Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Biểu tượng văn hóa trong dân ca mông hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.72 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TĂNG THANH PHƯƠNG

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TĂNG THANH PHƯƠNG

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh

THÁI NGUYÊN - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn

Tăng Thanh Phương

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ
Văn, phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ
bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý
báu của Hội đồng khoa học giúp em hoàn thiện hơn luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn

Tăng Thanh Phương

ii



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 8
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 9
7. Cấu trúc luận văn............................................................................................ 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC........................................ 10
1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang ........................................ 10
1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học............................................ 15
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 15
1.2.2. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa trong văn học ................................. 19
Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG DÂN CA MÔNG
HÀ GIANG...................................................................................................... 25
2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong cảm quan văn hóa Mông........................... 26
2.1.1. Biểu tượng trời ...................................................................................... 26
2.1.2. Biểu tượng núi....................................................................................... 31
2.1.3. Biểu tượng nước.................................................................................... 35
2.1.4. Biểu tượng đá ........................................................................................ 40
2.2. Biểu tượng về con người trong văn hóa Mông ........................................ 45
2.2.1. Biểu tượng về người cha ....................................................................... 45
2.2.2. Biểu tượng về người mẹ........................................................................ 50

3



2.2.3. Biểu tượng về đrâu Mông ..................................................................... 54
2.2.4. Biểu tượng về gầu Mông....................................................................... 58
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
TRONG DÂN CA MÔNG HÀ GIANG ...................................................... 64
3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 64
3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ........................................................................ 64
3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu ....................................................................... 66
3.1.3. Ngôn ngữ giàu cảm xúc ........................................................................ 69
3.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông................................... 72
3.2.1. Quan niệm về thiên nhiên ..................................................................... 72
3.2.2. Quan niệm về con người ....................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên nét
vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, bộ phận dân ca của
đồng bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những nét phác họa cơ bản
giúp ta hình dung được đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển
của cộng đồng dân tộc đó từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn
dân ca đóng vai trò như một trung tâm lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn
hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng thể loại là hình thành và tồn tại
trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca cũng có nghĩa là hiểu tâm tư,
tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của dân tộc đó. Đặc biệt trong

một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số đa dạng như Hà Giang
thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các dân tộc ở đây lại càng cần được chú
trọng hơn.
1.2. Nghiên cứu biểu tượng văn hóa nhằm giải mã các thành tố văn hóa được
hình thành trong đời sống con người đã và đang là một chủ đề thu hút sự quan
tâm của giới nghiên cứu trong một vài thập kỷ gần đây. Biểu tượng là loại mã
văn hóa mà nếu muốn hiểu về một nền văn học, các nhà nghiên cứu không thể
không quan tâm. Việc hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong văn học mỗi dân
tộc chính là quá trình đi vào khám phá đặc tính văn hóa của cộng đồng dân
tộc đó được thể hiện thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Biểu tượng là một kênh
thông tin cho phép con người ở những thời đại khác nhau, những nền văn
minh khác nhau, những vùng văn hóa khác nhau có thể giao tiếp với nhau.
Việc nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa cho thấy một hướng đi triển vọng
trong việc tiếp cận tác phẩm bên cạnh những yếu tố thi pháp truyền thống.
Cách tiếp cận văn học từ văn hóa giúp phát hiện thêm những chiều kích của
tác phẩm, đẩy tư tưởng tác phẩm lên thành những vấn đề văn hóa chứ không
chỉ dừng lại ở mức văn học.

1


1.3. Trong các địa phương có người dân tộc Mông sinh sống, Hà Giang là nơi
có số lượng cộng đồng dân tộc thiểu số này đông hơn cả chiếm 1/3 số người
Mông của cả nước. Có thể nói văn hóa của cộng đồng người Mông chi phối
phần lớn văn hóa Hà Giang nói chung. Văn học dân tộc Mông có vị trí quan
trọng gần như chủ chốt với khối lượng tác phẩm tuy chưa nhiều nhưng khá
phong phú và đa dạng từ thơ, dân ca đến tục ngữ, câu đố, truyện cổ dân gian...
Nếu thiếu đi kho tàng văn học dân tộc Mông thì bức tranh văn học dân tộc
thiểu số ở Hà Giang sẽ có khoảng trống rất lớn. Không chỉ có giá trị nội dung
mà giá trị nghệ thuật của nhóm văn học dân tộc Mông cũng rất cần được quan

tâm và lý giải. Với đặc thù như vậy, việc khai thác hệ thống biểu tượng trong
dân ca của người Mông tại đây không chỉ có ý nghĩa về mặt lưu giữ văn hóa
dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy đời sống văn hóa
dân tộc Mông cũng như việc truyền bá di sản văn học của cộng đồng dân tộc
giữ vị trí chủ đạo tại mảnh đất địa đầu tổ quốc.
1.4. Lựa chọn đề tài Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang, chúng
tôi mong muốn làm dày thêm hướng đi trong việc khám phá dân ca Mông ở
Hà Giang nói riêng và khám phá văn học dân gian Mông nói chung. Tạo tiền
đề xác lập vị trí xứng đáng của văn học dân gian Mông trong công tác giảng
dạy văn học tại nhà trường phổ thông, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt
động giáo dục trong nhà trường gắn với văn học bản địa. Hiểu biểu tượng của
một cộng đồng dân tộc từ dân ca cũng là một phương thức góp phần phát triển
văn hóa thông qua những giá trị bản sắc được mở ra từ văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian Mông không phải là chủ đề mới lạ trong hướng tiếp
cận nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung. Thế nhưng khó có thể
khẳng định mảnh đất màu mỡ này đã không còn một khoảng trống nào để
tiếp tục cày xới. Mỗi bước tiến của khoa học nghiên cứu văn học sẽ đi kèm

