Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990) Giáo dục vì sự phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.26 KB, 16 trang )

ĐỀ BÀI: Hãy lựa chọn một mô hình phát triển bền vững (theo tài liệu),
phân tích những cơ sở của mô hình này? Từ đó phân tích vai trò của giáo dục,
nhà giáo dục đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Bài làm
1. Đặt vấn đề
Xã hội hiện đại- thế giới chúng ta đang sống không ngừng thay đổi và phát
triển về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật,…Sự phát triển ấy
là cần thiết và tất yếu.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật cùng với sự bùng nổ công nghệ thông tin
làm cho quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa phát triển mạnh hơn bao giờ
hết, đem lại triển vọng cũng như cơ hội cho các quốc gia. Tuy nhiên, trong tiến
trình phát triển của mình, mỗi quốc gia và khu vực lại có những vấn đề bức xúc
nảy sinh trên các lĩnh vực.
Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng cạn kiệt và khan hiếm các loại tài
nguyên thiên nhiên, tài nguyên không tái tạo được càng tăng thêm, môi trường
thiên nhiên bị ô nhiễm và hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ gây ra những
thiên tai vô cùng thảm khốc. Xã hội tồn tại nhiều bất công; chiến tranh, xung đột
sắc tộc, khủng bố đe dọa nền hòa bình của các quốc gia và dân tộc trên thế giới.
Do đó không có con đường nào khác là phải đảm bảo sự phát triển bền vững.
Đầu thập niên 80, Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (International Union
for Conservation of Nature and Natural Resources - IUCN) do Gro Harlem
Brundtland làm Chủ tịch lần đầu tiên đưa ra định nghĩa khái niệm phát triển bền
vững (Sustainable Development). Sau đó ở Hội nghị Rio – 92, nội hàm của khái
niệm phát triển bền vững được tái khẳng định và được bổ sung, hoàn chỉnh tại
Hội nghị Johannesburg – 2002.
Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà về cả ba mặt: kinh tế, xã hội, và
môi trường, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân loại
1


không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ tương lai. Có nhiều lý


thuyết, mô hình mô tả nội dung của phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn, mỗi
quốc gia, dân tộc, tổ chức hay cá nhân sẽ có những nghiên cứu và đưa ra các
mô hình khác nhau. Ví dụ như: mô hình phát triển bền vững của WCED
(1987); mô hình phát triển bền vững của Villen (1990); mô hình phát triển bền
vững của Jacobs và Sadler (1990); mô hình phát triển bền vững của
Vaillancourt (1995); mô hình phát triển bền vững của Việt Nam,... Mỗi mô hình
đều có những thế mạnh và hạn chế nhất định. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài
tiểu luận cùng với các mô hình đã có trong tài liệu, tôi xin được lựa chọn mô
hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990) để phân tích, do mô hình
này phản ánh rõ nhất phát triển bền vững là miền giao thoa giữa phát triển kinh
tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Hay nói cách khác, phát
triển bền vững đạt được trên cơ sở đảm bảo hài hoà được cả ba mục tiêu: kinh
tế, xã hội và môi trường.
Hệ kinh tế
Hệ tự nhiên

Hệ xã hội

Phát triển bền vững

Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990)
2. Nội dung
2.1 Sự cần thiết của phát triển bền vững và mô hình phát triển bền vững
Trong quá trình phát triển hướng tới cuộc sống tốt đẹp, các nhu cầu của con
người là nguyên nhân tạo ra các mâu thuẫn không sao khắc phục được. Chẳng
2


hạn như: Con người cần có củi để đốt và sưởi ấm nhưng lại cần rừng để chống
nước mặn xâm nhập và để bảo vệ đất khỏi xói mòn, cần không khí sạch để hít

