Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Vận dụng lí thuyết vật lí và toán học vào đọc hiểu truyện ngắn theo đặc trưng thể loại thực nghiệm qua “chiếc thuyền ngoài xa” của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 71 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT ....................

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VẬT LÍ VÀ TOÁN HỌC VÀO
ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
THỰC NGHIỆM QUA CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Người thực hiện: ....................
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ: Giáo viên THPT
Đơn vị công tác: Trường THPT .....................

1


Năm học 2016 - 2017
1.Tên sáng kiến:
Vận dụng lý thuyết vật lí và toán học vào đọc hiểu truyện ngắn theo đặc trưng
thể loại, thực nghiệm qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Khoa học Sư phạm (Phương pháp dạy học Ngữ văn)
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 25 tháng 8 năm 2015 đến ngày 20 tháng 5 năm 2017.
4. Tác giả:
Họ và tên: .....................
Năm sinh: 25 – 02 – 1984.
Nơi thường trú: Bình Minh – Nam Trực – Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ.
Chức vụ công tác: Giáo viên Trường THPT ....................,.
Điện thoại:


Mail:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Trường THPT ....................
Địa chỉ:
Điện thoại:

2


3


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến.
1. Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật hiện nay dẫn đến kết quả là sự xuất
hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kĩ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới.
Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời, lạc hậu, diễn ra với tốc độ ngày
càng nhanh. Không những vậy, những phát minh vĩ đại của yếu tố của lực lượng sản xuất
và của phương thức sản xuất tiên tiến hiện đại, công nghệ cao đã đưa thế giới bước sang
thời kì toàn cầu hóa giai đoạn 3. Hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ đã biến các quốc
gia, khu vực thành những láng giềng sát vách trong sân chơi của một “thế giới phẳng”.
Nắm vững quy luật này, Việt nam cũng đã chủ động hội nhập, tham gia trường quốc tế
toàn diện, tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống.
Một trong các nhân tố quan trọng đưa nước ta hội nhập thành công, chủ động nắm
bắt thời cơ và vượt qua thử thách mà Việt Nam xác định, đó là giáo dục và đào tạo. Xác
định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, ngay trong Luật Giáo dục nước Cộng
hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động,tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục 2005). Hơn thế nữa trong Nghị

quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hànhTrung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII,
khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học…”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hànhTrung ương Đảng cộng sản Việt
Nam khoá XI, với Nghị quyết 29-NQ/TW, về việc “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong thời kì kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cũng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ
sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực ... Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Tất cả các yếu tố trên đã đặt một nhiệm vụ không hề nhỏ, mang tính chất quyết
định bước ngoặt cho giáo dục đào tạo Việt Nam tại thời điểm ngày nay. Đổi mới phương
pháp dạy học sẽ là xu hướng mang tính toàn cầu then chốt trong giáo dục, trong đó không
thể bỏ qua vai trò của giáo dục Ngữ văn trong trường THPT.
4


2. Thực trạng việc vận dụng vật lí và toán học vào đọc hiểu văn bản theo đặc trưng
thể loại trong giờ dạy học tác phẩm văn chương ở THPT
2.1. Cách thức khảo sát thực trạng
Đi vào thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng của việc vận
dụng các kiến thức khoa học khác nhau, dạy học tích hợp liên môn, đổi mới phương pháp
dạy học… trong giờ học đọc hiểu các tác phẩm văn chương ở THPT bằng nhiều cách:
tham dự các cuộc hội thảo về đổi mới PP dạy học Ngữ văn, dự giờ thăm lớp, phỏng vấn
GV, thăm dò ý kiến GV và HS bằng phiếu trả lời trắc nghiệm, quan sát việc soạn bài, ghi
bài của HS,…
2.2. Những biểu hiện cụ thể của thực trạng

2.2.1. Về phía giáo viên
Đa số GV đều có ý thức trong việc đổi mới PP dạy học vận dụng các kiến thức đặc
trưng thể loại, dạy học tích hợp liên môn và bước đầu vận dụng các vấn đề đó vào giờ
dạy học Ngữ văn nói chung, giờ đọc - hiểu văn bản văn học nói riêng. Về việc vận dụng
phương thức trên trong giờ dạy học TP văn chương, phần đông GV nhận thức rằng đây là
một trong những quan điểm, PP dạy học có vai trò quan trọng, phát huy được tính tích
cực chủ động của HS, góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dạy và học văn.
Tuy nhiên, trong thực tế vận dụng, GV còn nhiều lúng túng, chưa phát huy đọc
hiểu văn bản văn học đúng theo đặc trưng thể loại đặc biệt là việc vận dụng các kiến thức
khoa học khác nhau, trong đó vắng bóng khoa học tự nhiên vào đọc hiểu văn bản. GV sử
dụng kiến thức của Sử - Địa - Giáo dục công dân là phổ biến hơn.
Trong tiến trình dạy học, GV chưa định hướng cách thức tiếp cận giải mã một văn
bản theo đúng đặc trưng của nó, chưa sử dụng đồng bộ các phương pháp. Nhiều GV còn
nặng về diễn giảng, đôi lúc say sưa “độc tấu” hoặc hỏi rồi tự trả lời. Thỉnh thoảng GV
mới nhấn mạnh vấn đề (chỉ dùng vào phần trọng tâm bài học), bằng việc cho HS ghi lại
lời bình của mình về đơn vị kiến thức mà không chỉ rõ hay làm sáng tỏ bản chất thực sự
của kiến thức. Vì thế mà làm mất đi mối liên hệ giữa các bộ môn khoa học, không khắc
sâu được kiến thức và đặc biệt là không tạo ra một môi trường cho HS chủ động sáng tạo
trong việc tiếp nhận văn bản văn học.
Một điểm nữa là sự đơn điệu trong cách hướng dẫn học tập cho học sinh của GV
(chủ yếu là hỏi đáp, ghi bảng và chép vở). GV chưa thực sự có sự công não, đa dạng các
hoạt động học cho HS. Vì thế, từ cách nêu vấn đề đến tổ chức các hoạt động dạy học
chưa tạo được niềm say mê, hứng thú và hấp dẫn HS trong giờ học.
2.2.2. Về phía học sinh
Sự nhận thức của HS về vai trò của các kiến thức khoa học khác nhau, kiến thức về
thể trong giờ đọc - hiểu còn thấp. HS chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, đơn lẻ, rất
5


ít HS vận dụng đa dạng sáng tạo kiến thức về thể loại và các bộ môn khác đặc biệt là

khoa học tự nhiên trong các tình huống của bài học. Vì thế, trong giờ đọc - hiểu phần lớn
hoạt động học của HS vẫn dừng lại ở mức độ nghe giảng ghi chép, chứ chưa có ý thức
tham gia vào các hoạt động dạy và học. HS ngại phát biểu ý kiến xây dựng bài. Khi được
GV mời trả lời HS thường lúng túng. Giờ văn vì thế mà trở nên nặng nề, mệt mỏi, HS
kém hào hứng chờ đợi. Do đó dẫn đến hiệu quả lĩnh hội kiến thức còn thấp nên kết quả
học tập bộ môn chưa cao.
Trong giờ học hoặc qua các bài kiểm tra, HS tỏ ra dựa dẫm vào lời, bài ghi của
GV hoặc tài liệu tham khảo, chưa chú ý phát huy năng lực độc lập suy nghĩ. Khả
năng khái quát hóa, khả năng vận dụng các kiến thức vào tình huống thực tế, bộc lộ cảm
xúc thẩm mĩ của HS còn hạn chế.
2.3. Nguyên nhân
Tình hình chung về bộ môn Ngữ văn hiện nay:
+ HS học tập miễn cưỡng, chiếu lệ, nhiều khi chán ngán.
+ GV thừa nhiệt tình nhưng chưa đủ kiến thức sâu rộng và khả năng linh hoạt về phương
pháp giảng dạy.
Riêng việc vận dụng các lý thuyết của khoa học tự nhiên vào đọc hiểu văn bản
theo thể loại còn những điểm chưa dễ thống nhất:
+ Trước hết, quan niệm về việc vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào dạy học đọc
hiểu văn bản văn học còn những điểm chưa nhất trí. Có ý kiến cho rằng văn bản văn học
chỉ có mối quan hệ mật thiết với các bộ môn khoa học xã hội, việc vận dụng khoa học tự
nhiên vào văn học sẽ làm khô cứng, công thức hóa văn học. Do vậy, không dễ dàng nêu
những vấn đề như vậy trong giờ học văn bản văn học. Vì thế, xảy ra tình trạng GV văn có
phần dè dặt khi tiếp cận văn bản văn học dưới góc nhìn mới, khi vận dụng thành tựu của
các khoa học tự nhiên và dạy học Ngữ văn.
+ Mặt khác, trong thực tế dạy học văn hiện nay, có hiện tượng dễ dãi khi tiếp cận văn bản
văn học, mang tính chủ quan cảm xúc cao của người dạy mà đôi khi tác rời, thoát xa khỏi
văn bản với đặc trưng và quy luật của nhận thức trong khoa học. Bởi khi tổ chức dạy học,
người dạy cũng chưa xác định rõ đặc trưng thể loại bộc lộ ở các phương diện nào, cần sử
dụng các kiến thức các môn học khác ra sao để HS hiểu rõ ràng vấn đề. Và thêm vào đó,
do chưa có nhiều phông nền sâu rộng về văn hóa, kiến thức và phương pháp nên người

dạy sử dụng đơn điệu về phương pháp tổ chức dạy học, áp đặt về kiến thức truyền đạt.
HS chưa được học tập thường xuyên trong môi trường học tập mới (thực tế, sử dụng kiến
thức nhiều môn học, trò chơi, trải nghiệm...), lối mòn cách học từ lớp dưới, tạo rào cản
cho GV trong việc đổi mới phương pháp.
+ Cơ sở vật chất một số trường học không đủ đáp ứng cho sự đột phá đổi mới dạy học…
6