2


theo đó là những hệ thống lý thuyết nghiên cứu mới, đây là chìa khóa mở
ra những cách cửa tiếp theo để giải mã những tác phẩm văn học mà chúng
ta tưởng chừng như đã hiểu hết về nó. Dân ca Mông ở Hà Giang là một đối
tượng như vậy.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây, các công trình sưu tầm,
nghiên cứu về thơ văn dân tộc Mông dần xuất hiện. Dấu mốc đầu tiên phải kể
đến là cuốn Dân ca Mèo [58] xuất bản năm 1967 được giới thiệu bởi nhà
nghiên cứu, sưu tầm Doãn Thanh do nhà xuất bản Văn học ấn hành. Các di

sản về dân ca Mông lần lượt được giới thiệu trong các công trình sưu tầm sau
đó như: Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, 1998) [48];
Không thương nhau sẽ khổ (Hờ A Di, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999) [9]… Bên
cạnh đó, văn học dân gian Mông cũng xuất hiện trong những công trình mang
tính chất tập hợp và giới thiệu văn học dân tộc thiểu số nước nhà như: Hợp
tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985 (Nxb Văn hóa –
1981) [34]; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Văn hóa dân
tộc, 1985) [35]… Riêng mảnh đất Hà Giang, công trình sưu tầm của nhà thơ,
nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với tập thơ Chỉ vì quá yêu [48]
và ba tập Dân ca Mông ở Hà Giang [45-47] đã đặt những viên gạch đầu tiên
cho diện mạo thơ ca dân tộc Mông ở Hà Giang nói riêng và nền văn học dân
gian Hà Giang nói chung. Nối tiếp sau đó là các công trình sưu tầm khác về
văn học dân gian Mông Hà Giang như: Những bài khèn của người Mông ở
Hà Giang (Hùng Đình Quý, Nxb Khoa học Xã hội) [49]; tập truyện cổ dân
tộc Mông Hà Giang Cháng Sí Páo mồ côi [60] (nhóm tác giả Hạng Thị Vân
Thanh, Dương Thị Phương, Giàng Thị Sến, Hội VHNT tỉnh Hà Giang)… đã
làm cho diện mạo văn học dân gian Mông ở Hà Giang dần rõ nét hơn.
Cùng với sự tìm tòi của các nhà sưu tầm, các nhà nghiên cứu cũng đã
bắt tay tạo thêm một mảnh ghép giúp thơ ca dân tộc Mông hiện lên hoàn

3


chỉnh nhất. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu về dân ca Mông
nói chung như Thơ ca dân gian H’Mông (2003) [17] của Hùng Thị Hà. Đề tài
nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang
(2003). Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông của tác giả
Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ cúng ma dân tộc Mông của tác giả
Hoàng Thị Thủy (2004). Tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca Mông Hà
Giang của Vũ Hồng Cường (2010). Luận văn thạc sĩ Tính nữ và nữ quyền

trong dân ca Mông (2013) của Nguyễn Thị Phương Hoa. Các công trình, bài
báo khoa học khác như: Tình yêu trong thơ ca dân gian Mông [25] của tác giả
Hùng Thị Hiền, Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian
Mông [19], Câu dân ca trên cao nguyên đá [20]... của tác giả Hùng Thị Hà....
Trong các công trình, đề tài, bài viết kể trên, các tác giả đã tập trung khảo sát
dân ca Mông về nội dung biểu hiện, hình thức diễn xướng và một số yếu tố thi
pháp. Các tác giả có nhắc đến biểu tượng trong dân ca Mông nhưng mới chỉ là
gợi dẫn mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể từng biểu tượng cũng như vị
trí của những biểu tượng đó trong nền văn hóa dân tộc Mông.
Một trong những công trình nghiên cứu tập trung vào biểu tượng
trong dân ca Mông là luận văn Giải mã biểu tượng lanh trong dân ca
Hmông của tác giả Đặng Thị Oanh (2006) [42]. Tác giả đi vào khảo sát
biểu tượng lanh trong dân ca Mông từ cơ sở hình thành biểu tượng lanh
trong đời sống văn hóa.
Biểu tượng trong dân ca Mông cũng được nhắc đến trong luận án của
tác giả Nguyễn Kiến Thọ Thơ ca dân tộc Hmông - từ truyền thống đến hiện
đại (2012) [64]. Tác giả đã đề cập đến biểu tượng trong sự vận động của tiến
trình thơ ca dân tộc Mông. Tác giả đưa ra những biểu tượng mang tính truyền
thống vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ ca dân gian và những biểu tượng
mới phát sinh về cuộc sống và con người dân tộc Mông trong giai đoạn lịch
sử. Từ đó, tác