thở nhưng đồng thời cũng rất cần ô tô và xe máy để đi lại; các doanh nghiệp
luôn cần sử dụng các lao động giá rẻ nhưng lại không có tiếng nói chung với
những công nhân đòi hỏi được trả lương cao, xứng đáng với công sức của họ để
có thể có một cuộc sống tốt hơn,... Điều gì sẽ xảy ra khi một quốc gia công
nghiệp hóa lại gây ra ô nghiễm môi trường, mưa axit nguy hiểm cho sông ngòi,
hồ ao của các nước khác? Loài người sẽ quyết định ra sao khi trong bản thân họ
luôn tồn tại những nhu cầu đối lập, mâu thuẫn nhau? Làm thế nào để cân bằng
và hài hòa các nhu cầu đó?
Xã hội hiện đại với vô vàn những thành tựu đã đưa cả nhân loại bước sang
một thời kì mới- thời kì của kỉ nguyên công nghệ số 4.0 với sự xuất hiện của
robot có trí tuệ nhân tạo mang những tính năng có thể thay thế con người, thậm
chí còn tối ưu hơn như khả năng tính toán, phân tích, ghi nhớ, cùng sức lao động
bền bỉ, năng suất cao; với hệ thống máy móc tự kết nối với nhau, tự tổ chức và
quản lí. Tuy nhiên cùng với những thành tựu ấy là những thách thức, mâu thuẫn
đặt ra cho toàn nhân loại. Kinh tế càng phát triển thì sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội càng rõ rệt. Theo một báo cáo do tổ chức Oxfam International vừa
công bố trong năm 2017, sự cách biệt giàu – nghèo trên thế giới hiện gia tăng
đến mức khủng khiếp. Tài sản của 8 doanh nhân giàu nhất thế giới trong đó có
Bill Grates, Amancio Ortega, Mark Zuckerberg,... đang bằng với tài sản của 3,6
tỷ người đang sống trong những nước nghèo, chiếm 50% nhân loại. Theo báo
cáo mới nhất vừa được Liên Hiệp quốc (LHQ) đưa ra, trong năm 2017 số người
đói nghèo trên khắp thế giới đã tăng trở lại lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ
qua, trong đó xung đột bạo lực và biến đổi khí hậu dược coi là những nguyên
nhân chính gây ra vấn đề này. Cùng với ô nhiễm môi trường và sự nóng lên của
trái đất, khí hậu toàn cầu đang có những biến đổi khôn lường: những cơn bão bắt
đầu xuất hiện thất thường và khó dự báo với sức mạnh tàn phá ngày một khủng
3


khiếp hơn, thời tiết ngày càng trở lên khắc nghiệt, nền nhiệt độ liên tục thay đổi,

băng ở hai cực vẫn không ngừng tan…Các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nội chiến
cũng ngày một gia tăng. Nhiều đợt khủng bố diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới
trong năm 2017 đã cướp đi mạng sống của nhiều người dân vô tội trong đó có
trẻ em. Cuộc nội chiến kéo dài hơn 6 năm qua ở Syria khiến hàng trăm nghìn
người thiệt mạng vẫn chưa có hồi kết. Ở nhiều nơi trên thế giới, trẻ em vẫn
không được đến trường, quyền con con người vẫn chưa được đảm bảo.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây nền kinh tế có những bước phát triển
vượt bậc, GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 2400 USD vào năm 2017.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển ấy, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều
thách thức: Tài nguyên thiên nhiên dần khan hiếm do khai thác bừa bãi, ô nhiễm
môi trường với hiện tượng cá chết hàng loạt ở vùng biển thuộc các tỉnh miền
Trung do ô nhiễm nguồn nước, chất lượng không khí tại các thành phố lớn trong
tình trạng báo động, trong xã hội xuất hiện nhiều hành vi phi đạo đức, đi ngược
lại với các chuẩn mực mà nổi cộm trong thời gian gần đây là những vụ: bà nội
giết cháu 20 ngày tuổi, vợ giết chồng rồi chặt thành nhiều mảnh để phi tang,
lãnh đạo lợi dụng chức quyền để tham những hàng chục thậm chí hàng trăm tỷ
đồng,…
Từ thực tiễn đó, phát triển bền vững như một con đường cần thiết và tất yếu
giúp xã hội loài người tồn tại và phát triển lâu dài. Bởi không có phát triển bền
vững, loài người sẽ không có tương lai. Tuy nhiên, cần có những mô hình nhằm
giúp con người định hướng về nhận thức, thái độ và hành vi trong việc phát triển
bền vững. Vậy nên có thể thấy phát triển bền vững cũng như mô hình phát triển
bền vững là hết sức cần thiết cho loài người nói chung cũng như sự phát triển
của toàn xã hội.

