Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề thể dục nhịp điệu cho học sinh nữ lớp 11 trường THPT giao thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.16 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT ................

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM TẠO
SỰ HỨNG THÚ, TÍNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO KHI
HỌC CHUYÊN ĐỀ THỂ DỤC NHỊP ĐIỆU CHO HỌC
SINH NỮ LỚP 11 TRƯỜNG THPT ................

Tác giả: ................
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Thể dục thể thao
Chức vụ: Tổ trưởng tổ TD – GDQPAN
Nơi công tác: Trường THPT ................

Nam Định, ngày 20 tháng 4 năm 2017
1


1. Tên sáng kiến: “Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo sự hứng thú, tính
chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề Thể dục nhịp điệu cho học sinh nữ lớp
11 trường THPT ................”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục thể chất.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 22/8/2016 đến ngày 25/9/2016.
4. Tác giả:
Họ và tên: .................
Năm sinh: 1981.
Nơi thường trú:.
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Thể Dục Thể Thao.
Chức vụ công tác: Tổ trưởng chuyên môn.
Nơi làm việc: Trường THPT .................


Điện thoại: 0917265368.
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đồng tác giả: Không
6. Đơn vị áp dụng tạo ra sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT .................
Địa chỉ:
Điện thoại:

2


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục đăng trên báo Cứu quốc ngày 27-31946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Ngày ngày tập luyện thì khí huyết lưu
thông, tinh thần đầy đủ để giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống
mới…” hay “Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người
dân mạnh khỏe là cả nước mạnh khỏe…”.
Xuất phát từ lời kêu gọi của Bác, chúng ta hiểu rằng sức khỏe là cái quý
nhất của mỗi người. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển được
tốt hơn. Tập luyện Thể dục thể thao (TDTT) giúp chúng ta có được sức khỏe tốt.
Từ đó, chúng ta có thể học tập tốt và tham gia các hoạt động ở nhà trường hay
ngoài xã hội, đạt hiệu quả cao hơn. TDTT góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục, giúp các em trở thành con người có ích cho xã hội.
Chính vì thế tuổi trẻ hôm nay - tương lai của đất nước ngày mai đã và đang
tiếp tục không ngừng học tập và làm theo lời dạy của Bác. Học sinh trường
trung học phổ thông (THPT) ................ cũng là một trong những lực lượng trẻ,
đang cố gắng vươn lên kế thừa và phát huy những tinh hoa trong lời dạy của
Người. Ý thức được về vai trò của Giáo dục thể chất cho các em, chúng tôi
những người Giáo viên làm công tác giáo dục thể chất luôn tâm huyết với nghề,
cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần tích cực vào mục tiêu Giáo

dục toàn diện cho thế hệ trẻ.
Giáo dục thể chất ở trường THPT bao gồm nhiều chuyên đề khác nhau như:
Thể dục , Chạy ngắn, Chạy bền, Nhảy cao, Nhảy xa, Bóng chuyền, Cầu lông, Đá
cầu, … nhằm phát triển một cách toàn diện các tố chất thể lực của học sinh, giúp
các em phát triển tầm vóc tốt hơn. Một trong những chuyên đề giúp các em phát
toàn diện và cân đối về hình thể đó là Thể dục nhịp điệu. Thể dục nhịp điệu là
môn thể dục vận động các động tác theo nhạc một cách nhịp nhàng và uyển
chuyển. Tác dụng của Thể dục nhịp điệu là giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, trí
lực tinh thông, làm việc hiệu quả, khả năng dẻo dai và bền sức cũng được khơi
thông khi tập thể dục nhịp điệu thường xuyên. Thể dục nhịp điệu khi học tập tại
trường có tác dụng nâng cao khả năng múa hát và vận động, khả năng nghe nhạc
nhịp nhàng, đẩy lùi được căn bệnh béo phì, lười vận động, tự kỷ…
Thực hiện theo kế hoạch dạy học năm học 2016-2017, Thể dục nhịp điệu
là chuyên đề học tương đối mới và khó đối với học sinh THPT. Thời gian học
3


chuyên đề Thể dục nhịp điệu chỉ gồm 7 tiết, trong đó có 1 tiết kiểm tra, vậy số
tiết thực học chỉ còn 6 tiết. Trong 6 tiết này để giúp cho học sinh thuộc bài, hình
thành tính nhịp điệu, thực hiện được bài nhịp điệu với nhạc là việc không dễ. Để
làm được điều đó cần gây dựng cho các em sự hứng thú, tính tích cực chủ động
lĩnh hội bài tập. Có như vậy mới giúp các em thực hiện tốt nội dung bài Thể dục
nhịp điệu lớp 11, từ đó có tác dụng tích cực đến cơ thể của các em… sẽ hình
thành ở các em khả năng sáng tạo khi tham gia các hoạt động đoàn thể. Xuất
phát từ thực tế trên tôi nghiên cứu và viết sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy
học nhằm tạo sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề Thể
dục nhịp điệu cho học sinh nữ lớp 11 trường THPT ................”.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
1.1. Thực trạng trước khi áp dụng giải pháp mới.