Những nguyên nhân trên đã dẫn đến việc sử dụng các lý thuyết khoa học tự nhiên
trong đó có vật lí và toán học vào giờ đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại còn
nhiều hạn chế, đọc - hiểu văn bản hiệu quả chưa cao. Trước thực trạng đó chúng tôi đã
lựa chọn đề tài: Vận dụng lý thuyết vật lí và toán học vào đọc hiểu văn bản truyện
ngắn theo đặc trưng thể loại, thực nghiệm qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu làm vấn đề nghiên cứu và thực nghiệm cho mình. Đây là đề tài mới mà
chúng tôi chưa thấy có tác giả, công trình, sáng kiến kinh nghiệm nào nghiên cứu và qua
quá trình thực nghiệm giảng dạy của mình chúng tôi thấy có những kết quả khả quan.
Tuy nhiên, đây lại là vấn đề lớn của tiếp cận văn học và thực nghiệm sư phạm, kinh
nghiệm cá nhân có hạn, nên không thể tránh khỏi sự chủ quan và khiếm khuyết. Vì vậy
chúng tôi chân thành mong đợi được sự đóng góp ý kiến quý báu của các nhà chuyên
môn, thầy cô và bạn đọc.
II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến qua bảng so sánh giảng dạy bài học trước
và sau khi có sáng kiến
1.1. Lí thuyết tiếp nhận
Trước khi có sáng kiến
Sau khi có sáng kiến
Đọc các tài liệu.
GV và HS đọc như một chủ thể tiếp nhận độc lập.
Dựa vào tiếp nhận và thiết GV phải tiếp nhận văn bản như một độc giả, tương
kế giáo án của các nhà tác với các tài liệu khác để định hình kiến thức cơ bản

nghiên cứu.
cốt lõi và các năng lực cần đạt cho Hs.
Chưa đề cao vai trò chủ GV dự kiến sự tiếp nhận HS để có sự hướng dẫn tiếp
thể sáng tạo tiếp nhận của cận, đọc hiểu phù hợp qua các lí thuyết tiếp nhận
giáo viên.
khoa học phù hợp hiệu quả đối với đặc điểm bài học.
Tiếp nhận từ nghệ thuật Xác định rõ tư tưởng, quan điểm, phong cách nghệ
đến nội dung.
thuật tác giả, giai đoạn văn học.
Chủ yếu nắm nội dung Tiếp nhận trên đặc trưng thể loại truyện ngắn (tình
của GV (thiên về truyền huống truyện, nhân vật, chi tiết…) vận dụng các lý
đạt nội dung). Chưa vận thuyết của vật lí và toán học để giải mã các đặc trưng
dụng lí thuyết của khoa thể loại, hướng dẫn HS tiếp nhận đúng văn bản.
học tự nhiên vào đọc Đề cao vai trò tiếp nhận của HS qua việc định hướng
hiểu.
của GV bằng phiếu học tập (phát huy chủ thể HS mà
Tiếp nhận chủ yếu từ phía vẫn trong sự định hướng của GV).
giáo viên ít đề cao vai trò Tương tác giữa các các HS và GV đưa ra kiến thức
tiếp nhận của học sinh.
cần đạt, xoay quanh trung tâm tiếp nhận là văn bản.
1.2. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học
7


Nội
dung
Tìm
hiểu
tiểu
dẫn


Trước khi có sáng
kiến
Nội dung: tác giả và
tác phẩm
Phương
pháp:
Thuyết trình, phát
vấn.

Sau khi có sáng kiến

Nội dung: Hướng dẫn tìm thông tin tác giả, chỉ ra vị trí
tác giả, tác phẩm trong sự nghiệp qua Graph.
Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn, chúng tôi sử
dụng tích hợp với kiến thức lịch sử văn hóa, cho HS
thảo luận, học theo sơ đồ tư duy (Graph), hướng dẫn tự
học qua sơ đồ, bảng biểu. Phát huy năng lực tìm thông
tin, tự học, năng lực giao tiếp, tự tin trình bày trước đám
đông.
Đọc Đọc, tóm tắt, bố cục Học sinh chuẩn bị bài qua phiếu học tập. Nắm vững
hiểu của vắn bản.
các đặc điểm thể loại truyện ngắn biểu hiện trong văn
khái
bản.
pháp: Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn, chúng tôi
quát Phương
Thuyết trình, phát tích hợp với kiến thức toán học, vật lí, cho HS thảo
vấn.
luận, sơ đồ tư duy (Graph), hướng dẫn tự học qua sơ đồ,

bảng biểu, tổ chức trò chơi theo nhóm… Phát huy năng
lực tìm thông tin, tự học, năng lực giao tiếp, tự tin trình
bày trước đám đông.
Đọc Phân tích văn bản Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng của thể loại truyện
hiểu theo 2 phần:
ngắn dưới góc nhìn của lý thuyết vật lí và toán học:
chi
Hai phát hiện của Đọc hiểu khái quát định hướng đọc hiểu chi tiết.
tiết Phùng.
Các nhân vật gia đình hàng chài – hiện thực cuộc sống.
Câu chuyện ở tòa án Các nhân vật trải nghiệm – quá trình nhận thức.
huyện.
Bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa – tuyên ngôn nghệ thuật.
Phương pháp:
Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn đọc hiểu văn
Thuyết trình, phát bản đi từ đặc trưng truyện ngắn đến nội dung, tích hợp
vấn. Đi từ nghệ với kiến thức vật lí, toán học, cho HS thảo luận, sơ đồ
thuật đến nội dung tư duy (Graph), hướng dẫn tự học qua sơ đồ, bảng biểu.
của văn bản.
Phát huy năng lực tìm thông tin, tự học, giao tiếp, tự tin
trình bày trước đám đông.
Luyện Câu hỏi tự luận, tái Đọc hiểu văn bản khác của Nguyễn Minh Châu hoặc
tập hiện kiến thức, thiên các truyện ngắn sau 1975 của tác giả khác bằng các câu
về ghi nhớ nội dung. hỏi nêu vấn đề vận dụng vào thực tế, câu hỏi tích hợp
kiến thức, câu hỏi kiến thức theo thể loại.
1.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
8


Phương diện

Trước khi có sáng kiến
Phần chuẩn HS đọc và soạn bài theo gợi
bị ở nhà
dẫn Sgk.
HS làm việc đơn lẻ chưa có
sự định hướng chi tiết của
GV.
Phần
thực Phương pháp vấn đáp và
hành tổ chức thuyết trình là chủ yếu.
tổ chức dạy Sử dụng CNTT chỉ để trình
học trên lớp
chiếu nội dung bài học.
HS chưa sử dụng kiến thức
liên môn, chưa có cơ hội
phát huy năng lực bản thân,
chưa chủ động tương tác
trên nội dung bài học.

Sau khi có sáng kiến
Chuẩn bị bài theo câu hỏi Sgk và
phiếu học tập của GV. Chia nhóm để
hình thành tương tác. Có thể sử dụng
kết nối mạng để trao đổi giữa HS với
GV và giữa HS với nhau.
Sử dụng đa dạng các phương pháp.
Thuyết trình vấn đáp thảo luận nhóm
và Graph cùng với kĩ thuật dạy học
hiện đại. Sử dụng kiến thức liên môn
(Lí, toán…).

HS thảo luận nhóm, tương tác, thuyết
trình sản phẩm và tạo lập sơ đồ tư
duy cho bài học
CNTT hỗ trợ dạy học, tạo sơ đồ hóa,
tạo liên kết các thành viên.
Phần
thực Chủ yếu kiểm tra ghi nhớ Vận dụng đọc hiểu các văn bản có đề
hành củng cố nội dung của HS.
tài, chủ đề nội dung tương tự. Tạo lập
và tự học sau Chưa đặt trong hệ thống tri văn bản, vận dụng kiến thức vào thực
bài học
thức và thực tiễn.
tiễn. Hs tiếp tục sơ đồ hóa bài học.
Từ bảng so sánh hai cách học khi chưa áp dụng đề tài và theo thực hiện theo đề tài
sáng kiến ở trên, chúng tôi thấy rằng ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là đã chuyển
từ hoạt động dạy sang học, học sinh chủ động tích cực từ chuẩn bị đến học và kiểm tra
đánh giá. Không những vậy, đơn vị kiến thức bài học đã được soi chiếu dưới đặc trưng
thể loại và các kiến thức của các môn khoa học khác đặc biệt là tự nhiên nên bản chất
khoa học của kiến thức được làm sáng rõ dễ tiếp nhận. Từ tiền đề đó, việc sử dụng sơ đồ
hóa Graph biến kiến thức trừu tượng trở nên cụ thể hàm súc cô đọng. HS dễ nhớ, dễ vận
dụng vào đọc hiểu văn bản khác cũng như giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống
làm thay đổi thực trạng dạy học thụ động Ngữ văn hiện nay. Với phương pháp này đã
phát huy được các năng lực phẩm chất người học, tích hợp các kiến thức phù hợp với yêu
cầu đổi mới phương pháp và tích hợp liên môn trong dạy học hiện nay.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Vận dụng lý thuyết vật lí và toán học vào
đọc hiểu văn bản truyện ngắn theo đặc trưng thể loại, thực nghiệm qua Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
2.1. Vận dụng lý thuyết vật lí và toán học vào đọc hiểu văn bản truyện ngắn theo
đặc trưng thể loại
9