4


2.2 Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990)
Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành dần từ thực tiễn cuộc

sống xã hội và có tính tất yếu. Nó được manh nha và bắt đầu từ việc nhìn nhận
tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và sự cần thiết phải giải quyết những
bất ổn trong xã hội. Chính vì vậy, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát
triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro vào năm 1992 đã đề ra
Chương trình nghị sự toàn cầu cho thể kỉ XXI, theo đó phát triển bền vững được
xác định là: “ Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai.” Từ
đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định: Thứ nhất, bền vững về mặt
kinh tế hay nói cách khác, phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh, an
toàn và chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội, về công bằng xã hội; Thứ
ba, bền vững về môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Từ nội hàm của khái niệm phát triển bền vững, sự ra đời của các mô hình
phát triển bền vững giúp con người định hướng cho sự phát triển. Mô hình phát
triển bền vững chính là hình ảnh được khái quát lên từ những quan điểm, tư
tưởng phát triển bền vững của những cá nhân, tổ chức. Trong đó, mô hình phát
triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990) đã cho thấy rõ phát triển bền vững
chính là sự giao thoa hài hòa giữa phát triển hệ kinh tế, tự nhiên và xã hội.
Hệ kinh tế

5

Hệ tự nhiên

Hệ xã hội

Phát triển bền vững


Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990) có ba trụ cột chính

của phát triển bền vững. Đó là hệ kinh tế, hệ xã hội và hệ tự nhiên. Ba hệ này có
sự tương tác, qua lại lẫn nhau. Theo Jacobs và Sadler, phát triển bền vững không
cho phép sự phát triển của hệ này làm tổn hại đến sự phát triển của hệ khác, là
sự phát triển mà tương tác dung hòa giữa ba yếu tố. Trong đó:
- Hệ kinh tế bao gồm sản xuất và phân phối sản phẩm. Một nền kinh tế được
coi là phát triển bền vững được thể hiện trên các khía cạnh: sự gia tăng quy mô
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và bình đẳng về cơ hội
tham gia cũng như hưởng thụ thành quả phát triển của mọi người.
Muốn phát triển bền vững thì một trong những yếu tố không thể thiếu là sự
phát triển bền vững của nền kinh tế. Sau hơn 20 năm thực hiện mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ, thế giới vẫn chưa đạt được các kết quả phát triển bền vững
như mong muốn. Sự phát triển về kinh tế vẫn gây hủy hoại môi trường và suy
thoái tài nguyên thiên nhiên. Lượng khí thải vô cùng lớn từ các hoạt động, đặc
biệt là hoạt động sản xuất của các quốc gia đã gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà
kính, nguyên nhân chủ yếu khiến nhiệt độ trái đất nóng lên dẫn đến những hệ
quả khủng khiếp của sự biến đổi khí hậu trên trái đất. Lượng chất thải công
nghiệp từ các hoạt động sản xuất đã ảnh hưởng xấu tới môi trường, gây ô nhiễm
không khí, nguồn nước và đất.
Vậy làm thế nào để phát triển hệ kinh tế bền vững? Muốn kinh tế phát triển
bền vững cần tuân thủ theo những nguyên tắc sau: Thứ nhất, Mức khai thác và
sử dụng các tài nguyên tái tạo phải luôn nhỏ hơn mức tái tạo của tài nguyên.
Thứ hai, Luôn duy trì được lượng chất thải vào môi trường nhỏ hơn khả năng
hấp thụ của môi trường. Tuy nhiên để thực hiện được những nguyên tắc này
6


không phải là vấn đề đơn giản với các quốc gia trên thế giới. Ngoài việc đảm
bảo thực hiện các nguyên tắc trên, chúng ta cũng cần lưu ý một số vấn đề:

+


Với các tài nguyên không tái tạo được như dầu mỏ, khí đốt, than đá có
thể bị cạn kiệt. Vì vậy con người cần tìm tài nguyên thay thế hoặc sử dụng
các loại năng lượng được cho là vĩnh cửu như: năng lượng mặt trời, gió,
thủy triều,... Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, những
thiết bị sử dụng các loại năng lượng này đã dần xuất hiện và có xu hướng
phát triển mạnh mẽ như ô tô và xe máy chạy bằng điện, pin mặt trời,...

+

Con người cần kiểm soát được khả năng phục hồi của tài nguyên tái
tạo và khả năng hấp thụ của môi trường.

+

Chú trọng và đẩy mạnh việc phát triển nền ‘‘kinh tế xanh”. Một nền
kinh tế mà chính sách phát triển dựa vào các tiêu chí như: định hướng là
thị trường, nền tảng là các nền kinh tế truyền thống, mục tiêu là sự hòa
hợp của kinh tế và môi trường. Đó là nền kinh tế vừa mang đến hạnh phúc
cho con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu một cách đáng
kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái.

-

Hệ tự nhiên bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các

thành phần môi trường của trái đất. Chúng giữ vị trí vô cùng quan trọng trong sự
phát triển. Tạo hóa sinh ra hành tình này để nuôi dưỡng con người từ bao đời
nay. Con người sử dụng không khí, nước và thực phẩm để tồn tại; sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường để phục vụ cho các nhu cầu thiết

yếu của mình. Mỗi một sự biến đổi của tự nhiên, môi trường đều ảnh hưởng trực
tiếp đến chúng ta. Sự đe dọa nào tới thiên nhiên, môi trường cũng chính là sự đe
dọa đối với con người.

7


Sự bất ổn về môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên tất yếu dẫn đến sự
suy thoái của một quá trình phát triển, của một nền văn minh. Mối quan hệ này
được thể hiện rõ trong thời đại ngày nay khi mà sự phát triển đang tiệm cận các
giới hạn của tự nhiên. Những con số thống kê gần đây cho ta một bức tranh đáng
lo ngại về tình trạng suy thoái tài nguyên và môi trường trên phạm vị toàn cầu
và ở nước ta:

+

Đất là một trong những tài nguyên đang bị xâm hại nặng nề do nhiều
nguyên nhân như: rửa trôi, xói mòn, nhiễm mặn, bạc màu, nhiễm phèn,
biến đổi khí hậu,... Hiện nay 10% đất có tiềm năng nông nghiệp đã bị sa
mạc hóa. Theo số liệu từ Liên hợp quốc cho thấy cứ mỗi phút trên phạm
vi toàn cầu lại có khoảng 10 ha đất trở thành sa mạc. Đất là hệ sinh thái
hoàn chỉnh nên thường bị ô nhiễm bởi các hoạt động của con người. Cuộc
sống càng được nâng cao và phát triển thì tài nguyên đất ngày một suy
thoái và trở nên cằn cỗi.

+

Nước cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên đang đứng trước nguy cơ
suy thoái mạnh trên phạm vi toàn cầu, mà nước thải là một trong những
nguyên nhân chính. Mỗi năm ước tính có khoảng hơn 500 tỷ m³ nước thải

thải vào những nguồn nước tự nhiên , cứ sau 10 năm chỉ số này lại tăng
gấp đôi. Có tới hơn 1 tỷ người đang bị thiếu khoảng 20-25 lít nước sạch
mỗi ngày để phục vụ các nhu cầu căn bản như ăn ,uống, tắm giặt.