4


giả đi đến kết luận thế giới biểu tượng là sợi dây gắn kết giữa truyền thống
và hiện đại trong thơ ca dân tộc Mông.
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn
hóa cũng có thêm những bước tiến mới với sự xuất hiện ngày càng phong phú
và đa dạng nhiều công trình, bài viết. Các tác giả thể hiện sự quan tâm và cho

thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu biểu tượng trong lĩnh vực văn học dân
gian này. Luận văn thạc sĩ của Trương Thị Thùy Anh Nghiên cứu biểu tượng
khèn trong dân ca Mông từ văn hóa đến văn học dân gian (2014) [1] tập trung
phân tích biểu tượng khèn và giải mã một số hướng nghĩa tiêu biểu của biểu
tượng khèn từ văn hóa đến văn học dân gian. Dưới góc nhìn văn hóa, tác giả
đã đưa ra một số hướng nghĩa cơ bản của biểu tượng khèn trong dân ca Mông:
biểu tượng vật thiêng trong nghi lễ tang ma, biểu tượng tính nam, dấu hiệu
phân biệt thế giới con người, biểu trưng cho thân phận con người, biểu trưng
cho hai trạng thái trong tình yêu. Luận văn đã khẳng định được giá trị của
nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa. Đây là sự gợi mở hết sức quý
giá cho các công trình nghiên cứu về biểu tượng trong dân ca Mông sau đó.
Hướng nghiên cứu tiếp cận văn học dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa
được đào sâu hơn qua luận án tiến sĩ Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn
hóa (2015) [18] của tác giả Hùng Thị Hà. Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca
dân gian Mông về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa.
Trong quá trình phân tích, tác giả có đề cập đến một số biểu tượng phổ biến
trong thơ ca dân gian Mông như biểu tượng cây lanh, biểu tượng cây khèn,
biểu tượng con đường, biểu tượng nước, biểu tượng hoa, biểu tượng con số,
biểu tượng bồ giáo, thắt lưng, xà cạp, khăn đội đầu, biểu tượng lá ngón, cuộn
dây, biểu tượng chiếc ô, biểu tượng con ngựa... Tuy nhiên hệ thống biểu tượng
tác giả chỉ ra mới chỉ được nghiên cứu và xem xét như là một trong các yếu tố
của phương diện cấu trúc nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông chứ chưa
phải là đối tượng nghiên cứu chính từ góc nhìn văn hóa.

5


Tiến sĩ Trần Hữu Sơn trong bài viết: Cây lanh – Biểu tượng trong văn
hóa dân gian H’Mông đã nhận định “Văn hóa dân gian tộc người Mông giàu
bản sắc, xuất hiện nhiều hệ thống biểu tượng đặc thù như biểu tượng về hệ

thống cây (có các biểu tượng cây tre, cây lanh, cây thuốc phiện, cây cỏ tranh,
ngải cứu, cây ngô, cây kê, cây quả bầu…) biểu tượng về hệ thống loài vật
(con gà, con trâu, con ngựa, con lợn, con hổ, con chó…) hoặc biểu tượng về
đồ vật ví dụ cây khèn, cái ô, tù và , cái giường …. Các biểu tượng trên có tần
số xuất hiện nhiều trong nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục tập quán và văn học
dân gian…” [51]. Từ đây có thể điểm qua một số công trình bài viết khác về
biểu tượng trong văn học dân gian Mông như: Bùi Xuân Tiệp với Bước
đầu giải mã một số biểu tượng trong lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên
dân tộc Mông [55] đã giải mã biểu tượng lanh trong lễ hội Gầu Tào và tập
trung sâu hơn vào mảng biểu tượng trong dân ca giao duyên. Trần Duy Hưng
với công trình Biểu tượng trong dân ca nghi lễ tang ma của người Mông ở Hà
Giang [28] cũng đã khai thác hệ thống biểu tượng ở mảng dân ca nghi lễ. Tác
giả Hùng Thị Hà với bài viết Biểu tượng cây lanh trong thơ ca dân gian
Mông khẳng định giá trị biểu tượng lanh trong văn hóa Mông từ dân ca [16].
Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông nói chung và
biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông nói riêng, chúng tôi nhận thấy trong
các công trình nghiên cứu về dân ca Mông, các tác giả đều khẳng định về sự
có mặt của những biểu tượng và bước đầu đã có những kiến giải về ý nghĩa
của những biểu tượng đó. Tuy nhiên, tác giả những công trình nghiên cứu trên
mới chỉ tập trung vào một số biểu tượng như biểu tượng khèn, biểu tượng lanh
mà chưa chú ý tới một hệ thống các biểu tượng phong phú khác trong dân ca
Mông. Đồng thời, các tác giả thường nghiên cứu biểu tượng như một đơn vị
riêng lẻ mà chưa đặt các biểu tượng trong hệ thống các biểu tượng cùng loại để
xem xét, đánh giá ý nghĩa biểu tượng trong đời sống văn hóa. Đặc biệt chưa