Như chúng ta đã biết Trường THPT ................ nằm trên địa bàn trung tâm
của huyện ................, tuy nhiên học sinh lại nằm rải rác hầu hết các xã, thị trấn
trình độ dân trí không đồng đều, nhiều gia đình còn gặp khó khăn về kinh tế.
Việc trang trải cuộc sống gia đình đã chiếm mất thời gian chăm lo đến con cái
của nhiều bậc phụ huynh. Hơn nữa, có những phụ huynh cho rằng con em mình
đến trường mục đích là học văn hóa còn nói đến học Thể dục hay tập Thể thao
thì đối với họ là không cần thiết. Thậm chí, có những phụ huynh lại có tư tưởng
tập luyện TDTT là tốn sức, ảnh hưởng không tốt đến việc học văn hóa. Mặt
khác, trường THPT ................ luôn là trường đi đầu trong các hoạt động học tập,
với những truyền thống sáng ngời về những môn học tự nhiên như Toán, Lí,
Hóa, Sinh. Vì thế, những môn học tự nhiên được “lên ngôi” đẩy lại phía sau là
những môn xã hội như Văn, Sử, Địa và cuối cùng mới đến môn Thể dục. Sự
phân hóa các môn học và định hướng ngành nghề đã làm cho những môn học bổ
ích trở nên xa cách với học sinh. Thêm vào đó, môn Thể dục được xếp xen kẽ
giữa các giờ học chính khoá nên nhiều giáo viên và học sinh coi môn Thể dục “
ảnh hưởng xấu đến môn học khác”... Chính điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến tâm lí và tư tưởng học tập bộ môn Thể dục của các em.
Khó khăn tiếp theo là chuyên đề Thể dục nhịp điệu khối 11 theo kế hoạch
giảng dạy mới chỉ gồm 8 tiết trong đó ghép với 1 tiết chạy bền. Vì vậy, việc hình
thành kĩ năng vận động cho các em là không dễ nếu không đổi mới phương

4


pháp để phù hợp với kế hoạch dạy học, thực trạng học sinh và xu thế xã hội
hiện nay.
Còn nhiều hạn chế do cơ sở vật chất chưa đáp ứng được hết các yêu cầu
luyện tập của bộ môn nên khi việc thực hiện chương trình còn nhiều khó khăn
như: Trời mưa các lớp học Thể dục không thể đồng loạt học do nhà thể chất
chưa đủ rộng, trang phục luyện tập chưa phù hợp, mở nhạc thì sợ ảnh hưởng đến

các lớp học bên trong,…
1.2. Phân tích ưu nhược điểm của giải pháp cũ để thấy sự cần thiết của việc
đề xuất giải pháp mới nhằm khắc phục nhược điểm của giải pháp cũ:
1.2.1. Ưu điểm của giải pháp cũ: Thực hiện chương trình đúng theo Kế hoạch
dạy học, học sinh chỉ học cần thuộc bài Thể dục nhịp điệu là đạt yêu cầu môn
học.
1.2.2. Nhược điểm của giải pháp cũ: Học sinh không có nhiều hứng thú học,
học đôi khi là do ép buộc nên giờ học trở nên nhàm chán, không khí căng thẳng,
học sinh khó hình thành tính nhịp điệu, không biết hoặc không vận dụng linh
hoạt bài tập cho việc rèn luyện sức khoẻ hàng ngày, không đạt được mục tiêu
của Giáo dục thể chất.
Từ những nhược điểm của giải pháp cũ tôi thấy cần phải tìm ra các biện
pháp giúp học sinh có sự hứng thú trong khi học chuyên đề Thể dục nhịp điệu,
để các em có sự tự giác, tích cực trong học tập.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Vấn đề cần giải quyết:
Trước tiên, chúng ta cần xây dựng sự hứng thú tập luyện bài Thể dục nhịp
điệu cho học sinh. Do đó, việc cần thiết là lựa chọn được các phương pháp giảng
dạy khoa học và giảng dạy theo nguyên tắc hệ thống. Khi tạo được sự hứng thú
cho học sinh thì sẽ tạo cho các em tính chủ động, tích cực, tiếp thu, lĩnh hội bài
tập. Do vậy, việc tiếp thu động tác của các em cũng nhanh hơn, biên độ động tác
chuẩn hơn. Khi thực hiện được các động tác thì vấn đề cần giải quyết tiếp theo
đó là chỉnh sửa biên độ động tác, tính nhịp điệu động tác, ghép nhạc và cuối
cùng giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách biên soạn bài Thể dục cơ bản, từ đó
phát huy tính sáng tạo của các em.
Về cơ sở vật chất: Sử dụng hiệu quả các thiết bị có sẵn của nhà trường như
loa, đài, máy chiếu, nhà thể chất khi cần thiết.
5