2.1.1. Đặc trưng của thể loại truyện ngắn
Văn học là loại hình nghệ thuật có từ xa xưa gắn liền với sự ra đời và phát triển
của xã hội loài người. Khi có văn học thì thể loại văn học cũng được xác lập. Thể loại
văn học là cách thức con người chiếm lĩnh và biểu đạt, tái hiện miêu tả cuộc sống qua
lăng kính, quan niệm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Có những thể loại ra đời từ rất sớm
nhưng cũng có thể loại mới xuất hiện. Mỗi thể loại ra đời đều có số phận riêng của nó.
Truyện ngắn là thể loại mới. Nhưng trong nền văn học hiện đại, truyện ngắn có vị
trí đặc biệt quan trọng chiếm vị trí trung tâm của bất kì nền văn học của mỗi quốc gia.
Hầu hết các nhà văn lớn trên thế giới đều sáng tác cho mình những truyện ngắn trong sự
nghiệp cầm bút. Truyện ngắn trở thành thể loại chính trong sáng tác và nghiên cứu.
Truyện ngắn có xu hướng phản ánh, miêu tả đời sống trong những khoảnh khắc
tình thế có ý nghĩa. Cho nên truyện ngắn không chỉ chiếm vị trí độc tôn trong nền văn
học mà còn có sự đa dạng trong các tiểu loại. Các tiểu loại này hoặc là đi sâu phản ánh
một mặt nào đó của đời sống xã hội hoặc là thể hiện một cách chiếm lĩnh, miêu tả đời
sống. Chính điều này đã tạo cho truyện ngắn sức sống và vẻ đẹp hấp dẫn. Vì vậy nó cũng
tạo ra không ít khó khăn trong việc xác lập, nghiên cứu thể loại này.
Một mặt khác truyện ngắn là loại hình luôn so sánh đối chiếu với một thể loại gần
gũi với nó là tiểu thuyết. Và cả hai thể loại này chưa phân định rõ ràng về ranh giới, chưa
được quy chuẩn về thể loại. Nhưng dù thế nào đi nữa chúng ta cũng sẽ phải tìm ra
phương pháp và cách thức cơ bản nhất để tiếp cận truyện ngắn. Vận dụng tư tưởng và lí
luận của Bakhtin về thể loại “Thể loại như một loại hình nghệ thuật, chỉnh thể nghệ
thuật, hệ thống nghệ thuật” để chúng ta xác lập cấu trúc của văn bản tự sự nói chung
và của truyện ngắn nói riêng. Mỗi văn bản tự sự đều có ba phương diện cơ bản:
1. Sự kiện, biến cố được nói đến trong văn bản;
2. Sự kể lại sự kiện bằng ngôn từ;
3. Mối tương quan giữa sự kiện và sự kể.
Từ cấu trúc đó ta sẽ so sánh với thể loại tiểu thuyết – thể loại gần gũi nhất với
truyện ngắn để tìm ra đặc trưng khu biệt của truyện ngắn.

2.1.1.1. Sự kiện, biến cố trong văn bản - Tình huống, chi tiết và nhân vật
Nói đến loại hình tự sự, trước hết là ta phải tìm hiểu nghiên cứu sự kiện, biến cố
được đề cập đến trong văn bản. Đây chính là thế giới thứ 2, thế giới được phản ánh, thế
giới ý niệm, hư cấu mà tác giả tạo ra để phản ánh và chiếm lĩnh thế giới thứ 1, thế giới
thực của đời sống. Bằng sự tưởng và hư cấu của mình trên nền hiện thực tác giả thể hiện
quan niệm của mình về thế giới qua việc dụng công xây dựng nên các nhân vật mang các
sự kiện. Nhân vật mang sự kiện được đặt trong những không gian và thời gian xác định
qua lời kể sẽ tạo thành dòng chảy tác phẩm, tạo thành cốt truyện.
10


Cả tiểu thuyết và truyện ngắn đều chứa các sự kiện biến cố vì thế nhiều người
thường dựa vào dung lượng để phân biệt tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhưng đây chỉ là
cách phân loại cơ học mang tính bên ngoài, bởi vì có một số truyện ngắn lại rất dài về
dung lượng đôi khi dài hơn dung lượng văn bản của một tiểu thuyết (mà người ta gọi là
tiểu thuyết mini) vẫn được xếp vào thể loại truyện ngắn. Vậy dựa vào đâu mà gọi tên
đúng thể loại? Ta chỉ dựa vào cách sử dụng sự kiện và biến cố cũng như giá trị của nó
trong tạo dựng văn bản để mà phân loại. Đối với tiểu thuyết, sự kiện biến cố trong thế
giới hư cấu được kể là hiện thực chưa hoàn tất. Sự kiện tiểu thuyết là một chuỗi các sự
kiện có quan hệ với nhau như dòng chảy lịch sử khó xác định điểm khởi đầu và kết thúc.
Vì thế, tiểu thuyết có xu hướng phản ánh thế giới một cách bao quát, tổng thể, rộng lớn
khái quát nhất. Khởi đầu ẩn khuất ở nơi xa xăm, nơi cội nguồn cộng đồng dòng tộc.
Tương lai của hiện tại thì chưa xác lập. Sự kiện tiểu thuyết xảy ra tại thời điểm hiện tại
của một cái gì tiếp nối, đã xảy ra trong quá khứ và chuẩn bị cho một cái gì nảy sinh phát
triển trong tương lai. Nhưng ta chưa ý thức được. Nhân vật tiểu thuyết sống trong nội tại
của lịch sử, của hiện tại chưa được hoàn tất. Nhân vật không biết điều gì xảy ra với mình.
Ngay cả bản thân họ chưa xác định được mình là ai. Họ luôn mâu thuẫn với chính họ,
không trùng khớp với họ trong cả suy nghĩ hành động và mục đích.
Đối với truyện ngắn thì sự kiện biến cố hoàn toàn khác. Sự kiện biến cố trong
truyện ngắn lại đã hoàn tất, gắn liền với những khoảnh khắc thực tại. Điều đó có nghĩa là

người kể chuyện thường đang đứng tại đó quan sát và kể trực tiếp. Sự kiện và biến cố
trong truyện ngắn chỉ có một hoặc nhiều nhất là vài sự kiện biến cố chính có ý nghĩa
nhất. Nó không là dòng chảy như tiểu thuyết mà là những khúc quanh, con đập, lát cắt
của dòng chảy đó. Nó phản ánh thế giới qua một điểm then chốt tạo nên sự bùng nổ vỡ
òa của ý nghĩa và nội dung. Các sự kiện biến cố đó người ta gọi là tình huống truyện.
Vì thế, với đặc trưng quan trọng này, nhiều nhà nghiên cứu phê bình và cả những
tác giả chuyên sâu viết truyện ngắn đã định nghĩa về truyện ngắn xoay quanh tình huống
truyện: Truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống (Tô Hoài); Nếu tiểu thuyết là một
đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt của dòng đời (Nguyễn Minh
Châu); Truyện ngắn là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng không được dài
(T.Capote); Truyện ngắn là viết ngắn và trong đó cái không bình thường hiện ra như một
cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường
(K.Pautopxki)… Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn đã nỗ lực đưa ra hai bình diện
chính để xác nhận thể loại truyện ngắn: “Theo tôi việc phân định có thể dựa vào hai tiêu
chí chính là dung lượng và thi pháp. Giữa hai tiêu chí "dung lượng" là cần nhưng phụ và
thứ yếu còn "thi pháp"mới là đủ là chính là chủ yếu.”. Về dung lượng, truyện ngắn được
xem là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ (tình tiết, nhân vật không nhiều số trang không dài). Về thi
11


pháp, mỗi truyện ngắn bao giờ cũng được xây dựng trên một tình huống. Đó là cấu trúc
hạt nhân của thể loại này. Trong hai tiêu chí thì dung lượng không phải là tiêu chí cơ bản
(bởi có những truyện ngắn nhưng không ngắn) mà thi pháp mới là yếu tố giúp phân biệt
truyện ngắn với các thể tự sự khác. Trên cơ sở đưa ra, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã chỉ
ra cốt lõi của mỗi truyện ngắn nằm ở tình huống truyện. Từ đó, nhà phê bình đưa ra
định nghĩa khác về truyện ngắn: “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung
thường chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ chốt nào đó.”
Vì thế nghiên cứu một truyện ngắn, chúng ta phải quan tâm đầu tiên là tình huống
truyện. Tình huống truyện là “cái tình thế nảy ra truyện”, là “lát cắt” của đời sống mà
qua đó có thể thấy được cả trăm năm của đời thảo mộc, là “một khoảnh khắc mà trong

đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm chí
cả một đời nhân loại”. Chính tình huống đã chứ đựng cái nghịch lí, cái hàm súc của
truyện ngắn: qua cái ngắn mà thấy được cái dài, qua một khoảnh khắc ngắn ngủi mà thấy
được diện mạo toàn thể. Nghĩa là tính đặc biệt điển hình của cái tình thế cuộc sống chứa
đựng trong đó. Vì thế Nguyễn Minh Châu, một cây bút bậc thầy truyện ngắn có nói đến
một khái niệm tình thế. Nghĩa là một khoảnh khắc nào đó của đời sống mà ở đó một mối
quan hệ (con người với con người, hoặc con người với ngoại vật) bị đẩy đến trước một
tương quan, hoàn cảnh éo le. Ông gọi là cái tình thế nảy ra truyện.
Tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa là nó quyết định
đến sự sống còn của một truyện ngắn. Nếu quá nhiều tình huống, nối dài nhau sẽ thành
truyện dài, tiểu thuyết. Nếu mất tình huống truyện ngắn có thể thành tản văn, thành tuỳ
bút, thành thơ văn xuôi, thành kí, nghĩa là thành gì gì khác… chứ quyết không thể còn là
truyện ngắn. Mất tình huống tức là mất tính cách truyện ngắn. Trên cơ sở nghiên cứu về
tình huống, các nhà nghiên cứu đã phân loại tình huống theo các tiêu chí khác nhau. Nếu
xét về tính chất, có thể chia truyện ngắn thành ba dạng chính: Tình huống hành động là
loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có
thể giải quyết bằng hành động; Tình huống tâm trạng là sự kiện đặc biệt của đời sống mà
ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới cảm
xúc, tình cảm; Tình huống nhận thức là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật
được đẩy tới một tình thế bất thường - đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một
vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Xét trên tiêu chí về số
lượng tình huống, ta chia truyện ngắn hai loại : Truyện một tình huống là truyện ngắn chỉ
xoay quanh có một tình huống duy nhất bao trùm (đây là loại truyện ngắn điển hình);
Truyện ngắn nhiều tình huống là truyện được dệt từ nhiều tình huống. Tuy nhiên, trong
đó, chúng cũng phân vai thành chính - phụ (nghĩa là có cái nào đó là chủ chốt) chứ không
phải tất cả đều ngang hàng nhau, theo lối dàn đều (Đây là dạng truyện ngắn không thật
12


điển hình. Chúng thường có dáng dấp của một truyện dài thu nhỏ, hơn là một truyện ngắn

thực thụ). Từ cách phân loại này, chúng ta cần phải lưu ý rằng mọi sự phân loại này là
tương đối. Trong thực tế các dạng ấy đều ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn toàn
thuần chủng như mô tả. Việc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó.
Tình huống truyện đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn, cánh cửa mở ra những
giá trị nội dung – tư tưởng của tác phẩm. Để làm nên tình huống truyện, một yêu cầu
không thể thiếu là việc xây dựng hệ thống các chi tiết nghệ thuật - Các tiểu tiết của tác
phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Trong truyện ngắn không có chi tiết
thừa bởi các chi tiết đều đã được chọn lọc rất khắt khe trong quá trình sáng tác để làm
đường dẫn, hướng tới làm bùng nổ của điểm nút tình huống truyện. Bên cạnh đó, số
lượng các chi tiết trong truyện ngắn thường rất ít, được hạn chế đến mức tối đa. So với
thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn không có một hệ thống chi tiết dày đặc, bề thế, đa dạng,
phong phú. Vì thế những chi tiết được đưa vào truyện ngắn thường giàu sức biểu hiện và
có giá trị nghệ thuật rất cao. Từng chi tiết nghệ thuật đã được tuyển chọn đều có vị trí bất
khả thay thế. Các chi tiết trong truyện ngắn không thiên về phô diễn, trình bày. Trái lại,
truyện ngắn chỉ cần thông qua một khoảnh khắc, một thời điểm mang tính sự kiện trong
tác phẩm để thể hiện mọi vấn đề nhân sinh. Vì vậy, từng chi tiết trong truyện ngắn có sự
dồn nén các tầng ý nghĩa. Đây chính là cơ sở để tạo nên khả năng bùng nổ cho thể loại
truyện ngắn mà không thể loại nào đạt tới.“Một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, điều
này thật đúng với thể loại truyện ngắn. Chỉ bằng một vài chi tiết trong tác phẩm, chúng
đã tạo dựng phong cách sáng tác, cá tính sáng tạo và tài năng của chính tác giả cũng như
giá trị của tác phẩm.
Vậy nhân tố nào sẽ là đối tượng mang, gánh vác trên vai các chi tiết, sự kiện và
tình huống? Câu trả lời thật đơn giản - nhân vật. Và cũng từ quy luật tất yếu của mọi lĩnh
vực trong cuộc sống, văn học dù là ngành nghệ thuật nó cũng phải nghiên cứu và biểu
hiện những gì có liên quan đến con người - “Văn học là nhân học” (M.Gorki). Tuy
nhiên, nhân vật không phải là con người sinh học bằng xương, bằng thịt mà chỉ là “những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả” (G.N.Pôspêlôv), là
những hình mẫu về con người, được ra đời dựa trên những điều thực tế nhất về con người
kết hợp với trí tưởng tượng và óc sáng tạo của nhà văn.
Trong mỗi thể loại văn học khác nhau, hình tượng nhân vật sẽ mang những đặc

điểm riêng khác nhau. Nhân vật trữ tình là nhân vật đặc trưng trong thể loại thơ. Trong
thế giới của thơ, nhân vật thường được giảm lược các thông tin về bản thân như nguồn
gốc, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống… Điều duy nhất nổi bật ở kiểu nhân vật trữ tình là
cảm xúc, là thế giới nội tâm, tư tưởng tinh thần với những biểu hiện tình cảm phong phú.
Trái lại, các tác phẩm tự sự lại nghiêng hẳn về việc tái hiện cuộc đời, số phận nhân vật
13


trong hiện thực phong phú của cuộc sống, đôi khi đến trần trụi. Trong tự sự ở mỗi thể loại
nhỏ, ngoài nét chung trên, nhân vật còn có nét riêng biệt, khu biệt mang đặc trưng của thể
loại nhất định. Với tiểu thuyết, đó là hệ thống nhân vật dày đặc với toàn bộ những diễn
biến phức tạp về cuộc đời, số phận trong trạng thái vận động liên tục của các sự kiện tạo
nên dòng chảy của số phận và cuộc sống. Ngoài những nhân vật chính tiểu thuyết còn cả
hệ thống dày đặc các nhân vật phụ trong mối tương quan phức tạp với nhân vật chính.
Còn với truyện ngắn, hệ thống nhân vật thường rất ít. Tác phẩm chỉ lựa chọn một hoặc
một vài nhân vật tiêu biểu để tái hiện và nhân vật phụ xuất hiện rất ít và số lượng không
đáng kể. Truyện ngắn chỉ chớp lấy một khoảnh khắc có ý nghĩa nhất để tái hiện cuộc đời
nhân vật qua một thời điểm, một khoảnh khắc, một giai đoạn, thậm chí một vài ngày
ngắn ngủi, nếu có đề cập đến toàn bộ cuộc đời nhân vật thì nhiều phần đời của nhân vật
sẽ bị lược bỏ, chỉ được kể lại vắn tắt chỉ tập trung vào các khoảnh khắc quan trọng mà
thôi. Nhà văn chủ yếu chỉ khai thác cuộc đời nhân vật trong một, hai thời điểm có tính sự
kiện nhất gắn liền với sự bùng nổ sự kiện, của tình huống truyện. Vì vậy, có thể nói
truyện ngắn phản ánh số phận nhân vật qua một lát cắt cuộc đời trong mối quan hệ nhất
định với các nhân vật khác để góp phần làm cho chủ đề tư tưởng của truyện ngắn được
thể hiện một cách ngắn gọn, súc tích. Với một vài gương mặt ấy, người đọc có thể cảm
nhận được mọi trạng huống cuộc đời một cách sắc nét với từng biến đổi mà chỉ qua một
vài khoảnh khắc. Điều này làm nên tính biểu cảm cao cho từng truyện ngắn.
Nhân vật và chuỗi các chi tiết sự kiện sẽ tạo nên cốt truyện. Trong đó cốt truyện sẽ
xoay quanh và quy tụ ở tình huống truyện. Đây là yếu tố đầu tiên để chúng ta đọc hiểu
giả mã, tiếp nhận một truyện ngắn.