6


công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống biểu tượng văn hóa dân tộc

Mông trong dân ca Mông Hà Giang. Tuy vậy, những đề tài, bài viết kể trên là
nguồn tư liệu vô cùng quý giá và trở thành những công trình gợi dẫn cho
chúng tôi lựa chọn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang làm đề
tài luận văn của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu
3.1. Đối tượng nghiên
cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống biểu tượng văn hóa dân
tộc Mông trong dân ca Mông Hà
Giang.
3.2. Phạm vi nghiên
cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là ba tập Dân ca Mông Hà
Giang do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hùng Đình Quý sưu tầm và xuất
bản: Hùng Đình Quý, (1995), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hóa Thông tin
tỉnh Hà Giang (tập 1,2,3). Ngoài ra, trong quá trình triển khai các vấn đề của
đề tài, chúng tôi còn sử dụng các công trình sưu tầm và nghiên cứu khác về
dân ca Mông như cuốn Dân ca H’Mông, (1984), Doãn Thanh, Hoàng Thao,
Chế Lan Viên, Nxb Văn học, Hà Nội; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số
Việt Nam
1945 - 1985, (1981), Nxb Văn hóa dân tộc; Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
thế kỉ XX, (1985), Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu
4.1. Mục đích nghiên
cứu
Việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa dân tộc Mông trong dân ca Mông ở
Hà Giang nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và chức năng của hệ thống biểu
7



tượng trong dân ca Mông với việc thể hiện bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc
Mông. Từ đó, góp thêm tiếng nói vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Mông nói riêng.

8


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề
tài.
- Phân tích nội dung, ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của các biểu tượng tiêu
biểu trong dân ca Mông Hà Giang. Đồng thời, đưa ra những nhận định, đánh
giá về vai trò của hệ thống biểu tượng với việc khẳng định giá trị văn hóa
người Mông Hà Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích
các tài liệu lý luận về biểu tượng, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích
các khía cạnh để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề
nghiên cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: phương pháp này được sử
dụng để thống kê tần số xuất hiện các biểu tượng cũng như các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên
cứu.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng
để so sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu hệ thống
biểu tượng trong văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc khác để tìm ra nét
riêng bản sắc trong dân ca Mông Hà Giang

- Phương pháp điền dã văn học: phương pháp này hỗ trợ trong quá trình
tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Mông nói riêng và giá
trị văn học cổ truyền Mông ở Hà Giang nói chung.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và
phỏng vấn sâu về các vấn đề liên quan đến đề tài, đi sâu vào mục đích nghiên
cứu, gắn với thực tế tại địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn học từ góc nhìn
văn hóa cần nhìn nhận dưới quan điểm liên ngành để có cái nhìn toàn diện,
sâu
9


sắc. Có sự kết hợp với các ngành khoa học khác như: Lịch sử, Địa lí, Dân
tộc học, Nhân chủng học, Văn hóa học...
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: đặt biểu tượng trong mối vận động,
tác động qua lại trong hệ thống để khẳng định giá trị của biểu tượng.
- Phương pháp kí hiệu học: mối biểu tượng là một loại kí hiệu đặc biệt,
phương pháp kí hiệu học sẽ làm rõ hơn mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được
biểu đạt qua ngôn ngữ biểu tượng.
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn Biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang là công
trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về biểu tượng trong dân ca
Mông Hà Giang từ góc nhìn văn hóa, với mục tiêu làm rõ những nét bản sắc
của cộng đồng dân tộc Mông Hà Giang qua dân ca nói riêng, cũng như chỉ ra vị
trí, vai trò của nét bản sắc này trong cộng đồng các dân tộc sinh sống tại Hà
Giang nói chung.
- Trên cơ sở phân tích ý nghĩa của hệ thống biểu tượng trong dân ca
Mông, chỉ ra được sự cần thiết của việc đưa văn học dân gian Mông vào giảng
dạy tại nhà trường, nhất là với học sinh người Mông. Đây chính là môi trường
bảo tồn và phát huy văn hóa Mông một cách trọn vẹn nhất.

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương
Chương 1: Những vấn đề chung về dân ca Mông và biểu tượng văn hóa
trong văn học
Chương 2: Những biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông Hà Giang
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng văn hóa trong dân ca
Mông Hà Giang