+

Rừng- lá phổi xanh của trái đất cũng đang trong tình trạng báo động về
sự suy giảm nhanh chóng cả chất lượng và số lượng. Các hệ sinh thái
rừng bao phủ khoảng 10% diện tích trái đất, khoảng 30% diện tích đất
liền. Tuy nhiên, các vùng có rừng che phủ đã bị giảm đi tới hơn 40%
trong vòng 300 năm qua khiến cho cho các loài động, thực vật bị biến mất
đáng kể. Loài người đã làm thay đổi hết sức nhanh chóng hệ sinh thái
8


trong khoảng 50 năm trở lại, nhanh hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đây.
Ngay ở Việt Nam- nước có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 trên thế
giới nhưng tốc độ suy giảm được xếp vào hàng nhanh nhất. Trong vòng
không đầy 50 năm diện tích rừng ngập mặt đã suy giảm gần 3/4.
Vậy làm thế nào để phát triển bền vững môi trường và tài nguyên thiên
nhiên? Phát triển kinh tế cần hài hòa, không làm tổn tại đến môi trường và tài
nguyên thiên nhiên. Chính phủ các nước cần xây dựng hệ thống pháp luật về bảo
vệ môi trường ngày càng hoàn thiện; xây dựng hệ thống bộ máy quản lý nhà
nước về môi trường từ trung ương đến địa phương; tăng cường đào tạo cán bộ
quản lý nhà nước về môi trường; đầu tư nhiều chương trình phát triển kinh tế, xã
hội có ý nghĩa về bảo vệ môi trường; thành lập và tổ chức các quỹ về bảo vệ môi
trường. Nhưng hơn hết đòi hỏi mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức, mọi quốc gia
chấp hành và thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ môi trường. Có như vậy chúng
ta mới có thể hy vọng vào một tương lai với môi trường sống trong lành.
-


Hệ xã hội bao gồm quan hệ của con người với con người trong xã hội. Một

quốc gia thật sự phát triển không chỉ là quốc gia trong đó người dân có thu nhập
cao, mà còn là một quốc gia mà ở đó người dân có đời sống văn hóa, chất lượng
cuộc sống tốt, mức độ hạnh phúc với cuộc sống cao, cung cấp đầy đủ các dịch
vụ xã hội bao gồm sức khỏe và giáo dục, bình đẳng giới và trách nhiệm chính
trị.
Trong cuộc sống hiện đại, mối quan hệ giữa con người- con người có những
thay đổi nhất định. Do tính chất công việc khiến thời gian gắn kết giữa các thành
viên trong các gia đình hiện đại dần lỏng lẻo hơn. Sự tuân thủ các chuẩn mực
đạo đức trong xã hội ít nhiều không còn nghiêm chỉnh như trước. Những hành
vi, biểu hiện lệch lạch, phi đạo đức ngày càng xuất hiện với tần xuất nhiều hơn
trong xã hội. Con người hoài nghi lẫn nhau, thậm chí không dám làm điều tốt
9


giúp đỡ người khác vì chỉ sợ đó là màn kịch được những kẻ lừa đảo dựng lên,
khi mà lòng tốt và sự yêu thương, sự tử tế bị đem ra lợi dụng bởi một số cá
nhân. Không ít trường hợp chỉ vì một cái nhìn khó ưa mà một người sẵn sàng sử
dụng bạo lực với người khác; một tai nạn giao thông cọ quẹt nhau trên đường
cũng dẫn tới tranh cãi, ẩu đả thậm chí lấy đi sinh mạng của nhau.
Quá trình phát triển và hội nhập toàn cầu đã diễn ra sự giao thoa, du nhập
mạnh mẽ các nền văn hóa khác nhau.“ Làm thế nào đề hòa nhập chứ không hòa
tan? ” là câu hỏi trăn trở và là bài toán đau đầu của nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhiều tổ chức và những tôn giáo lạ ra đời mang theo những hệ giá trị và tư
tưởng có phần lệch lạc và không phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội. Nội
chiến, chiến tranh, đói nghèo và dịch bệnh đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới
chất lượng cuộc sống của hàng triệu người. Thậm chí ở những đất nước được coi
là rất phát triển như Pháp, Anh, Mỹ,... thì số lượng người nghèo, người vô gia cư