Giáo viên cần nghiên cứu, tìm tòi phương pháp giảng dạy hiệu quả, chuẩn
bị chu đáo cơ sở vật chất cũng như bài giảng khi lên lớp.
2.2. Nét mới và sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
So với giải pháp cũ thì giải pháp mới tôi xây dựng tạo cho học sinh cách
tiếp cận nội dung học một cách nhẹ nhàng, sự chủ động lĩnh hội bài tập, không
phải tiếp thu bài tập một cách thụ động. Việc dạy bài mới các em không chỉ gói
gọn trong việc giúp các em biết và thực hiện được bài tập mà còn giúp các em
hiều được về Thể dục nhịp điệu, hiểu về cách thức thực hiện bài Thể dục nhịp
điệu như thế nào là đúng, biên độ như thế nào là đẹp, biểu cảm ra sao, biết cách
thực hiện ghép động tác với nhạc, cách vận dụng bài Thể dục nhịp điệu để tập
luyện hằng ngày. Hơn thế nữa còn giúp các em còn biết biên soạn cho mình các
bài thể dục nhịp điệu phù hợp với yêu cầu của bản thân cũng như biết biên soạn
bài trong các hoạt động tập thể…
Về cơ sở vật chất điểm mới ở đây là tôi đã sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất
sẵn có của nhà trường để mang lại kết quả cao nhất cho giờ học.
2.3. Cách thức và các bước thực hiện giải pháp mới:
2.3.1. Khảo sát tổng quan.
Trước khi thực hiện giải pháp mới, tôi tiến hành quan sát sư phạm và kiểm tra
đánh giá lần một với toàn bộ học sinh nữ các lớp 11 do tôi giảng dạy qua bảng
sau:
Bảng 1: Đặc điểm của các đối tượng trước khi thực hiện giải pháp mới.

TT

Thực hiện cơ bản đúng các
tiêu chí

Nhóm thực nghiệm

Nhóm đối chứng


(11B3; 11B7; 11B9)

(11B6; 11B8; 11B10)

n = 65
n = 65
Số người
Tỷ lệ Số người
Tỷ lệ
1 Biên độ động tác
40
61,5%
41
63,1%
2 Khả năng phối hợp
25
38,5%
24
36,9%
3 Tính nhịp điệu động tác
20
30,8%
20
30,8%
4 Cảm nhận nhịp nhạc
17
26,2%
18
27,7%

5 Vận dụng sáng tạo
5
7,7%
6
9,2%
6 Biểu cảm
27
41,5%
28
43,1%
Qua kết quả bảng 1 cho thấy khả năng thực hiện các tiêu chí bài Thể dục
nhịp điệu của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm là tương đối đều nhau.
bài thể dục nhịp điệu

6


2.3.2. Xây dựng kế hoạch giảng dạy giành cho nhóm thực nghiệm.
Căn cứ vào kế hoạch, chương trình môn học của học sinh khối 11 trường
THPT ................ và chuyên đề giảng dạy môn Thể dục, tôi xây dựng chương
trình thực nghiệm nhằm tạo sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo cho nhóm thực
nghiệm.
Bảng 2: Kế hoạch giảng dạy giành cho nhóm thực nghiệm
TT
1
2
3
4
5
6

7
8

Tên bài tập
Tiếp cận bài thể dục nhịp điệu.
Cho học sinh làm quen với nhạc.
Quy ước các tư thế đúng trong thể dục nhịp
điệu.
Dạy kĩ thuật động tác.
Phân nhóm luyện tập, nâng cao vai trò của
bạn tập trong việc sửa sai cho nhau.
Giao bài tập về nhà.
Hoàn thiện bài tập.
Kiểm tra - đánh giá.

Số thứ tự giáo án
1 2 3 4 5 6 7
x
x x x x x x x
x

8
x

x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x
x x x x x x


x
x
x

2.3.3. Tiến trình thực hiện:
2.3.3.1. Tiếp cận bài thể dục nhịp điệu:
Thực trạng nền giáo dục chung của Việt nam đó là học đôi khi không đi
đôi với hành, nhiều khi học sinh không biết mình đang học nội dung này nhằm
mục đích gì, nó có ý nghĩa gì với bản thân?… Và có mối liên hệ gì với thực
tiễn?... Nếu như phương pháp cũ, học sinh sẽ tập bài Thể dục nhịp điệu và chỉ
nghĩ rằng phải thuộc bài để hoàn thành yêu cầu môn học mà không có hứng thú
gì với bài Thể dục nhịp điệu đó. Vậy ở đây tôi sẽ giúp học sinh tiếp cận với bài
Thể dục một cách dễ dàng, chủ động để hình thành tính tự giác cho các em.
- Như chúng ta đã biết âm nhạc có vai trò quan trọng trong cuộc sống, âm
nhạc có tác động rất lớn đến quá trình hình thành cũng như phát triển của con
người. Bên cạnh đó, âm nhạc còn làm cho con người ta giải tỏa muộn phiền và
mang lại niềm vui trong cuộc sống. Âm nhạc luôn luôn là nguồn hạnh phúc cho
tất cả mọi người sống trên trái đất. Không có âm nhạc thế giới thực sự sẽ rất
buồn tẻ. Nếu bạn mở một khúc nhạc, theo phản xạ con người sẽ nhún nhảy theo
7


nhạc, gật gù theo giai điệu. Vậy nên việc làm đầu tiên cho việc học bài mới của
tôi đó là:
+ Giáo viên thực hiện mẫu bài Thể dục nhịp điệu với nhạc.
+ Cho học sinh xem bài Thể dục nhịp điệu được thực hiện theo nhóm tập
với nhạc thông qua máy chiếu.
Khi xem một bài Thể dục nhịp điệu được thực hiện nhuần nhuyễn với nhạc
sẽ giúp các em thích thú, bản thân học sinh nữ tố chất bẩm sinh thường là mềm
dẻo, khéo léo, thích múa hát hơn học sinh nam nên các em sẽ rất tò mò và muốn