10


NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CA MÔNG VÀ
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC
1.1. Vài nét khái quát về dân ca Mông ở Hà Giang
Cao nguyên đá Hà Giang là vùng đất cư trú của nhiều tộc người anh em
các dân tộc thiểu số như Mông, Tày, Lô Lô, Dao, Giấy, Nùng, Pu Péo... Tuy
nhiên, tộc người chiếm ưu thế hơn cả là dân tộc Mông, những cư dân để lại
dấu ấn đậm nét nhất trong đời sống vật chất và tinh thần tại vùng đất này.
Vấn đề tộc danh của đồng bào Mông đã được đặt ra từ trước những năm
1945. Tuy nhiên cách gọi tên và phiên âm trong Tiếng Việt hơn nửa thế kỉ qua
của cộng đồng dân tộc này không có sự thống nhất. Trước đây người Hán gọi
người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở thành tên tộc
người. Có thời gian, các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là người
Mèo. Một số văn bản và công trình nghiên cứu khác về tộc người sử dụng
cách viết H’Mông. Tại Hội nghị cốt cán năm 1978 đã chính thức gọi tên dân
tộc này là dân tộc Mông. Hội Đồng Dân tộc của Quốc Hội (khoá X) đã có
công văn số: 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2001 về việc đề nghị đọc đúng tên và
khái niệm về dân tộc, công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng

chữ phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì viết là dân tộc Mông” [5]. Với văn bản mang tính pháp quy đã
ban hành, tên gọi dân tộc Mông được coi là tộc danh chính thức. Tuy nhiên,
chúng tôi xin giữ nguyên cách viết về tên gọi dân tộc Mông trong các công
trình trước đó của các nhà nghiên cứu khi trích dẫn nguồn tư liệu trong đề tài.
Dân ca là những sáng tác có từ lâu đời. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn
học định nghĩa về dân ca như sau:“Một loại hình sáng tác dân gian mang tính
chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong

11


diễn xướng” [14;108]. Dân ca nói chung là những bài hát sinh ra từ trong lòng
nhân dân và có đời sống ngay giữa cộng đồng nhân dân đó. Với đặc trưng như
vậy, dân ca gắn liền với mọi sinh hoạt của đời sống và thể hiện nếp cảm, nếp
nghĩ của cộng đồng sáng tạo ra nó. Hầu hết các dân tộc và các địa phương đều
có những làn điệu dân ca cho riêng mình. Sự xuất hiện của những tác phẩm
dân ca của các dân tộc ít nhiều có sự khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại, mỗi
bài dân ca thường có nguồn gốc từ những điều kiện chủ yếu như phong tục
sinh hoạt, nghi lễ, điều kiện tự nhiên xã hội, hoạt động vui chơi, lao động sản
xuất. Mỗi dân tộc cư trú trên những vùng miền, những khu vực địa lý khác
nhau sẽ tạo dựng những phong tục, lối sống, phương thức lao động để tồn tại,
ngôn ngữ giao tiếp cho dân tộc mình. Cũng như vậy, quá trình ra đời các làn
điệu dân ca mang dấu ấn thời gian, không gian, phong tục, ngữ âm của từng
dân tộc.
Dân tộc Mông sở hữu một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian tương
đối phong phú bao gồm: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca,
thần thoại.... Các tác phẩm văn học dân gian ấy phản ánh thế giới quan, nhân
sinh quan và cuộc sống lao động, đấu tranh của người Mông. Nhiều tác phẩm
văn học dân gian Mông truyền từ đời này sang đời khác thực sự là những tác

phẩm văn học có giá trị cao. Nền văn học dân gian của dân tộc Mông phản
ánh chính cuộc sống của họ và phản ánh năng lực của con người trước thiên
nhiên khắc nghiệt. Nếu như truyện dân gian Mông tập trung đề cập đến mặt
trái xã hội, bênh vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao
cả. Bộ phận tục ngữ và câu đố với những nội dung phong phú thể hiện mối
quan hệ xã hội giữa người với người và giữa con người với thiên nhiên thì các
tác phẩm dân ca Mông có sức phản ánh mọi mặt của đời sống người Mông.
Dân ca Mông là một trong những di sản tinh thần độc đáo của nền văn học dân
tộc, là bộ phận tiêu biểu trong văn hóa dân tộc Mông chứa đựng nhiều giá
trị

12


nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt phần dân ca về nghi lễ phong tục phản ánh
những quan niệm về tín ngưỡng có chiều sâu nhân bản của đồng bào.
Dân ca Mông có thể coi là người anh cả trong không gian văn học dân
tộc Mông bởi sự phong phú về số lượng tác phẩm cũng như giá trị biểu đạt.
Khi điều tra về vị trí của dân ca Mông so với các thể loại văn học dân gian
khác của người Mông, kết quả khảo sát tại Hà Giang cho thấy hơn 70% người
dân lựa chọn dân ca. Điều này khẳng định trong tâm thức của người dân nơi
đây, nhắc đến dân tộc Mông thì dân ca luôn là lựa chọn đầu tiên trong không
gian văn học của tộc người này. Dân ca còn là sự tích hợp của nhiều thể loại
văn học dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ, tục ngữ, câu
đố… Không khó để tìm thấy ở dân ca Mông sự lồng ghép trong lời ca những
yếu tố văn học kể trên. Ngược lại, muốn hiểu tường tận dân ca Mông cũng
phải cần đến sự trợ lực của các thể loại văn học khác. Rất nhiều nhà nghiên
cứu như Chế Lan Viên, Nguyễn Mạnh Tiến, Doãn Thanh, Trần Hữu Sơn,
Hồng Thao... đã nhận định dân ca là thể loại nền tảng mà những mảnh vỡ từ
nó có thể cấu thành nên các thể loại văn học dân gian khác như truyện thơ,