vẫn còn rất nhiều.
Vậy làm thế nào để phát triển bền vững hệ xã hội? Chúng ta cần trân trọng và
bảo tồn những vốn văn hóa. Một sự phát triển văn hóa bền vững không chỉ là sự
phát triển mang tính nâng cao văn hóa chung chung . Nếu sự phát triển ấy làm
mất đi những khía cạnh tốt đẹp, vốn có của văn hóa thì nó không được coi là
một sự phát triển bền vững. Trong quá trình phát triển văn hóa, không thể thiếu
yếu tố giáo dục, chính giáo dục góp phần nối dài hơn những hệ giá trị, những
văn hóa truyền thống tốt đẹp. Nó giúp con người đi từ nhận thức đúng, thái độ
đúng đến có hành vi phù hợp.
-

Có thể thấy rằng trong mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler

(1990), phát triển bền vững không chỉ là việc ba yếu tố chính: hệ tự nhiên, hệ
kinh tế, hệ xã hội phát triển mà sự phát triển của ba hệ này lại tác động qua lại,
tương tác với nhau. Muốn phát triển bền vững phải kết hợp cả ba yếu tố này
10


trong sự cân bằng, không được để sự phát triển của một hệ này làm ảnh hưởng
đến hệ khác. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng lẫn nhau. Có
thể chứng minh cho điều đó như sau:

+

Một nền kinh tế muốn phát triển được khi chính xã hội ấy phải ổn định
và phát triển, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi. Một
đất nước với xã hội bất ổn, chiến tranh liên miên, thiên tai, bệnh dịch và
khí hậu khắc nghiệt thì rất khó có thể có được một nền kinh tế phát triển.


+

Hệ tự nhiên muốn phát triển bền vững được thì nền kinh tế phải là nền
kinh tế xanh, chú trọng đến bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế; ý
thức xã hội trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên phải cao.
Nếu kinh tế phát triển ồ ạt, chạy theo tăng trưởng để phát triển nóng, khai
thác tài nguyên bừa bãi, xả thải trực tiếp ra môi trường các chất độc hại;
người dân trong xã hội không có ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên
thì hệ tự nhiên không thể phát triển được.

+

Ngược lại, hệ xã hội cũng bị chi phối và chịu ảnh hưởng bởi hai hệ còn
lại. Một xã hội muốn phát triển bền vững thì kinh tế phải phát triển, mức
sống và chất lượng cuộc sống của con người phải cao; môi trường thiên
nhiên, môi trường sống phải trong lành. Nếu nền kinh tế của xã hội lạc
hậu, kém phát triển, đời sống của người dân còn nhiều bất ổn, đói nghèo
còn hiện hữu; môi trường sống,môi trường tự nhiên ô nhiễm thì hệ xã hội
cũng không thể phát triển được
Vậy từ mô hình của Jacobs và Sadler (1990), chúng ta thấy rằng không

những phải phát triển các thành tố: kinh tế, xã hội, tự nhiên mà các thành tố
này còn phải có trách nhiệm chung với các bộ phận, thành tố khác. Có như
vậy mới tạo nên được sự phát triển bền vững.
11


2.3 Vai trò của giáo dục và nhà giáo dục với sự phát triển bền vững của đất
nước
Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng

đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi thời đại. Với xu thế phát triển tri thức
hiện nay, giáo dục- đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng
đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990), chúng ta thấy giáo
dục có vai trò trong từng thành tố của sự phát triển. Trong đó:
-