2.1.1.2. Sự kể lại sự kiện – Nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ.
Một đặc trưng cơ bản của tự sự là sự kể hay có người còn gọi là trần thuật. Đây
chính là hoạt động giao tiếp ở thế giới thực tại của tác giả và độc giả khi mà văn bản
được đọc lại, kể lại. Tác giả bằng ngôn ngữ, sự tổ chức ngôn từ của mình sẽ kể, trần thuật
tái hiện miêu tả lại các sự kiện và biến cố được đề cập trong tác phẩm cho người đọc tiếp
nhận. Sự kể bao gồm người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ và cả sự sắp xếp trình tự trật
sự kể các sự kiện gắn với nhân vật… trong những không gian thời gian xác định. Sự kể
sẽ được sống lại qua sự tương tác, tiếp nhận của độc giả.
Nhân tố đầu tiên không thể bỏ qua của sự kể là nghệ thuật trần thuật. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên
thì: “Trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới
thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo
cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc
miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi
14


chú của tác giả…”. Nếu như tiểu thuyết phản ánh rộng lớn cuốc sống, thể hiện hành trình
quá trình vận động, phát triển cuộc đời, sự nghiệp, số phận của nhân vật vì thế nó sẽ chọn
lối trần thuật dài hơi, bao quát mở rộng các phạm vi không gian và kéo dài thời gian. Thì
trong truyện ngắn, do chọn một khoảnh khắc của cuộc đời, của tình thế quan trọng, trần
thuật thường chỉ tập trung kể về một thời điểm, một giai đoạn nhất định của một hay một
vài cá nhân trong giới hạn không gian hẹp hạn chế về số lượng. Chính nhờ các tín hiệu
không gian và thời gian nén cô đọng mà trần thuật của truyện ngắn có những nét riêng
của nó. Vì vậy, đặc trưng của truyện ngắn là tạo lối trần thuật ngắn. Trần thuật ngắn ở đây
không hoàn toàn chỉ dừng lại ở việc kể ít. Đó có thể là sự dồn nén sự kiện trong một
không gian, thời gian nhất định.
Nhắc đến trần thuật, không thể không nhắc đến người trần thuật và điểm nhìn trần
thuật. Ở phương diện đề tài này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu người kể
chuyện một biểu hiện đa dạng của người trần thuật. Theo quan niệm của giáo sư

Tamarchenko, cũng như người trần thuật - là chủ thể lời nói và là người đại diện cho
điểm nhìn trong tác phẩm văn học; nhưng người kể chuyện lại khác với người trần thuật,
được khách quan hóa và được tách biệt rõ rệt với tác giả cả về mặt không gian, lẫn bình
diện tu từ; mà cụ thể là, nó được gắn với một hoàn cảnh văn hóa - xã hội và ngôn ngữ cụ
thể để từ vị thế ấy nó mô tả các nhân vật khác. Khác hẳn với người trần thuật, người kể
chuyện không đứng ở đường biên giữa thế giới hư cấu với thực tại của tác giả và độc giả,
mà hoàn toàn đứng bên trong hiện thực được mô tả: câu chuyện của nó được nhắm một
cách ước lệ tới người nghe hiện diện trong hiện thực ấy. Theo đó, người kể chuyện sẽ cụ
thể hóa thành ngôi kể. Với ngôi kể thứ ba, người kể chuyện sẽ không có mặt trong thế
giới hư cấu của sự kiện nhân vật và nó trở thành vắng mặt giấu mặt trong thực tại kể. Với
ngôi kể này sẽ giúp chúng ta hình dung hơn về một người kể chuyện vắng mặt nhưng có
sức mạnh quyền năng đối với số phận nhân vật và sự kiện trong thế giới hư cấu đem đến
cái nhìn bên ngoài của thực tại câu chuyện kể. Khi đó người kể chuyện sẽ trùng khít với
người trần thuật. Bên cạnh, người kể chuyện ngôi thứ ba, nằm ngoài thực tại hư cấu,
vắng mặt giấu mặt trong thực tại kể, thì người kể chuyện sẽ có thể trở thành nhân vật
người kể chuyện - cái vị thế nằm phía bên trong các ranh giới của tác phẩm (thế giới hư
cấu của sự kiện được kể) biến người đọc đứng ngoài tác phẩm phải chiếm lĩnh. Người kể
chuyện là nhân vật trong chính câu chuyện của anh ta vì thế đem đến cái nhìn bên trong
đôi khi nó sẽ khiến câu chuyện hư cấu trở thành sự thật đang hiện hữu qua sự kể. Với
nhân vật người kể chuyện, sẽ có thể là ngôi thứ nhất, khi đó chính nhân vật kể chuyện
hoàn toàn không biết mình đang kể chuyện cho ai nghe, mặc dù không thể hoài nghi sự
hiện diện của người nghe ước lệ này trong hiện thực được mô tả (thế giới sự kể, thực tại).
Với nhân vật người kể chuyện, sẽ có thể là ngôi thứ hai, khi đó chính nhân vật kể chuyện
15


hoàn toàn biết mình đang kể chuyện cho ai nghe, thêm vào đó, ở đây, người nghe được
mô tả cụ thể, hiện hữu với người kể. Trong các trường hợp nhân vật người kể chuyện,
những yếu tố cơ bản của “chính sự kiện kể chuyện” sẽ trở thành đối tượng mô tả, thành
các “sự thật” của hiện thực hư cấu. Họ đang kể câu chuyện về họ, hoặc chí ít cũng có một

nhãn quan đặc biệt, nhưng tuyệt nhiên không bao trùm tất cả, mang sức mạnh quyền
năng biết hết như ở ngôi kể thứ ba.
Trong hai nhóm người kể chuyện trên, chúng ta có một nhóm trung gian của người
kể chuyện. Nếu không ai có thể nhìn thấy người trần thuật bên trong thế giới thực tại sự
kể được mô tả và không ai giả định về sự tồn tại của họ, thì người kể chuyện trong trường
hợp câu chuyện được lồng thêm vào, – sẽ nhập vào tầm nhìn hoặc là của người trần thuật
hoặc là của các nhân vật. Nhân vật kể chuyện càng gần với tác giả thì càng ít có sự khác
biệt trong ngôn ngữ giữa họ và người trần thuật. Vị thế “trung gian” của người trần thuật
trước hết giúp người đọc tìm thấy sự trình bày khách quan, đáng tin cậy về các sự kiện và
hành vi, cũng như sự trình bày chủ quan bên trong đời sống nội tâm của các nhân vật. Vị
thế “trung gian” của người kể chuyện lại cho phép thâm nhập vào bên trong thế giới được
mô tả và quan sát các sự kiện bằng cái nhìn của các nhân vật. Vị thế “trung gian” của
người trần thuật gắn với các ưu thế nào đó của điểm nhìn bên ngoài. Như vậy tác giả
-người sáng tác tạo ra sự cân bằng điểm nhìn bên ngoài với bên trong, hình tượng người
kể chuyện và câu chuyện của nó sẽ trở thành “cầu nối”, hoặc mắt xích nối kết hai thế giới
sự kể và sự kiện. Điều này sẽ được chúng tôi làm sáng rõ ở phần mối tương quan giữa
thực tại kể và thực tại hư cấu sự kiện. Trong truyện ngắn có đủ cả ba nhóm người kể
chuyện này.
Như đã đề cập ở trên, người kể chuyện sẽ gắn liền với điểm nhìn trần thuật. Trong
truyện ngắn, điểm nhìn trần thuật có thể là trong ngoài hay trung gian dịch chuyển do
ngôi kể quyết định nhưng nó có một điểm quy tụ là thường gắn liền với những khoảnh
khắc thực tại. Điều đó có nghĩa là người kể chuyện thường quan sát và kể trực tiếp những
điều “mắt thấy tai nghe” cho người đọc. Bởi vậy, truyện ngắn là thể loại của thì hiện tại.
Đó là thể loại của những câu chuyện bắt đầu và kết thúc ở ngay thời điểm hiện tại so với
thời điểm được kể. Truyện không đem lại cảm giác các tình tiết, sự kiện đã diễn ra, chỉ
được kể lại. Trái lại, nó tạo cảm giác như người đọc đang được chứng kiến ngay trước
mắt mọi diễn tiến của câu chuyện. Điều này rất khác so với lối trần thuật trong sử thi. Sử
thi luôn đem lại cảm giác câu chuyện được kể là ánh hào quang vọng về từ hồi ức, ký ức.
Với các truyện có dung lượng ngắn trong văn học trung đại, nền văn học tôn sùng quá
khứ, câu chuyện được kể cũng thường mang màu sắc cổ xưa. Như vậy, luôn đặt điểm

nhìn ở thì hiện tại chính là một điểm làm nên tính hiện đại cho truyện ngắn thế kỉ XX.
16


Điều này sẽ được chúng tôi làm sáng rõ ở phần mối tương quan giữa thực tại kể và thực
tại hư cấu sự kiện.
Một điểm đáng quan tâm của sự kể, trần thuật phải nói đến nữa chính là ngôn ngữ
của tự sự. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những chất liệu hình thành nên đặc
trưng văn học thì bản thân nó cũng là phương tiện làm nên những sắc thái khác nhau cho
chiếc áo thể loại. Vì vậy, khi xuất hiện trong truyện ngắn, ngôn ngữ nghệ thuật cũng phải
mang những nét riêng, đặc trưng cho thể loại. Trước hết xét trong mối quan hệ với sự
kiện hay hiện thực và tình huống được đề cập đến, do lối trần thuật ở thì hiện tại nên
ngôn ngữ trong truyện ngắn cũng phải hướng về hiện tại. Cái hiện tại đang diễn ra tức
thời ngay trước mắt. Điều đó có nghĩa là ngôn ngữ trong truyện ngắn thường có tính chất
hiện đại, bắt kịp với thời đại mà nó ra đời. Tính chất thứ hai của ngôn ngữ nghệ thuật
trong truyện ngắn là tính bám sát vào hiện thực cuộc sống. Điều đó có nghĩa là ngôn ngữ
trong truyện ngắn có tính thực tế sâu sắc, chân thực, đời thường đến từng chi tiết vụn vặt,
nhỏ nhặt trong cuộc sống. Đó không còn là thứ ngôn ngữ được cách điệu, ước lệ, tượng
trưng hay lối diễn đạt theo những khuôn mẫu, công thức nữa mà là những ngôn ngữ sống
động, thậm chí trần trụi như chính cuộc đời, linh hoạt, gần gũi hơn với lối suy nghĩ, cách
diễn đạt của bạn đọc đương thời. Tính chất thứ ba có thể kể đến trong ngôn ngữ của
truyện ngắn chính là tính hàm súc, cô đọng. Truyện ngắn, bởi ngắn về dung lượng nên số
lượng ngôn ngữ cũng bị hạn chế. Tuy bị hạn chế nhưng mỗi con chữ đều mang trong
mình sức nặng của những vỉa tầng ý nghĩa đã được nhà văn mã hóa. Có thể nói trong
hành trình sáng tạo của mình, nhà văn đã giao phó cho từng con chữ trong truyện ngắn
những sứ mệnh trọng đại và thiêng liêng khiến nó ít có thể thay thế được. Bởi tầm quan
trọng ấy nên khi phân tích truyện ngắn cũng như phân tích một tác phẩm thơ, chúng ta
nhất thiết phải chú trọng đến cách dụng từ của nhà văn như là một trong những phương
tiện hỗ trợ đắc lực cho người nghiên cứu trong hành trình giải mã tác phẩm và nắm bắt
phong cách tác giả.