thần thoại... Tất cả những điều này khẳng định một lần nữa vị trí của dân ca
Mông trong không gian văn học của người Mông.
Theo các tài liệu lịch sử, tài liệu dân tộc học, người Mông đến Việt Nam
vào khoảng cách đây 300 – 500 năm. Khi mới đặt những bước chân đầu tiên
vào Việt Nam, họ mang theo vốn dân ca Mông từ Trung Quốc. Phải đến một
thời gian sau đó họ mới bắt đầu sáng tác những bài dân ca mới. Các bài dân
ca Mông lúc này phản ánh một bộ mặt văn hóa mới được người Mông kiến
tạo trên mảnh đất Việt Nam. Đó là quá trình những sáng tác dân ca được phát
triển thành từ những chất liệu đầy màu sắc của cuộc sống. Theo các nhà
nghiên cứu, dân ca Mông do các nghệ nhân sáng tác tại miền núi phía Bắc
nước ta dần dần qua quá trình truyền miệng, qua thời gian, qua sự sáng tạo

13


của nhiều người mới thành bài ca hoàn chỉnh. Những người Mông đầu tiên
đến miền đất mới đã sáng tác vài điệu dân ca mô tả cuộc sống mới, kể chuyện
phong cảnh thiên nhiên. Những bài dân ca mới được bồi đắp dần qua dấu ấn
tinh thần người Mông, đi từ ý tưởng chưa hoàn chỉnh thành những bài hát
được lưu truyền trong dân gian. Dân ca Mông cứ như vậy xuất hiện trên miền
đất mới ở phía Bắc Tổ quốc Việt Nam.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, dân ca Mông được sưu tầm và truyền
bá với vai trò là các tác phẩm văn học qua việc xuất bản và giới thiệu trong
các tuyển tập sách chung về văn học dân gian và xuất bản tuyển tập dân ca
Mông nói riêng. Tập Dân ca Mèo [58] của Doãn Thanh là công trình sưu tầm
tập hợp được số lượng các bài dân ca được coi là hoàn chỉnh nhất. Khi cuốn
sách được tái bản năm 1984 với tên gọi Dân ca H’mông [59] đã được thêm
hai bài trong đó có bài Tiếng hát mồ côi được Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo
Vạc – Hà Giang. Như vậy, dân ca Mông Hà Giang đã bắt đầu được sưu tầm
và giới thiêu từ thời điểm đó. Tiếp nối sau đó từ năm 1995 đến năm 2003, nhà

thơ Hùng Đình Quý đã đi khắp những bản làn Mông ở Hà Giang và ghi lại
những bài dân ca từ trí nhớ các nghệ nhân còn lưu giữ được bằng cả tiếng
Mông và tiếng Việt. Nhà thơ đã tập hợp những bài dân ca sưu tầm được và
công bố trong tuyển tập ba tập Dân ca Mông Hà Giang [45-47] do Sở Văn
hóa Thông tin tỉnh Hà Giang xuất bản từ năm 1995 - 2003. Đây là công trình
khẳng định giá trị dân ca Mông trong kho tàng văn học dân gian Mông Hà
Giang từ số lượng tác phẩm cho đến nội dung và nghệ thuật.
Nếu như với các dân tộc vùng đất Tây Nguyên, sử thi luôn chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu trong kho tàng văn hóa thì với dân tộc Mông vị trí đó
thuộc về dân ca. Với lịch sử buộc phải di chuyển triền miên thì hình thức
truyền khẩu và lưu giữ trong trí nhớ đã giúp dân ca trở thành bộ phận giữ
được số lượng phong phú và toàn diện nhất về mọi mặt. Số lượng dân ca

14


Mông được sưu tầm tuy chưa thể nói là đã đầy đủ nhưng dựa trên những
tuyển tập mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được, chúng ta có cơ sở để nhận
định về một nền văn hóa Mông được hình thành và liên tục bồi đắp theo
những bước chân của người Mông. Dân ca được lựa chọn bởi nó gắn liền với
mọi hoạt động của người Mông. Từ ngày thường cho đến dịp lễ hội, từ khi
người Mông sinh ra cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, từ những lần làm quen
hò hẹn cho đến ngày đôi nam nữ về một nhà, tất cả đều có sự hiện diện của
dân ca. Dân ca còn giúp người Mông nói lên bao tiếng lòng mà họ không biết
tâm sự cùng ai. Tiếng hát tình yêu, tiếng hát cưới xin, tiếng hát mồ côi, tiếng
hát làm dâu, tiếng hát đám ma – Tang ca chính là những minh chứng rõ nhất
cho điều này. Chính điều đó khiến dân ca trở thành thể loại nổi trội nhất trong
kho tàng văn học dân gian Mông và rộng hơn là cả kho tàng văn hóa Mông.
Quá trình khám phá dân ca Mông là quá trình tiếp xúc với chính văn hóa
Mông qua dấu ấn tinh thần của người Mông. Những câu từ tưởng như hình