Với phát triển kinh tế: Để có tăng trưởng kinh tế phải có các nhân tố tất yếu:

nhân tố tự nhiên, con người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra (vốn, công
nghệ,...). Trong đó nhân tố con người được gọi với nhiều cách gọi khác nhau
như nguồn nhân lực, tài nguyên con người,... Khi cuộc cách mạng công nghiệp
khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ, khi nền kinh tế tri thức lên ngôi, nguồn
lực con người, nguồn lực trí tuệ càng thể hiện vai trò trung tâm trong quá trình
phát triển.
Để có được nguồn nhân lực tri thức và nguồn lao động chất lượng cao phục
vụ cho sự phát triển kinh tế, vai trò của giáo dục là vô cùng quan trọng. Giáo
dục đào tạo ra nguồn nhân lực phục vụ cho nền kinh tế. Kinh nghiệm từ nhiều
quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư vào giáo dục cho phát triển nguồn lực con
người mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định hơn. Những quốc gia
nào coi nhẹ giáo dục hoặc không có đủ khả năng để làm giáo dục một cách có
hiệu quả thì quốc gia đó sẽ không thể phát triển và tồi tệ hơn là có thể phá sản.
Ví dụ về chính đất nước Nhật Bản- quốc gia có nhiều nét tương đồng về văn
hóa và giáo dục với Việt Nam, họ được thế giới nói đến như một hiện tượng thần
kì. Từ một quốc gia nghèo nàn và lạc hậu, mật độ dân số đông, tài nguyên thiên
12


nhiên không đáng kể, bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá nặng nề, nhưng giờ
đây họ đã trở thành một cường quốc về kinh tế và công nghệ khiến thế giới phải

thán phục. Nguyên nhân nào làm cho Nhật Bản đi lên nhanh chóng như vậy?
Giáo dục chính là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của nước Nhật. Nhật
Bản cũng chịu ảnh hưởng của Nho giáo, tuy nhiên họ đã thoát khỏi ảnh hưởng
sâu sắc của đạo Nho để tiếp thu nền giáo dục Âu, Mỹ. Điều đó giúp họ trở thành
một trong những quốc gia phát triển vượt bậc.
-

Với hệ tự nhiên: Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, tái tạo tài

nguyên thiên nhiên và môi trường. Thông qua giáo dục, con người hiểu được
bản chất phức tạp của hệ thống môi trường thiên nhiên cũng như nhân tạo; đồng
thời trang bị cho mình những kĩ năng hành động bảo vệ môi trường một cách có
hiệu quả. Ngoài ra, thông qua giáo dục, con người sáng chế và phát minh ra
những công nghệ khoa học tiên tiến, những nguyên liệu xanh, sạch góp phần
bảo vệ môi trường, giúp hệ tự nhiên có thể phát triển bền vững.
-

Với hệ xã hội: Phát triển bền vững xã hội không thể thiếu được vai trò của

giáo dục. Để minh chứng cho điều trên, có thể liệt kê một vài biểu hiện như sau:

+

Giáo dục giúp xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Thu nhập của
người nghèo chủ yếu dựa vào sức lao động, thu nhập của họ thấp do một
phần lao động của họ kém hiệu quả, một phần do sự phân biệt đối xử trên
thị trường lao động. Giáo dục giúp mang lại kiến thức, kỹ năng giúp
người nghèo nâng cao được năng xuất lao động và có được mức thu nhập
cao hơn. Giáo dục tác động tích cực đến đời sống cá nhân, góp phần vào
việc giảm đói nghèo, giúp mỗi người tham gia vào quá trình xã hội một

cách bình đẳng nhờ nâng cao nguồn lực của người lao động.

13


+

Giáo dục góp phần giảm mức sinh và tăng cường sức khỏe. Giáo dục
đem lại cho con người những hiểu biết về khoa học, giúp cho việc phòng
ngừa bệnh tốt hơn, đem lại tác động tích cực đến sức khỏe con người. Đặc
biệt với phụ nữ, những kiến thức giáo dục mang lại giúp họ bình đẳng hơn
và nâng cao được sức khỏe sinh sản của bà mẹ và thai nhi.

+

Giáo dục giúp truyền bá các giá trị đạo đức, chuẩn mực tốt đẹp tới mọi
người. Nhờ có giáo dục, con người có nhận thức, thái độ đúng với các
chuẩn mực từ đó hình thành hành vi phù hợp; biết lên án với những hành
vi xấu, đi ngược lại với các chuẩn mực đạo đức.