Nếu xét trong mối quan hệ với sự kể hay điểm nhìn của người kể chuyện, truyện
ngắn có phong cách ngôn ngữ khá gần với tiểu thuyết. Truyện ngắn có nhiều phong cách
ngôn từ nhiều giọng điệu do chính điểm nhìn, người kể chuyện chi phối. Do nhiều điểm
nhìn và nhiều quan điểm đánh giá với sự kiện mà ngôn ngữ cũng phải thích ứng như vậy.
Mỗi một nhân vật sẽ có hệ thống ngôn từ, điểm nhìn và quan điểm ý thức riêng. Điểm
nhìn và ngôn ngữ của người kể chuyện chỉ là một trong biểu hiện của thế giới ngôn ngữ
đa dạng của truyện ngắn. Phong cách ngôn từ của truyện ngắn có thể là đơn thanh nhưng
nhiều hơn cả vẫn là đa giọng đa, thanh. Ngôn từ truyện ngắn là phức điệu, đa giọng, đa
thanh. Điều này được biểu hiện ở các kiểu dạng ngôn ngữ khác nhau có mặt trong tác
phẩm: Ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ nước ngoài, ngôn ngữ nhân vật, người kể
17


chuyện…Tất cả đa dạng và phong phú. Sự đa giọng có ngay ở ngôn ngữ nhân vật. Lời
của nhân vật đã bao hàm “lời người khác”. Phát ngôn của nhân vật vừa là lời, giọng điệu,
ý thức của anh ta lại vừa là sự mượn lời với giọng điệu và ý thức của người khác. Sự
mượn lời này có thể là đồng tình hoặc cũng có thể là giễu nhại. Bakhtin gọi đây là “lời
hai giọng”. Một lời nói mà có hai giọng điệu, hai ý thức. Một giọng là quyền uy như lời
của người xưa, lời của người trần thuật – người kể chuyện vắng mặt quyền uy, với sự bắt
buộc người tiếp nhận phải đồng tình không được phản đối. Một giọng là lời nói của nhân
vật, của cuộc sống có thể chấp nhận hoặc không là tùy thuộc vào bạn đọc. Tổ chức ngôn
từ trong truyện ngắn càng hiện đại gần với thời điểm bây giờ có thể là sự kết hợp của: lời
quyền uy với lời người khác của nhân vật hoặc cũng có thể là lời người kể chuyện với lời
nhân vật. Hai giọng điệu mâu thuẫn với một giọng điệu tạo ra sự cân bằng mà tâm ở
chính giữa sự mâu thuẫn đó. Lời độc điệu với lời đa điệu tạo nên tính phức điệu của ngôn
ngữ truyện ngắn hiện đại. Chính nó tạo nên tính chất đối thoại dân chủ, đa chiều cho một
truyện ngắn hiện đại. Nghiên cứu truyện ngắn không thể bỏ qua sự tổ chức ngôn từ này.
2.1.1.3. Tương quan giữa sự kiện và sự kể - Đối thoại dân chủ thời sự
Theo cấu trúc của văn bản văn học với hai thế giới: Thực tại và hư cấu, vậy thì
chúng có mối quan hệ tương quan như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó chúng ta sẽ

thấy được sự vận động và phát triển của các thể loại tự sự. Đây chính là tương quan của
ranh giới giữa thế giới hư cấu và thế giới thực tại. Trong thế giới sự kiện chỉ có nhân vật
tồn tại. Trong thế giới sự kể chỉ có tác giả (người kể), độc giả tồn tại. Trong thế giới hư
cấu không có mặt tác giả độc giả chỉ có nhân vật mang sự kiện trong thời gian không
gian xác định do chính tác giả xây dựng lên. Bước ra ngoài thế giới hư cấu đó nhân vật sẽ
chết. Và ngược lại trong thế giới thực tại của sự kể không có mặt của nhân vật. Tác giả và
độc giả đang tương tác qua văn bản ngôn từ của tác giả. Độc giả quan sát nhân vật qua
chính ranh giới của nhân vật. Nhân vật không biết được số phận của mình sẽ ra sao. Chỉ
có tác giả mới biết được điều đó. Qua tác giả người tiếp nhận biết được số phận của các
nhân vật.
Người nghe, người kể trong thế giới thực tại sử thi có khoảng cách rõ ràng với
nhân vật, với sự kiện trong thế giới hư cấu. Đó là khoảng cách sử thi. Sự kiện sử thi là
các sự kiện lớn lao phi thường đã hoàn tất trong quá khứ, xa lạ hoàn toàn với thực tại.
Nhân vật sử thi là bán thần làm nên các sự kiện phi thường. Người kể chuyện sử thi ca
ngợi tôn vinh nhân vật thành lí tưởng để người nghe phải cung kính soi mình hướng mình
vào đó. Họ không thấy được bóng dáng nhân vật ở đời sống hiện tại.
Truyện ngắn lại trái ngược hoàn toàn với sử thi. Ranh giới giữa hai thế giới đó
chưa được xác định rõ ràng. Tác giả và đặc biệt là độc giả có thể giao tiếp gần gũi với
nhân vật và sự kiện của tiểu thuyết. Sự kiện là những gì của đời sống đang diễn ra nên
18


người đọc dễ dàng tiếp cận. Nhân vật mang những mâu thuẫn nội tại của đời sống nên
chúng ta, bạn đọc thấy cả dáng dấp của mình ở nhân vật. Thế giới hư cấu của truyện ngắn
mang hơi thở của thế giới thực tại vì thế bạn đọc với nhân vật, người kể chuyện có thể
như đang nói chuyện giao tiếp trực tiếp với nhau về chính những vấn đề thường nhật của
đời sống bình đẳng và dân chủ. Càng hiện đại tính chất này của truyện ngắn càng thể
hiện rõ nét. Truyện ngắn và tiểu thuyết nói chung có sự giao tiếp gần gũi giữa nhân vật
với tác giả, độc giả - có sự giao tiếp gần như tuyệt đối giữa hai thế giới đó. Nhân vật và
độc giả, tác giả là người cùng thời, đương thời. Họ cùng sống với các sự kiện đang diễn

ra của hiện tại chưa hoàn tất. Người đọc có thể hình dung nhân vật đang ở cạnh mình,
đang sống cùng mình và đặc biệt thấy được cuộc sống của mình đang được miêu tả. Vì
thế người đọc vừa có vị thế điểm nhìn bên trong như đang sống cùng nhân vật lại vừa có
vị thế điểm nhìn bên ngoài hình dung cuộc sống đang được miêu tả như một chỉnh thể
trong tác phẩm.
Tính chất đối thoại bình đẳng và dân chủ giữa bạn đọc với tác giả, với người kể
chuyện và nhân vật đều có trong truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhưng ở truyện ngắn có
điểm khác biệt với tiểu thuyết lại là ở tính thời sự, ngắn nhanh do dung lượng và tình
huống truyện quy định. Ở chính khoảnh khắc của nhân vật gắn với sự kiện sẽ chính là
khoảnh khắc của bạn đọc. Truyện ngắn, giống như Nguyễn Khánh Phương đã ví: giống
như việc “Nhân loại gặp nhau trong một chén trà”. Mọi góc cạnh của cuộc sống nhân
sinh biến ảo đều chỉ được kể ngắn gọn trong “một chén trà”. Sự va chạm của mọi vấn đề
phức tạp, phong phú, thậm chí gai góc của cuộc đời đều được phơi bày ra chỉ qua một
khoảnh khắc va chạm. Nó nhanh và tức thì mà mỗi chủ thể của khoảnh khắc đó lại có
những điểm nhìn và quan điểm riêng có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất. Có được
đặc trưng này của truyện ngắn là do lối trần thuật trong truyện ngắn thường có kiểu kết
thúc đột ngột, nhanh và bất ngờ. Đó là kết thúc không được báo trước, khó có thể dự
đoán. Truyện kết thúc như những điều thường nhật vẫn xảy ra trong cuộc sống. Đó chính
là tính chất báo chí, thời sự của nó. Mỗi truyện ngắn đều có khả năng cung cấp cho người
đọc những cái nhìn hiện thực và sát sườn nhất về thời đại của mình. Tuy nhiên, cần phân
biệt tính báo chí, thời sự của truyện ngắn với môi trường báo chí. Truyện ngắn không
phải là cách đưa tin đơn thuần, “giật gân” hay mang tính thông báo về “chuyện lạ đó
đây”. Trái lại, truyện ngắn có cách thức riêng để tạo nên sức hút thể loại cho chính mình.
X.Antonop đã từng nhận xét về truyện ngắn: “Một trong những lý do để nhiều thế kỷ
qua, truyện ngắn trở thành một trong những thể loại có ý nghĩa phổ cập nhất: đó là sự
kết hợp giữa yếu tố năng động, khả năng nhạy bén với một cái nhìn rất mới đối với cuộc
sống”. Chính đặc điểm tạo dựng được những yếu tố mới lạ đã giúp thể loại truyện ngắn
hiện đại tạo được sức hút mạnh mẽ đối với lớp công chúng mới hình thành lúc bấy giờ.
19