thành từ vô thức lại phản ánh rất đậm nét những dấu vết hằn lại từ bao thế hệ
để rồi cứ thế xếp chồng lên cho bề dày văn hóa dân tộc.
Người Mông là tộc người yêu ca hát, họ bỏ vào trong lời hát của mình
mọi gia vị cuộc đời mà họ nếm trải. Từng lời dân ca là từng mảnh ghép tinh
túy nhất mà người Mông đã cô đúc lại và gắn vào bức tranh văn hóa chung
của các dân tộc Việt Nam. Khi khẳng định dân ca có vai trò quan trọng nhất
trong kho tàng văn học và cả văn hóa dân gian của người Mông. Đồng nghĩa
với việc chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bóc tách được từ đó những yếu tố
thuộc về bản chất sâu sắc của tộc người. Đời sống của người Mông không bao
giờ thiếu tiếng hát, già, trẻ, gái, trai người Mông sinh ra đều làm bạn với tiếng
hát cho đến cuối đời. Dân ca trở thành ngôn ngữ chung của cả cộng đồng. Từ
hai người Mông xa lạ qua một cuộc hát đối đáp hay chỉ người này nghe người
kia hát mà họ có thể nhận ra nhau, hiểu nhau thì chắc hẳn yếu tố văn hóa

15


chính là sợi dây cho sự liên kết đặc biệt này. Mỗi thế hệ người Mông lại bồi
đắp cho dân ca những giá trị văn hóa của thời đại mình. Khi người Mông cất
tiếng hát, đem những làn điệu dân ca thực hành trong đời sống chính là họ
đang ôn lại những kinh nghiệm tổ tiên đã gửi gắm và đồng thời thực hiện việc
trao truyền những kinh ngiệm đó lại cho các thế hệ sau. Dân ca vì thế gần như
có sức sống mạnh mẽ hơn so với các thể loại khác trong đời sống hiện nay.
Tìm hiểu biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông là một bước đi cần thiết
trong quá trình xây dựng nền văn hóa dân tộc Mông bởi dân ca là phương tiện
bồi dưỡng, giáo dục thẩm mỹ cho đồng bào dân tộc. Đây là cơ sở cho việc
sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ những giá trị văn hóa, nghệ thuật tiên tiến.
Góp phần giữ gìn những phong tục, tập quán, nghi thức tốt đẹp của đồng bào
Mông nơi đây.
1.2. Biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học

1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn hóa rộng hơn văn học về khái niệm, mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái toàn thể và cái
bộ phận, giữa hệ thống và các yếu tố trong hệ thống. Do văn học nằm trong
văn hóa nên nó gắn bó hữu cơ với văn hóa. Mỗi sáng tạo văn học đồng nghĩa
với sáng tạo văn hóa, cả hai đều là kết quả hoạt động của con người, sản
phẩm của tình cảm, trí tuệ của con người. Trong mối quan hệ với văn học,
văn hóa là nhân tố chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,
toàn thể chi phối bộ phận. Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự
chi phối quyết định của văn hóa. Ngược lại, trong mối quan hệ với văn hóa,
văn học là bộ phận mang tính đại diện và có sự tác động quan trọng trở lại
đối với văn hóa.
Theo các nhà nghiên cứu, định nghĩa văn hoá đến nay đã có hàng trăm,
nhưng tựu chung lại, những định nghĩa về văn hóa thường hướng đến một số

16


nội hàm cơ bản. Văn hoá theo nghĩa rộng là tổng hoà mọi sản phẩm vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra, nó thể hiện đời sống vật chất, tinh thần,
các loại tư tưởng, phương thức tư duy, hình thức biểu đạt, mô hình hành
động, thái độ ứng xử làm cho một cộng đồng dân tộc này phân biệt với các
dân tộc khác. Văn hoá thể hiện năng lực chế ngự thiên nhiên, phương thức tổ
chức xã hội cùng chế độ điển chương dùng để phát triển nhân cách con người
và phân chia hưởng thụ thành quả xã hội. Văn hoá theo nghĩa hẹp là quan
niệm tư tưởng và quan niệm giá trị. Văn hoá là những gì tiêu biểu nhất cho
một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác thông qua yếu tố mà
chúng ta gọi là bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa có mặt trong toàn bộ hoạt
động sống của con người, thể hiện trong mọi lĩnh vực thuộc về con người như
ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… Văn

hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội và chịu sự quy định của điều
kiện kinh tế - xã hội. Văn hóa là sản phẩm trực tiếp của hoạt động tinh thần,
của ý thức con người thuộc một cộng đồng xã hội nhất định. Sự khác biệt văn
hóa xét đến cùng là do những khác biệt về môi trường sống quy định. Mỗi
nền văn hóa là kết quả của sự thích ứng của cộng đồng với môi trường để
tồn tại và phát triển.
Văn học là hình thái ý thức xã hội có chức năng kết tinh giá trị văn hóa
tinh thần của con người. Nhìn lại quá trình phát triển của văn hoá nhân loại có
thể thấy, văn học luôn mang trong mình sứ mệnh khai phá và thiết lập nên các
tư tưởng và giá trị, văn học xưa nay chưa bao giờ khư khư giữ lấy một thước
đo giá trị nào cả. Văn học có khả năng truyền cảm hứng mạnh mẽ và sức sống
lấu bền khi đi sâu vào tư tưởng, đạo đức, đời sống bên trong của con người.
Xuyên suốt quá trình phát triển ấy, văn học trước sau đều đảm nhiệm chức
năng sinh thành, phán đoán, truyền bá, biến đổi, tiêu huỷ và đổi mới các giá
trị văn hoá. Văn học mỗi dân tộc có hệ thống thể loại văn học, hệ thống thi