bắt chước…theo bài mẫu.
- Đả thông tư tưởng cho học sinh: Khi đã có cảm giác thích thú, việc tiếp
theo là giới thiệu cho học sinh về môn Thể dục nhịp điệu, có thể bẳng các câu
hỏi mở:
+ Có em nào biết về Thể dục nhịp điệu không? theo em Thể dục nhịp điệu
là gì?
+ Thể dục nhịp điệu có tác dụng gì đối với sự phát triển thể chất của các
em?...
Sau đó giáo viên tổng hợp lại các ý kiến và đưa ra kết luận “Thể dục nhịp
điệu là môn Thể dục vận động các động tác theo nhạc một cách nhịp nhàng và
uyển chuyển. Tác dụng của Thể dục nhịp điệu giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh,
trí lực tinh thông, làm việc hiệu quả. Khả năng dẻo dai và bền sức cũng được
khơi thông khi tập Thể dục nhịp điệu thường xuyên. Thể dục nhịp điệu khi học
tập tại trường có tác dụng nâng cao khả năng múa hát và vận động, khả năng
nghe nhạc nhịp nhàng, đẩy lùi được căn bệnh béo phì, lười vận động, tự kỷ…”
Sau khi hiểu được ý nghĩa của Thể dục nhịp điệu các em sẽ càng có động
lực để tập luyện và yêu thích.
2.3.3.2. Cho học sinh làm quen với nhạc:
Giáo viên cần cho học sinh tiếp cận với các giai điệu nhạc Thể dục nhịp
điệu ngay từ các buổi học đầu tiên, trước khi học các động tác nhịp điệu, không
như cách truyển thống đó là thuộc bài rồi ghép với nhạc. Bởi không phải học
sinh nào cũng có khả năng cảm nhận được nhịp nhạc giống nhau, việc tiếp cận
với âm nhạc dần dần giúp các em nắm chắc cách vào động tác với nhạc nheo
nhịp, theo phách… các em có thể tự tập mọi lúc, mọi nơi. Vậy cách cho các em
làm quen với nhạc đó là:
8


- Bật nhạc cho học sinh nhún theo nhịp trống một cách tự nhiên (Việc này
sẽ giúp các em quen với việc thực hiện nhịp động tác với nhịp trống).

- Hướng dẫn học sinh cách vào nhạc, đếm nhạc theo nhịp trống ( nhịp: 12- 3- 4- 5- 6- 7- 8; 2/2- 3- 4- 5- 6- 7- 8 ; 3/2- 3- 4- 5- 6- 7- 8; 4/2- 3- 4- 5- 67- 8).
- Thực hiện bài khởi động 6 động tác với nhạc, giáo viên làm mẫu học sinh
thực hiện cùng giáo viên.
- Yêu cầu học sinh về nhà ghép được các bài Thể dục nhịp điệu đã học ở
những lớp trước với nhạc để các em làm quen với cách ghép nhạc.
- Thực hiện một bài tập với nhiều nền nhạc khác nhau.
- Học được động tác nào ghép nhạc luôn với động tác đó.
Qua việc hiểu và biết cách ghép nhạc với động tác, sẽ giúp các em chủ
động hơn trong việc học, các em tự tin hơn, mong muốn học động tác mới để
có thể ghép được với nhạc.
2.3.3.3. Quy ước các tư thế đúng trong Thể dục nhịp điệu.

Việc quy ước các tư thế tay, chân, thân người cơ bản trong Thể dục nhịp
điệu sẽ giúp rút ngắn thời gian phân tích động tác của giáo viên, giúp các em
lĩnh hội động tác mới một cách dễ dàng hơn, các em có thể tự sửa sai và sửa sai
giúp bạn trong quá trình học tập:
- Tư thế chuẩn bị cơ bản: Tư thế nghiêm.
9


- Hai tay dang ngang: Hai tay nâng cao bằng vai, hai cánh tay nằm trên
đường thẳng ngang, các ngón tay khép ngửa hoặc úp.
- Hai tay ra trước: Hai tay đưa ra trước, cao bằng vai, hai cánh tay song
song, bàn tay khép, hướng vào nhau sấp hoặc ngửa.
- Hai tay lên cao: Hai tay đưa lên cao, thẳng, hai cánh tay song song, bàn
tay khép, hướng vào nhau hoặc ra ngoài.
- Hai tay chếch dưới: Hai tay đưa ra trước, xuống dưới góc độ khoảng 45◦,
hai cánh tay song song, bàn tay khép hướng vào nhau sấp hoặc ngửa.
- Chân bước sang ngang: Hai bàn chân song song, rộng bằng vai, trọng
tâm dồn đều hai chân.

- Nâng gối: Chân đưa ra trước, đùi vuông góc với thân người, cẳng chân
vuông góc với đùi, mũi chân hướng xuống đất.
- Biểu cảm động tác: Mắt nhìn theo tay (Nếu động tác tay dang ngang, mắt
nhìn theo tay trái trước, tay phải sau), khuôn dung tươi tỉnh, tự tin.
2.3.3.4. Dạy kĩ thuật động tác:
Nếu vận dụng theo kế hoạch giảng dạy thì thông thường 1 tiết học sinh
học từ 2 đến 3 động tác tuỳ mức độ phức tạp của các động tác. Nhưng dù học
mấy động tác trong 1 tiết thì cũng phải tiến hành dạy từng động tác rồi mới
ghép các động tác với nhau.
- Khi dạy động tác đơn giản: Cần nêu tên động tác, tác dụng cơ bản của
động tác đó, rồi mới tiến hành thị phạm theo 3 bước:
Bước 1: Làm nhanh 1 lần.
Bước 2: Làm chậm và phân tích.
Bước 3: Làm tổng hợp.