Không chỉ giáo dục mà nhà giáo dục cũng giữ vai trò quan trọng trong việc
phát triển bền vững. Người trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao,
người tổ chức, dẫn dắt giúp chúng ta khám phá tri thức nhân loại; giúp ta có
nhận thức, thái độ, hành vi đúng đắn với các chuẩn mực xã hội, không ai khác
chính là nhà giáo dục. Những người mang trên mình trọng trách nặng nề, sản
phẩm của họ tạo ra chính là nhân cách con người. Nhà giáo dục là những người
dùng chính nhân cách của mình để giáo dục nhân cách của người khác. Điều đó
không cho phép họ được tạo ra phế phẩm. Rabindranath Tagore đã từng có câu
danh ngôn rằng : “Giáo dục một người đàn ông được một người đàn ông, giáo
dục một người đàn bà được một gia đình. Giáo dục một người thầy được cả một

xã hội”. Câu nói ấy càng góp phần nhấn mạnh hơn vai trò vô cùng quan trọng
của nhà giáo dục trong việc phát triển bền vững.
3. Kết luận
Tóm lại, có thể hiểu ‘‘mô hình phát triển bền vững” chính là hình ảnh khái
quát lên từ những quan điểm, tư tưởng phát triển bền vững của những cá nhân,

14


tổ chức; nhằm giúp con người định hướng về nhận thức, thái độ, hành vi trong
việc phát triển bền vững.
Ở Việt Nam và nước ngoài có nhiều mô hình phát triển bền vững của các tổ
chức, cá nhân. Tuy nhiên với quan điểm của tôi, tôi lựa chọn mô hình phát triển
bền vững của Jacobs và Sadler (1990). Vì mô hình này thể hiện rõ nội hàm của
khái niệm phát triển bền vững, phản ánh rõ nhất phát triển bền vững là miền
giao thoa giữa phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường.
Trong việc phát triển bền vững, giáo dục giữ vai trò quan trọng, đi trước, đón
đầu, đóng góp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Sản phẩm của giáo
dục- con người cũng là nhân tố chính của quá trình phát triển bền vững, là
những người trực tiếp tham gia thực hiện phát triển bền vững.
Với tư cách là những nhà giáo dục, chúng ta cần nhận thức được trách nhiệm
to lớn của mình cho sự phát triển bền vững. Vì vậy mỗi nhà giáo dục cần không
ngừng trao dồi, học hỏi kiến thức chuyên môn cũng như các ngành khoa học
khác; không ngừng trao dồi phẩm chất, nhân cách, đạo đức nghề nghiệp; luôn
tiếp thu và nắm bắt kịp thời những thành tựu của nhân loại. Có như vậy mới góp
phần đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các ấn phẩm:
1. Mai Quốc Khánh (2017), Giáo dục vì sự phát triển bền vững
2. Lê Văn Khoa, Đoàn Danh Tiến, Nguyễn Song Tùng, Nguyễn Quốc Việt,
2009, Môi trường và phát triển bền vững, NXB Giáo dục
3. Phạm Khôi Nguyên, Tạ Đình Thi, 2005. Tài nguyên và môi trường với định
hướng phát triển bền vững đất nước. Tạp chí xã hội học, số 2, trang 3-9.
4. Vũ Văn Hiền, 2013. Phát triển bền vững ở Việt Nam. Tạp chí cộng sản, số
852, trang 48- 52.
5. Phạm Xuân Hậu, Phạm Thị Thu Thủy, 2012. Giáo dục vì sự phát triển bền
vững- nội dung quan trọng trong triết lí giáo dục Việt Nam thời kì hội nhập. Tạp
chí khoa học ĐHSP TPHCM, số 39, trang 43- 49.
16


6. Nguyễn Thanh Hoàn, 2005. Giáo dục về sự phát triển bền vững- bức tranh
toàn cảnh. Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trường Đại học Sư pạm Hà Nội
Các website:
7.

/>
nguyen-rung-cua-trai-dat-gio-ra-sao--15339.htm
8.

/>
9.

/>
trien-ben-vung/

10.

/>
0.html

17



×