Các yếu tố mới lạ đó là sự xâu chuỗi cái đời thường và những cái lớn lao thành một cấu
trúc nghệ thuật hoàn chỉnh đặc biệt ngắn gọn, cô đọng của truyện ngắn khiến cho cái cụ
thể và cái trừu tượng, cái cá biệt và cái điển hình ở truyện ngắn khác hẳn tiểu thuyết: nó
hòa vào nhau và dường như là một để tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ ở người đọc khiến
họ phải đọc liền một mạch. Người ta đọc truyện ngắn mỗi lúc, nhanh chóng như đọc tin
tức một tờ báo hàng ngày. Nó hợp với thời đại công nghiệp và công nghệ. Vì thế bản thân
truyện ngắn đã phải mang cái tính thời sự trong chính nó.
2.1.2. Tiếp cận đặc trưng thể loại truyện ngắn từ lí thuyết của vật lí và toán học.
Một điều mà chúng ta dễ nhận ra, hầu hết các nhà triết học phương Tây, đặc biệt ở
kỉ nguyên của triết học ánh sáng đều là các nhà khoa học tự nhiên. Chính điều này mà
triết học và văn học phương Tây mang tính duy lí rất cao. Lí luận văn học được các nhà
nghiên cứu gọi là triết học của văn học. Vậy chúng ta có thể dùng ánh sáng của khoa học
tự nhiên để làm cho lí luận trong văn học trở nên rõ ràng, dễ tiếp cận hay không? Văn
học về bản chất sáng tạo mang dấu ấn chủ quan, cảm xúc, tình cảm của con người nên
chúng thường đa dạng trừu tượng. Cùng một hiện thực mà ở mỗi cảm quan nghệ sĩ khác
nhau sẽ tạo nên giá trị và phong cách khác nhau như màu trắng của ánh sáng sẽ được
biến thành vô vàn màu sắc khác nhau khó phân định được của quang phổ khi qua lăng
kính. Vì vậy văn học sẽ là đa nghĩa, đa dạng và mơ hồ cho những điểm quy tụ. Nhưng
khi chúng ta soi chiếu văn học dưới khoa học của chính thể loại, bản chất của văn chương
và đặc biệt là dưới ánh sáng của khoa học tự nhiên ta lại thấy văn học vừa có những điểm
đồng tâm mang tính quy luật lại vừa sinh động đa dạng hấp dẫn. Nó là khoa học logic
khách quan theo các quy luật của lí tính, đồng thời lại là màu sắc cảm tính của những cá
thể, của mê say cảm xúc thẩm mĩ của nghệ thuật. Từ trước tới nay, chúng ta thường đặt
văn học với các môn khoa học xã hội như triết học, lịch sử (văn sử triết bất phân) mà đã
có phần xem nhẹ ánh sáng của khoa học tự nhiên vào làm rõ cho văn học đặc biệt cho
những khái niệm thuật ngữ của văn học. Điều này sẽ bị phá bỏ, khi chúng tôi dùng các lý
thuyết của vật lí và toán học trong tiếp cận văn bản truyện ngắn theo đặc trưng thể loại.
2.1.2.1. Từ lý thuyết của vật lí
Trong triết học khi bàn luận về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, các nhà triết

học đã đi đến kết luận: ý thức và quy luật của ý thức đều phản ánh, là sự chụp chiếu lại
quy luật của tự nhiên; cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Từ đây chúng ta có thể hiểu rằng mọi quy luật ý thức trong xã hội đều
bắt nguồn, mang ánh xạ bản chất từ những quy luật tự nhiên. Cũng nằm trong quy luật đó
văn học là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
Cách nhìn, cái nhìn của nhà văn, quan điểm của người nghệ sĩ bắt nguồn từ đôi mắt, từ
ánh sáng được phản chiếu của vạn vật cuộc sống và hiện thực. Từ quy luật này chúng tôi
20


xin nhìn văn học, cách nhìn quan điểm của nhà văn đặc biệt là những đặc trưng của
truyện ngắn từ những định luật liên quan đến ánh sáng.
Trước hết chúng tôi sử dụng lý thuyết về góc trông vật, góc trông ảnh trong vật lí
để phân tích sâu hơn về cách nhìn, điểm nhìn, quan điểm của người nghệ sĩ và đặc biệt là
điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn. Góc trông vật: Vật AB đặt cách mắt một đoạn
OA thì góc trông vật là α0. Nếu đặt vật tại điểm cực cận của mắt thì góc trông vật là lớn
nhất, có thể cho ảnh rõ nhất trên võng mạc. Góc trông phụ thuộc vào 2 yếu tố:
+) kích thước của AB ,
+) khoảng cách từ AB đến thấu kính mắt.
Như vậy tan(α0) = AB/OA. Cùng 1 kích thước AB, thì góc trông càng nhỏ nếu
khoảng cách d càng lớn. Và nếu cùng 1 khoảng cách d, góc a sẽ càng lớn nếu ảnh càng
lớn.

Góc trông phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: ảnh của vật hiện hữu như thế nào (to
hay nhỏ, rõ hay mờ, ẩn hay hiện,…) và phụ thuộc vào khoảng cách, tâm lí, sự tiếp nhận
ảnh của đôi mắt (xa hay gần, kĩ hay lướt, đa hay đơn, …). Cũng như vậy cái nhìn và cách
nhìn nhà văn về cuộc sống phản ánh trong văn học sẽ mang bản chất của góc trông của
người nghệ sĩ đó. Mỗi một cá tính sáng tạo, mỗi một quan điểm tư tưởng nghệ thuật,
nhân sinh, thẩm mĩ của nhà văn là góc trông của người nghệ sĩ đó về hiện thực cuộc
sống. Chúng không thể đồng nhất mà khác nhau do tạo nên phong cách. Lí giải hiện

tượng này có thể thấy ở chính các tiền đề, các yếu tố của góc trông tạo nên. Tự sự và
truyện ngắn lại càng thể hiện rõ nét lí thuyết góc trông. Điểm nhìn trần thuật và tính chất
đối thoại của điểm nhìn trong truyện ngắn như đã đề cập ở trên là mang bản chất khoa
học của góc trông người nghệ sĩ. Cái nhìn đa chiều, thấu thị của nhà văn khiến cho một
vấn đề được phản ánh trong tác phẩm trở nên thấu đáo. Góc trông càng lớn thì sự vật
21


hình ảnh càng hiện lên rõ nét trong mắt người do sự vật được khám phá sâu sát ở nhiều
góc trông khác nhau sẽ hiện lên tường tận toàn diện. Cũng từ lý thuyết này, cái nhìn sâu
sắc, đa chiều, nhiều góc độ của người nghệ sĩ về một vấn đề hiện thực cần phản ánh sẽ
làm cho nội dung tư tưởng của tác phẩm đa nghĩa và có nhiều giá trị hơn. Nhưng những
góc trông của tác giả lại được tổ chức trong văn bản qua sự chuyển dịch thành điểm nhìn
linh hoạt mang chủ thể khác nhau trong thế giới hư cấu của nhà văn như điểm nhìn của
nhân vật, người kể chuyện… Vì thế điểm nhìn trong một tác phẩm, hoặc nhiều tác phẩm
văn học tổng hòa lại sẽ là góc trông của tác giả đã phản ánh chi phối vào điểm nhìn tác
phẩm. Các góc trông khác nhau tạo nên các điểm nhìn khác nhau và mỗi chủ thể đối
thoại trong truyện ngắn sẽ có quan điểm khác nhau. Nhờ đó mà nó tạo ra tính đa chiều
đối thoại về quan điểm, nội dung và tư tưởng. Đối thoại dân chủ trong truyện ngắn chính
là cuộc đối thoại giữa các điểm nhìn, của các góc trông khác nhau, của mỗi chủ thể ở góc
nhìn khác nhau về cùng một sự vật. Cùng một sự vật mà góc trông khác nhau sự vật hienj
lên ở mỗi người là khác nhau. Sự va chạm điểm nhìn, quan điểm của các nhân vật trong
truyện ngắn tạo nên tình thế xung đột cần được giải quyết. Đây chính là tiền đề tạo nên
một kiểu dạng tình huống truyện của truyện ngắn. Xung đột va chạm điểm nhìn, quan
điểm của các chủ thể góc trông khác nhau về cùng một vấn đề sự việc tạo nên tình
huống truyện.
Nhưng có một trường hợp nữa, là cũng một sự vật đó, cùng một chủ thể đó, ở môi
trường khác nhau, với tính chất khác nhau sẽ tạo nên cách nhìn và quan điểm khác nhau,
nó cũng tạo nên tính chất đối thoại cho văn học trong chính đời sống nội tâm, tư tưởng
của một chủ thể. Đó chính là tiền đề cho chúng tôi vận dụng lý thuyết về khúc xạ và

phản xạ trong ánh sáng, đường truyền của ánh sáng trong các môi trường khác nhau
để khám phá đối thoại điểm nhìn qua đặc trưng tình huống truyện của truyện ngắn.
Lý thuyết vật lí thứ 2 được chúng tôi sử dụng - khúc xạ và phản xạ ánh sáng, để
làm sáng tỏ bản chất và nội dung của tình huống truyện. Trong một môi trường đồng nhất
ánh sáng luôn đi theo một đường thẳng. Vậy ở môi trường khác nhau đường truyền của
ánh sáng có là một đường thẳng không? Hiện tượng khúc xạ ánh sáng là hiện tượng khi
ánh sáng truyền qua mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt thì tia sáng bị gãy
khúc (đổi hướng đột ngột) ở mặt phân cách của hai môi trường.