10


Học sinh quan sát ở đội hình 4 hàng ngang so le, cự ly giãn cách 2m, học
sinh bước đầu đã định hình động tác, khi đó giáo viên làm chậm từng nhịp
cùng chiều, học sinh sẽ bắt chước theo 1 lần. Sau đó giáo viên làm ngược chiều
với học sinh (theo kiểu soi gương – giáo viên nói là thực hiện bên trái trước
nhưng thực ra giáo viên lại thực hiện bên phải trước để cùng chiều với học
sinh), các em chưa thuộc nên bắt chước theo động tác của giáo viên sẽ dễ hơn.
Giáo viên có thể vừa hướng dẫn, nhắc bài cho học sinh còn quan sát được các
em thực hiện nên có thể sửa chữa, uốn nắn kịp thời (thực hiện 2-3 lần, nhịp
tăng dần).
- Khi giảng dạy 1 động tác phức tạp: Cơ bản vẫn tiến hành như khi giảng dạy
1 động tác đơn giản, song cần áp dụng phương pháp phân chia - tổng hợp. Giáo
viên dạy động tác của chân trước, khi học sinh đã thực hiện được mới tiếp tục

dạy động tác của tay. Sau đó là kết hợp động tác của chân và tay.
Khi dạy 1 động tác học sinh đã tương đối thuần thục, đúng nhịp có thể tổ
chức hướng dẫn cho các em cách ghép nhạc: Giáo viên giới thiệu thể loại nhạc
có thể ghép, lấy ví dụ 1 bài hát ở thể loại nhạc đó (quen thuộc với học sinh) và
thực hiện 1 lần với nhạc cho học sinh quan sát sau đó thống nhất quy ước gắn
với nhịp phách. Thực hiện lại theo kiểu soi gương, học sinh thực hiện theo. Khi
đã biết cách ghép nhạc về nhà các em có thể tự ghép nhạc với bài hát yêu thích
(cùng thể loại) để luyện tập như 1 bài tập rèn luyện thể chất .
11


Sau khi đã dạy xong 9 động tác, thì tổ chức cho học sinh ôn tập toàn bài.
Cần chọn những học sinh thuộc bài, có tư thế động tác tốt đứng ở hàng đầu,
những học sinh còn lại đứng thành 3 hàng ngang so le cự ly giãn cách 2m.
Giáo viên nhắc lại tên động tác rồi cho học sinh tập từng động tác. Giáo viên
dừng lại ở tư thế có nhiều học sinh thực hiện chưa tốt để sửa, yêu cầu học sinh
tập lại vài lần tư thế đó để tạo cảm giác vận động. Tiếp đến là tổ chức cho học
sinh tập từng nhóm động tác. Sau đó mới cho học sinh tập liên kết toàn bài.
Giáo viên hô cho học sinh thực hiện kết hợp nhắc bài học sinh bằng cách hô
nhịp 8 lần 4 thay bằng tên động tác tiếp theo. Khi học sinh đã thuộc bài, thực
hiện đúng nhịp cần yêu cầu học sinh quan tâm đến thể hiện nhịp điệu động tác
như nét mặt, ánh mắt...Sau đó áp dụng phương pháp trình diễn, cho từng nhóm
học sinh lên thực hiện, các nhóm còn lại quan sát, so sánh, nhận xét … Khi
học từng động tác giáo viên đã hướng dẫn cách ghép nhạc, nên sau khi học
sinh đã thuộc bài thì tổ chức cho ghép nhạc với bài hát quen thuộc bằng cách:
Giáo viên bật nhạc và thực hiện cho học sinh quan sát, sau đó giáo viên thống
nhất quy ước mỗi câu hát (nhịp phách) tương ứng với động tác cụ thể. Tiếp
theo giáo viên thực hiện với nhạc theo kiểu soi gương, học sinh vừa nhẩm theo
nhạc vừa thực hiện. Giáo viên quan sát, rút kinh nghiệm và tiếp tục cho học
sinh vừa nghe nhạc vừa thực hiện, khi thực hiện với nhạc nên chọn vị trí sân

tập xa lớp học. Khi học sinh đã thực hiện thuần thục, luyện tập trong 1 thời
gian nhất định thì thay đổi tốc độ thực hiện, sử dụng các bản nhạc sôi động
hơn, cường độ thực hiện bài tập nhanh hơn.
2.3.3.5. Phân nhóm luyện tập, nâng cao vai trò của bạn tập trong việc sửa sai
cho nhau.
Việc phân nhóm giúp các em tự giác hơn trong việc tập luyện, các em có
thể tập nhanh, chậm theo khả năng của mình, đồng thời có thể phát hiện ra các
lỗi sai khi thực hiện động tác và sửa sai cho nhau, bởi khi tập đồng loạt giáo
viên không thể phát hiện ra hết các lỗi sai của các em. Nhưng để giúp các em
sửa sai được cho nhau giáo viên cần phải nêu ra các lưu ý cơ bản nhất, các lỗi
thường gặp nhất để học sinh nắm được.
Khi phân nhóm cần chia ra theo hai cách: Cách 1chia theo nhóm 7- 10 học
sinh (mục đích để các em tập bài thể dục nhịp điệu theo đội hình, tập phối hợp
bài tập một cách đồng đều, nhịp nhàng); cách 2 chia theo nhóm 2-3 học sinh
(mục đích giúp học sinh sửa sai cho nhau dễ hơn). Tuy nhiên giáo viên cần lưu ý
12


khi chia nhóm nên chọn những học sinh có giọng hô tốt, thực hiện động tác
chuẩn - đẹp làm nhóm trưởng .

