Nam. Thời điểm hiện tại

vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện việc này. Việt Nam chủ yếu nhập từ Trung Quốc nguyên
nhiên vật liệu và máy móc, những cái mà không thể không nhập. Với xu thế không thay
đổi được đó, thì khi đồng NDT lên giá, hàng nhập khẩu Việt Nam cũng sẽ lên giá, khi
tính bằng VNĐ thì sẽ tăng áp lực lạm phát lớn. Đây là câu chuyện gần như không thể
tránh được.
 PGS, TS. Ngô Trí Long - Viện NCKH Thị trường giá cả cho hay Trong cơ cấu nhập siêu,

khoảng 85% giá trị hàng nhập khẩu là nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị cho sản
xuất, phần lớn từ các nước châu Á và ASEAN; còn sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là
khoáng sản thô và hàng gia công. Điều này muốn cảnh báo rằng: Coi chừng
Việt Nam đang nhập khẩu thiết bị, công nghệ có trình độ trung bình hoặc lạc hậu của thế
giới. Theo một số chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, đáng lẽ Việt Nam phải nhập
siêu từ các nước tiên tiến như: Mỹ và châu Âu để tiếp thu tri thức, công nghệ và các sản
phẩm tiên tiến của họ, thì với thị trường này, chúng ta lại xuất siêu. “Điều này hoàn toàn
bất lợi cho nền kinh tế, bởi chẳng những không tiếp thu được công nghệ và chất xám của
thế giới trong nhiều lĩnh vực, sản phẩm ở thị trường châu Á thường không mang tính
chiến lược lâu dài, công nghệ thấp. Thậm chí, chúng ta đã giúp cho họ tiêu thụ sản phẩm
tồn kho” .
 Một trong những mặt hàng được xem là phụ thuộc lớn về nhập khẩu nguyên phụ liệu từ
nước ngoài trong khi tiêu thụ lại chủ yếu ở trong nước: Thép. Đối với thép xây dựng, dù
nguồn cung trong nước được xem là đã đáp ứng nhu cầu, với năng lực sản xuất lên tới 7
triệu tấn/năm, thì có khoảng 70% nguyên liệu cho cán thép (gồm phôi thép và thép phế)
đang phải nhập khẩu. Còn với sản phẩm thép dẹt, dù trong nước đã có nhà máy sản xuất,
nhưng chuyện thép ngoại lấn sân thép nội chẳng còn mới mẻ mà thậm chí ngày càng gay
gắt hơn. Năm 2010, áp lực cạnh tranh từ thép nhập khẩu đối với ngành thép ngày càng
Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 24



Đại học Hoa Sen

Khoa Kinh tế thương mại

tăng do Việt Nam giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết gia nhập WTO . Đồng thời,
lượng thép thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam tăng cao do các nước trong khu vực dư
thừa thép đã tìm cách xuất sang Việt Nam nên các đơn vị trong nước càng khó khăn hơn.
Một mặt hàng phục vụ tiêu dùng khác ít người chú ý là bia cũng đang nhập khẩu lớn các
nguyên liệu chính là malt, hoa hublông, đại mạch vì trong nước không có. Việc sản lượng
năm 2009 có thể đạt tới 2,3 tỷ lít bia, tăng hơn năm ngoái khoảng 20%, cũng đồng nghĩa
với việc đã có một số tiền khổng lồ được bỏ ra để nhập khẩu các nguyên liệu nói trên.

C. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ

I. Nguyên nhân dẫn đến tình hình nhập siêu ở Việt Nam
Nguyên nhân 1: chính sách tỷ giá (nguyên nhân chính). Là một trong những nguyên
nhân gây cho cán cân thương mại bị thâm hụt ngày càng lớn sau khi gia nhập WTO (năm
2006), nhập khẩu ngày càng tăng nhanh so với xuất khẩu, đe dọa làm mất cân đối cán cân
thanh toán tổng thể. Cơ chế tỷ giá của Việt Nam đã không đảm nhiệm được chức năng
điều hòa cán cân thương mại. Do tỷ giá chính thức về cơ bản là cố định nên trong hầu hết
quãng thời gian các năm 2006, 2007 và 2009 tốc độ nhập siêu ngày càng tăng mạnh
nhưng tỷ giá thì hầu như không thay đổi; ngược lại, trong giai đoạn nửa cuối năm 2008
bất chấp tốc độ nhập siêu giảm dần, tỷ giá VNĐ vẫn mất giá rất nhanh. Có thể nói, cơ chế
tỷ giá chính thức áp đặt cho nền kinh tế đã làm cho các chủ thể kinh tế bị tê liệt về giá trị
tương đối của hàng hóa trong nước và ngoài nước cũng như giá trị tương đối của ngoại tệ
và bản tệ. Nó chính là tác nhân chính gây ra tình trạng nhập siêu ngày càng nghiêm trọng
của Việt Nam.
Nguyên nhân 2: : những bất lợi do gia nhập WTO. Thứ nhất, Việt Nam là một nước mới
gia nhập WTO, trình độ kỹ thuật còn non kém, chưa bắt kịp với tốc độ phát triển và kỹ
thuật tiên tiến của thế giới nên chủ trương của Nhà nước nhập siêu nhiều vật tư, máy móc

thiết bị kỹ thuật cao, quy trình công nghệ hiện đại cho việc đẩy mạnh quá trình Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước nói chung và nhu cầu phát triển sản xuất bao gồm cả
phần nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Chính vì vậy,
tình hình nhập siêu máy móc, trang thiết bị tiếp tục gia tăng từ 2007, hàng hóa được sản
Đề án Kinh tế vĩ mô

Page 25


×