22


Đối với con người cũng vậy, cùng một vấn đề, cùng một góc nhìn, nhưng mỗi con
người ở môi trường sống khác nhau, quan điểm khác nhau sẽ tạo nên cách nhìn khác
nhau không đồng nhất. Nó làm cho sự vật biến đổi, bẻ gẫy. Nó giống như các môi trường
khác nhau đường truyền ánh sáng không theo một đường thẳng. Tình huống truyện trong
truyện ngắn chính là đường biên ranh giới mà ở lát cắt phân định hai không gian môi
trường đó có sự bẻ gẫy ánh sáng đường truyền. Có sự bẻ gẫy đó là do môi trường khác
nhau của một người nhìn, hay là sự va chạm không đồng nhất của các cách nhìn góc
nhìn khác nhau của các chủ thể góc trông riêng biệt. Ở một chủ thể, đặc biệt là nhân
vật trong tác phẩm tự sự khi nhìn và đánh giá nhìn sự vật hiện tượng, ở mỗi một môi
trường sống mang bản chất khác nhau tạo nên quan điểm cách nhìn khác nhau. Vì thế khi
chuyển đổi môi trường, sống ở các môi trường khác nhau hay thời thế thay đổi, cái nhìn,
đường nhìn sẽ thay đổi tiếp biến mà không còn thẳng, đồng nhất nữa. Nó sẽ bị bẻ gẫy.
Chính lúc này, tại đó, tình huống truyện ra đời, nảy nở, làm điểm bùng nổ buộc nhân vật
phải bộc lộ rõ tích cách và số phận của mình. Trong những tình huống này nhân vật hoặc
sẽ phải thay đổi điều chỉnh cách nhìn, tính cách và hành động của mình để mà khám phá
mình, sự vật, sự việc và bản chất của chúng trong môi trường mới. Chúng tôi xin dùng lí
thuyết phản xạ ánh sáng để làm tiền đề lí thuyết trong việc khám phá tính cách nhân vật
trong sự thay đổi môi trường hay cũng chính là trong những tình huống truyện.

Có ba tính chất của đường truyền áng sáng qua các môi trường sẽ làm tiền đề
chúng tôi chia nhóm tính cách nhân vật trong tình huống truyện. Nhóm nhân vật quyết
đoán mạnh mẽ dấn thân thay đổi, khi họ nhìn thẳng vào hiện thực vào vấn đề và chính
mình để họ chiếm lĩnh thấu suốt được môi trường mới. Đó cũng chính là khi chúng ta
thay đổi đường đi của ánh sáng chiếu thẳng vào môi trường khác, đường truyền của ánh
sáng không hề bị bẻ gẫy mà trở thành một đường thẳng duy nhất. Đó là tích cách của
những con người dám thay đổi, dám dấn thân, dám đương đầu để mà chiếm lĩnh được
bản chất của sự việc mới, thời cuộc mới.

Ánh sáng truyền thẳng qua hai mặt phân cách môi trường.
23


Tuy nhiên sẽ có con người hoặc kiểu nhân vật nhà văn xây dựng trong sự tiếp xúc
với sự thay đổi môi trường, họ không thay đổi, họ bảo thủ cố hữu cho cái nhìn quan điểm
cũ. Dù môi trường dù có thay đổi, xã hội tiến lên họ vẫn giữ khư khư những cách nhìn cũ
kĩ, quan điểm lỗi thời của mình mà không hề tiếp thu cái mới. Đó là hiện tượng phản xạ
toàn phần trong vật lí. Ánh sáng truyền từ môi trường cũ sang môi trường mới bị phản lại
hoàn toàn trở về môi trường cũ. Đó cũng là cách nhìn, lối sống của một kiểu nhân vật
trong tình thế, tình huống thay đổi môi trường, hoàn cảnh sống.

Phản xạ toàn phần - ánh sáng phản xạ trở về về môi trường cũ
Một biểu hiện sự thay đổi nữa của con người hoặc kiểu nhân vật nhà văn xây dựng
trong sự tiếp xúc với sự thay đổi môi trường là kế thừa và tiếp thu. Họ có thay đổi nhưng
họ thay đổi một phần cho phù hợp với môi trường mới để tiếp thu làm mới cho mình.
Bên cạnh đó, họ cũng giữ lại những yếu tố của cái nhìn quan điểm cũ còn phù hợp để mà
kế thừa trong vận động tiếp thu phát triển. Những con người, kiểu nhân vật này là linh
hoạt chủ động sáng tạo. Họ giống như hiện tượng phản xạ một phần. Ánh sáng truyền từ
môi trường cũ sang môi trường mới một phần bị phản lại trở về môi trường cũ, một phần
khúc xạ xuyên thấm và môi trường mới. Đó cũng là cách nhìn, lối sống linh hoạt tiếp

biến vừa tiếp thu cái mới và kế thừa cái cũ tạo nên một kiểu nhân vật trong tình thế, tình
huống thay đổi môi trường, hoàn cảnh sống.

Phản xạ một phần
24


Như vậy dưới lý thuyết của khoa học vật lí, chúng tôi đã một phần làm sáng tỏ hơn
những thuật ngữ và bản chất của văn học mà cụ thể là các đặc trưng trong tự sự, cụ thể là
truyện ngắn. Góc trông làm sáng tỏ cách nhìn, quan điểm phong cách riêng của người
nghệ sĩ và việc xây dựng điểm nhìn trần thuật của tác phẩm tự sự, truyện ngắn cũng
như tình huống truyện (sự va chạm hai quan điểm cách nhìn của các nhân vật chủ
thể khác nhau). Các lý thuyết về phản xạ, khúc xạ làm rõ hơn về kiểu tình huống
truyện mà nhân vật các chủ thể do bị thay đổi môi trường, hoàn cảnh sống để từ đó
khám phá những quy luật biểu hiện tính cách số phận của ba kiểu nhân vật trong sự
thay đổi đó. Ánh sáng của khoa học vật lí, đã làm chúng ta hiểu dễ dàng và sâu sắc hơn
những khái niệm, thuật ngữ vốn trừu tượng của văn học đặc biệt là các đặc trưng của thể
loại truyện ngắn. Điều này càng thú vị, hiệu quả và dễ dàng hơn khi chúng tôi kết hợp
chúng với lý thuyết Graph và đồ thị của toán học để mô hình và tường minh hóa các đơn
vị kiến thức truyện ngắn trong quá trình giảng dạy để đưa các đơn vị kiến thức này đến
với các em học sinh.
2.1.2.2. Từ lý thuyết của toán học
Lê-nin từng cho rằng: Chỉ khi nào toán học thâm nhập được vào một ngành khoa
học nào đấy thì ngành khoa học ấy mới có những tiến bộ vượt bậc. Điều này đã được
chứng minh trong lịch sử phát triển của nhiều ngành khoa học trong đó có khoa học xã
hội. Phương pháp thống kê của toán học đi vào thống kê ngôn ngữ, thống kê xã hội
học… đã giúp cho những ngành khoa học xã hội này phát triển một cách vượt bậc.
Phương pháp dạy học trong đó có phương pháp dạy học Ngữ văn cũng là một ngành
khoa học, vậy thì có thể đưa phương pháp của toán học vào ứng dụng cho phương pháp
dạy học Ngữ văn được hay không?

Graph là một phương pháp nghiên cứu chuyên ngành toán học hiện đại đã được
ứng dụng vào nhiều ngành khoa học (trong đó có khoa học sư phạm), kĩ thuật khác nhau.
Graph có nghĩa khái quát là mạch, mạng, đồ thị toán học. Đây là phương pháp khoa học
có tính khái quát cao, có tính ổn định vững chắc để mã hóa các mối quan hệ logic của nội
dung các đối tượng được nghiên cứu giảng dạy. Vậy có thể áp dụng phương pháp Graph
vào dạy học Ngữ văn hiệu quả hay không? Những câu hỏi đó đang là sự quan tâm lớn
của khoa học sư phạm trong đó có sư phạm Ngữ văn và đặc biệt là các thầy cô giáo đang
trực tiếp giảng dạy bộ môn này. Chúng tôi xin được đưa ra một vài cơ sở lí luận và thực
tiễn sau đây như là tiền đề áp dụng Graph vào dạy học Ngữ văn.
Thứ nhất là mọi phương pháp nghiên cứu bộ môn và phương pháp dạy học bộ môn
luôn có một sự tương ứng nhất định. Chúng ta có thể chuyển hóa từ phương pháp nghiên
cứu bộ môn thành phương pháp dạy học bộ môn đó thông qua việc xử lí sư phạm của
giáo viên. Ví dụ như phương pháp dạy học bằng thí nghiệm trong dạy học vật lí có nguồn
25


×