Ngoài việc phân nhóm thì đội hình tập luyện cũng giúp học sinh tập luyện
một cách hứng thú hơn, khi tập nhóm lớn 7- 10 học sinh có thể tập theo đội hình
hai hàng đối diện, tập đội hình cùng quay về một hướng, và đặc biệt qua quan
sát thấy các em thích thú đội hình vòng tròn, vì các em chuyển động về cùng
một hướng theo vòng tròn…

13



2.3.3.6. Giao bài tập và hướng dẫn bài tập về nhà:

Phần giao bài tập và hướng dẫn thực hiện bài tập về nhà khâu này cũng
rất quan trọng và cần thiết. Nên tôi phải phân tích, nói rõ tác dụng của việc tự
luyện tập để tăng thể lực, bổ trợ kĩ thuật, bởi nếu chỉ học ở trên lớp thì thời
gian sẽ không đủ, không bảo đảm việc hình thành kĩ năng vận động cho học
sinh, mỗi buổi học tôi đều kiểm tra mức độ hoàn thành bài tập về nhà của các
em sau đó đánh giá cho điểm miệng, có như vậy các em sẽ có trách nhiệm hơn
trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình. Giao bài tập về nhà tôi có thể gợi ý
cho các em cách ôn bài mà không ảnh hưởng đến việc học tập văn hóa, không
gây khó khăn, không mất nhiều thời gian, không ảnh hưởng nhiểu đến các hoạt
động khác của các em như:
- Tập khi ngủ dậy, giúp cơ thể tỉnh táo, sảng khoái.
- Khi làm bài tập về nhà các môn học khác, đã xuất hiện cảm giác mệt
mỏi lúc này hiệu quả học tập sẽ không tốt nữa, các em có thể đứng dậy ôn lại
bài thể dục
(với nhạc), điều này sẽ giúp các em lấy lại sự tỉnh táo, tinh thần học tập.
- Tập bài Thể dục trước gương sẽ giúp các em ý thức tốt hơn về biên độ
động tác.
- Khi thuộc động tác mới cần ghép với các động tác đã học và ghép luôn
với nhạc.

14


- Tập trước lúc đi ngủ khoảng 30 phút sẽ giúp các em giải toả căng
thẳng, giúp giấc ngủ ngon và sâu.
2.3.3.7. Hoàn thiện bài tập:
Hoàn thiện bài tập là một giai đoạn quan trọng, việc hoàn thiện bài tập
bao gồm các yếu tố sau:

- Độ thuần thục động tác của học sinh (thuộc bài,đúng biên độ động tác,
biểu cảm khi thực hiện động tác).
- Ghép được bài tập với nhạc.
- Tập theo đội hình chung một cách đồng đều, nhịp nhàng.
Thực ra sau mỗi lần học xong nhóm động tác tôi đều yêu cầu các em
thuần thục động tác và ghép được nhạc ngay ở các nhóm động tác đó. Việc
ghép nhạc theo nhóm động tác sẽ đỡ mất thời gian trong việc sửa sai. Việc
hoàn thiện bài tập cho các em sẽ theo các bước sau:
- Thuộc bài, tập được với nhóm.
- Ghép được các nhóm động tác với nhạc.
- Ghép toàn bộ bài tập với nhạc.
- Tập toàn bộ bài Thể dục nhịp điệu với nhạc theo nhóm tập luyện.

Ngoài ra giáo viên có thể cho các nhóm thi đấu với nhau, chọn ra nhóm
thực hiện tốt nhất để động viên, khen thưởng, có như vậy mới phát huy được
tính tự giác, phấn đấu của các em. Giáo viên hướng dẫn để học sinh vận dụng
bài Thể dục nhịp điệu này với nhạc ở nhà giống như bài thể dục buổi sáng,
15


buổi tối, giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, trí lực tinh thông, làm việc hiệu
quả.
2.3.3.8. Kiểm tra - đánh giá:

Kiểm tra- đánh giá là một khâu xác định kết quả đã đạt được sau quá
trình rèn luyện của học sinh, có học thì phải có kiểm tra đánh giá, như vậy mới
tạo được sự ganh đua, phấn đấu trong học tập của học sinh.
Trước khi kiểm tra tôi phổ biến yêu cầu kiểm tra và cách đánh giá, giúp
học sinh có thể tự đánh giá được kết quả của bản thân cũng như của các bạn.
Tiếp theo tôi chia nhóm kiểm tra theo nhóm luyện tập 3 học sinh (cách 2). Sau