17


pháp, hệ thống biểu tượng đặc trưng. Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta đều
có thể nhận thấy giá trị văn hoá của nó thể hiện ở những phương diện đó. Văn
học là một thành tố trong tổng thể những thành tố của văn hóa, nó đóng vai
trò là yếu tố chủ đạo. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó
thường xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức một hệ thống văn hóa.
Là một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những yếu tố khác trong văn
hóa để phát triển. Đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù
hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải
thay đổi cùng với nó.
Trong mối quan hệ với văn học, văn hóa đóng vai trò là nhân tố chi
phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ

phận. Văn học là một bộ phận của văn hóa và chịu sự chi phối quyết định của
văn hóa. Văn hóa là nền tảng tư tưởng chi phối mạnh mẽ tới sự lựa chọn nội
dung và hình thức của văn học. Văn hóa là bối cảnh của sự sáng tạo cũng như
bối cảnh cho quá trình tiếp nhận văn học. Hoạt động sáng tạo của nhà văn hay
hoạt động tiếp nhận tác phẩm của bạn đọc đều không nằm ngoài sự bao bọc
của văn hóa. Bối cảnh văn hóa liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận và lí giải
tác phẩm. Văn hóa là nền tảng chất liệu tạo ra những đề tài, cảm hứng, nhân
vật cho văn học. Sự phân biệt văn học dân gian, văn học trung đại, văn học
hiện đại cũng dựa trên sự góp mặt không nhỏ của các yếu tố văn hóa. Văn hóa
là chỗ dựa cho những cảm hứng và tư tưởng nghệ thuật. Mỗi sáng tạo văn học
đồng nghĩa với sáng tạo văn hóa. Nói sáng tạo văn học là sáng tạo văn hóa vì
những nhà văn lớn bao giờ cũng là những nhà văn hóa lớn cho nên tác phẩm
của họ vươn tới những chuẩn mực của giá trị văn hóa. Những nhà văn lớn
luôn có ý thức nhân danh văn hóa để sáng tạo văn chương, phát minh ra những
hình thái mới của văn học nói riêng và văn hóa nói chung. Văn hóa còn gợi
nên mối quan hệ giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác, với các lĩnh
vực khác của văn hóa. Không

18


khó để bắt gặp những trường phái văn học, những câu từ được sử dụng trong
tác phẩm văn chương không phải bắt nguồn từ bản thân văn học mà được bắt
nguồn từ những loại hình nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc…
Văn hóa vì vậy là mảnh đất màu mỡ, là cội nguồn nuôi dưỡng văn học.
Trong mối quan hệ với văn hóa, văn học là bộ phận mang tính đại diện
và có sự tác động quan trọng trở lại đối với văn hóa. Văn học lựa chọn xây
dựng những mô hình nhân cách, những con người lí tưởng cho văn hóa một
cách tự nhiên, một cách thuyết phục khiến cho con người cải biến và tiếp thu
các giá trị văn hóa dễ dàng hơn. Văn học là tấm gương của văn hoá, là hình

ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn, thông qua văn học,
có thể tìm ra bức tranh văn hoá của một thời đại. Văn học giáo dục con người
bằng những câu chuyện, nhân vật điển hình… đầy lôi cuốn, thuyết phục. Văn
học luôn đánh thức những giá trị văn hóa tốt đẹp của mỗi cá nhân và rộng hơn
là của toàn xã hội. Văn học có vai trò phản biện văn hóa, lên án những hiện
tượng trái tai, gai mắt trng đời sống xã hội. Văn học xây dựng những mẫu
hình văn hóa cần phát triển, phát huy, nuôi dưỡng ý chí sáng tạo của con
người. Văn học cũng góp phần lưu giữ, lưu truyền, phát triển những giá trị
văn hóa. Sáng tạo văn hóa không nằm ngoài những nguyên lí sáng tạo văn
học nghệ thuật, đó là sự phản ánh khái quát cuộc sống con người theo những
nguyên tắc thẩm mĩ, những trào lưu, khuynh hướng cụ thể. Quá trình một tác
phẩm văn học trở thành một tác phẩm văn hóa là quá trình đi tới cái hay, cái
đẹp, cái giá trị. Nhìn nhận văn học như một bộ phận của văn hoá giúp chúng
ta lý giải văn học gắn liền với hệ thống mã văn hoá bao hàm bên trong nó như
địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… một cách toàn diện hơn.
Văn học là một bộ phận không tách rời của văn hóa và không thể hiểu
nó ngoài bối cảnh văn hóa tổng thể của một thời đại, một dân tộc. Nghiên cứu
văn học không thể không tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa. Soi chiếu dưới ánh

19


×