đó tôi tổ chức cho các em vào đội hình kiểm tra (đội hình chữ L). Cuối cùng
khi kiểm tra xong tôi nhận xét ưu nhược điểm chung và thông báo kết quả và
giải đáp thắc mắc nếu có. Như vậy thể hiện sự công bằng, khách quan, chính
xác, giúp các em có niềm tin vào giáo viên, từ đó các em có thái độ học tập
nghiêm túc, nỗ lực phấn đấu. Song trong trường hợp học sinh có thể lực yếu
hoặc khả năng phối hợp vận động kém nhưng đã rất cố gắng trong quá trình
học tập thì giáo viên có thể xem xét để động viên học sinh một cách công khai
trước lớp.
2.4. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp mới:
Để sáng kiến này được áp dụng vào thực tế giảng dạy các lớp 11 do tôi đảm
nhiệm cần các yếu tố sau:

16


- Giáo viên phải tâm huyết với nghề, say chuyên môn, chịu khó tìm tòi
phương pháp cũng như xây dựng kế hoạch tập luyện cụ thể và hệ thống các bài
tập phù hợp với từng đối tượng học sinh, đồng thời quan tâm, động viên, chia
sẻ với các em, nhất là những em học sinh có sức khỏe yếu và hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn.
- Ban giám hiệu quan tâm động viên thầy trò cả về vật chất lẫn tinh thần,
thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở.
- Giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn cần nhận thức đúng đắn
hơn về việc phát triển thể chất tầm vóc của các em, qua đó tạo điều kiện để các
em phát triển hài hoà cả về thể chất lẫn tri thức.
- Phụ huynh động viên các em tham gia tập luyện, quan tâm chăm sóc các
em, giúp các em phát triển thể chất tốt hơn, đặc biệt là bữa ăn sáng cung cấp
năng lượng cho các em khi tập luyện thể thao chính khóa mà không bị hiện
tượng mệt mỏi do thiếu chất.
- Học sinh phải ăn sáng trước khi đến trường để đảm bảo sức khỏe cho

việc học tập. Các em cần nhận thức được vai trò, ý nghĩa của môn học, để từ
đó có thái độ đúng đắn trong việc rèn luyện thể chất tại trường cũng như các
hoạt động thể thao khác.
2.5. Khả năng áp dụng vào thực tế của giải pháp mới:
Việc áp dụng sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo sự
hứng thú, tính chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề Thể dục nhịp điệu cho
học sinh nữ lớp 11 trường THPT ................” vào quá trình giảng dạy các lớp
thể dục 11 do tôi đảm nhiệm đã mang lại kết quả như bảng:
Bảng 3: Đặc điểm của các đối tượng sau khi thực hiện giải pháp mới.
TT

Thực hiện cơ bản đúng các tiêu

Nhóm thực nghiệm

Nhóm đối chứng

n = 65
n = 65
Số người
Tỷ lệ
Số người
Tỷ lệ
1
Biên độ động tác
60
92,3%
55
84,6%
2

Khả năng phối hợp
58
89,2%
45
69,2%
3
Tính nhịp điệu động tác
57
87,7%
32
49,2%
4
Cảm nhận nhịp nhạc
55
84,6%
31
47,7%
5
Vận dụng sáng tạo
16
24,6%
8
12,3%
6
Biểu cảm
59
90,8%
35
53,8%
Từ kết quả bảng 3 cho thấy sự tiến bộ giữa nhóm đối chứng và nhóm thực

nghiệm đã có sự chênh lệch về các tiêu chí và thể hiện rõ ràng hơn ở bảng 4.
chí bài thể dục nhịp điệu

17


Bảng 4: So sánh sự tiến bộ (tỉ lệ %) trước và sau khi học chuyên đề Thể dục
nhịp điệu.
TT

Thực hiện cơ bản đúng các tiêu chí
bài thể dục nhịp điệu

Nhóm thực
nghiệm
Tỷ lệ %
30,8%

Nhóm đối
chứng
Tỷ lệ %
21,5%

1

Biên độ động tác

2

Khả năng phối hợp


50,7%

32,3%

3

Tính nhịp điệu động tác

56,9%

18,4%

4

Cảm nhận nhịp nhạc

58,4%

20,0%

5

Vận dụng sáng tạo

16,9%

3,1%

6


Biểu cảm

49,3%

10,7%

Từ kết quả bảng 3 và bảng 4 cho thấy cả hai nhóm đều có sự tiến bộ về
các tiêu chí cơ bản của bài Thể dục nhịp điệu. Tuy nhiên so sánh sự tiến bộ
giữa hai nhóm qua từng tiêu chí ta thấy: Tỉ lệ % các tiêu chí của nhóm thực
nghiệm cao hơn nhiều so với nhóm đối chứng, đặc biệt thể hiện ở các tiêu chí:
Tính nhịp điệu động tác, cảm nhận nhịp nhạc, vận dụng sáng tạo, biểu cảm .
Thực tế cũng cho thấy học sinh ở nhóm thực nghiệm thực hiện bài nhịp điệu
với thái độ tích cực, vui vẻ, hứng thú, việc thực hiện kĩ thuật của các em tốt
hơn với nhóm đối chứng, các em có thể thuần thục bài tập với nhạc, biểu cảm
tốt, biên độ động tác đẹp. Ngoài ra các em có thể vận dụng linh hoạt những gì
đã học để biên soạn bài Thể dục nhịp điệu mới để tập cũng như trong thi văn
nghệ tại trường… Như vậy, giải pháp mà sáng kiến áp dụng là hiệu quả.
2.6. Những đối tượng, cơ quan, tổ chức có thể áp dụng giải pháp mới:
Sáng kiến này có thể được coi như một tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy chuyên đề Thể dục nhịp điệu khối 11 trong các trường THPT cũng
như các hoạt động đoàn đội, các hoạt động văn nghệ, thể thao quần chúng.

18


III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI:
1.Hiệu quả kinh tế:
Là cơ quan giáo dục, là trường học không sản xuất ra vật chất, sản phẩm
tạo ra không phải là hàng hóa nên không tính bằng tiền mà sản phẩm tôi tạo ra

là những em học sinh vừa khỏe mạnh, dẻo dai, vừa thông minh nhanh nhạy ,
phát huy tính năng động và sáng tạo của học sinh trong các hoạt động đoàn thể .
Tôi sử dụng trang thiết bị có sẵn của nhà trường một cách có hiệu quả tránh
lãng phí. Qua việc rèn luyện thể chất thường xuyên sẽ giúp xã hội có một
nguồn nhân lực khoẻ mạnh xây dựng đất nước giàu mạnh trong tương lai như
Bác Hồ đã nói: “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
2. Hiệu quả về mặt xã hội:
Hiệu quả trước hết mà sáng kiến mang lại đó là tôi đã góp phần thúc đẩy
phong trào rèn luyện thân thể: khỏe để học tập, khỏe để lao động sản xuất, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ mái trường ................ thân yêu, biết bao thế hệ học trò với bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ, sức cường tráng của độ thanh xuân, hăng say bước vào cuộc
sống mới. Chúng tôi vô cùng tự hào, bởi những chủ nhân tương lai ngời ngợi
sức sống ấy, đang dần trưởng thành bởi môi trường giáo dục nơi đây. Việc làm
của tôi cũng góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng thương hiệu của
trường THPT ................. Giờ đây trong trái tim của nhân dân huyện nhà và
vùng lân cận, THPT ................ không chỉ là vành nôi đúc tạo những trí thức trẻ
mà còn đúc tạo những trí thức phát triển toàn diện cả về đức - trí - thể - mĩ.
Chúng tôi là tiêu điểm chú ý, là sự lựa chọn hàng đầu của phòng Văn hóa - thể
thao huyện. Cứ mỗi dịp thi đấu thể thao cấp tỉnh, trường chúng tôi lại vinh dự
được đóng góp những VĐV xuất sắc, mang vinh quang về cho huyện nhà. Và
những học sinh được đào tạo bởi mái trường THPT ................ cũng là những
hạt nhân đi tiên phong trong phong trào rèn luyện sức khỏe ở địa phương nơi
các em cư trú. Các em đã góp phần thúc đẩy phong trào Thể thao quần chúng
lên một tầm cao mới.
Những giải pháp khi áp dụng sáng kiến đã và sẽ tạo ra những thế hệ học
sinh năng động, sáng tạo, chủ động và tích cực trong các hoạt động đoàn thể.
Thông qua đó giáo dục cho các em các kĩ năng sống, kĩ năng hoạt động. Đây là

19



những kĩ năng cần thiết là hành trang quan trọng giúp các em tự tin khẳng định
bản thân khi bước ra khỏi mái trường THPT.
Với hiệu quả sáng kiến mang lại tôi tin đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các trường THPT cũng như các hoạt động đoàn đội, các hoạt động văn
nghệ, thể thao quần chúng...
IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN:
Tôi cam kết, sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo sự hứng thú,
tính chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề Thể dục nhịp điệu cho học sinh nữ
lớp 11 trường THPT ................” là kinh nghiệm thực tế được đúc rút từ quá
trình giảng dạy của tôi. Tôi xin cam kết không sao chép vi phạm bản quyền. Nếu
sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
................, ngày 20 tháng 04 năm 2017
CƠ QUAN ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(xác nhận, ký tên, đóng dấu)
………………………………………….
………………………………………….
................

20


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Kính gửi: Sở GDĐT Nam Định
Tôi: ................

STT

1

Họ và tên

................

Ngày tháng
năm sinh

Nơi công
tác

Chức danh

12/06/1981

THPT
................

Tổ trưởng
CM

Tỷ lệ
(%)
Trình độ

đóng
chuyên góp vào
môn
việc tạo
ra sáng
kiến
Cử nhân 100%

- Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Đổi mới phương pháp dạy học
nhằm tạo sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo khi học chuyên đề Thể dục nhịp
điệu cho học sinh nữ lớp 11 trường THPT ................”
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục thể chất
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 22/08/2016
- Mô tả bản chất của sáng kiến: Đổi mới phương pháp nhằm tạo sự hứng thú,
tính chủ động sáng tạo cho học sinh khi học chuyên đề thể dục nhịp điệu.
- Những thông tin cần được bảo mật nếu có: không
- Những điều kiện cân thiết để áp dụng sáng kiến: Nhà trường tạo điều kiện về
cơ sở vật chất, giáo viên tâm huyết với nghề, say chuyên môn…
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả: những em học sinh vừa khỏe mạnh, dẻo dai, vừa thông
minh nhanh nhạy, phát huy tính năng động và sáng tạo của học sinh trong các
hoạt động đoàn thể, có thể là tài liệu hữu ích cho giáo viên tham khảo…
Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
................, ngày 20 tháng 04 năm 2017
Người nộp đơn

................

21




×