Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Trường ca của trần anh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.35 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

TRƯỜNG CA CỦA TRẦN ANH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

TRƯỜNG CA CỦA TRẦN ANH THÁI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KIẾN THỌ

THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các nội
dung của luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình
nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải Yến

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
tới TS. Nguyễn Kiến Thọ đã trực tiếp hướng dẫn, đã tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm (Đại học
Thái Nguyên) đã giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Tôi cũng xin
cảm ơn nhà thơ Trần Anh Thái đã cung cấp tư liệu và giúp đỡ tôi nhiệt tình
trong quá trình làm luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
quan tâm, động viên giúp đỡ tôi suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Với trình độ và kiến thức hạn chế của người viết, luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự lượng thứ và góp ý
chân thành của các thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm đến vấn
đề được tìm hiểu trong luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hải Yến

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................... 3
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................. 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu............................................................ 6
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7
NỘI DUNG .......................................................................................................... 8
Chương 1: TRƯỜNG CA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ SỰ XUẤT HIỆN
CỦA TRẦN ANH THÁI ...................................................................................... 8

1.1. Trường ca Việt Nam hiện đại ....................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm trường ca .................................................................................. 8
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại trường ca trong văn
học Việt Nam hiện đại ............................................................................. 10
1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của trường ca hiện đại Việt Nam .....................
15
1.2. Nhà thơ Trần Anh Thái với thể loại trường ca ...........................................
19

1.2.1. Tiểu sử nhà thơ Trần Anh Thái ............................................................... 19
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Trần Anh Thái ...................................... 22
1.2.3. Trần Anh Thái với thể loại trường ca ......................................................
23
Tiểu kết .............................................................................................................. 26
Chương 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG CỦA TRƯỜNG CA
TRẦN ANH THÁI ............................................................................................. 27
3


2.1. Cảm hứng chủ đạo ...................................................................................... 27

4


2.1.1. Khái niệm “Cảm hứng chủ đạo” ............................................................. 27
2.1.2. Cảm hứng chủ đạo trong trường ca Trần Anh Thái ................................ 27
2.2. Hệ thống hình tượng nghệ thuật ................................................................. 36
2.2.1. Khái niệm “Hình tượng nghệ thuật”........................................................ 36
2.2.2. Hệ thống hình tượng nghệ thuật trong trường ca Trần Anh Thái ........... 37
Tiểu kết .............................................................................................................. 52
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TRƯỜNG CA
TRẦN ANH THÁI ............................................................................................. 53

3.1. Kết cấu và thể thơ ....................................................................................... 53
3.1.1. Kết cấu .................................................................................................... 53
3.1.2. Sự phong phú, đa dạng về thể thơ ........................................................... 56
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu ............................................................................. 61
3.2.1. Ngôn ngữ độc đáo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của tác giả..................... 61
3.2.2. Giọng điệu phức hợp, đa dạng về sắc thái............................................... 63

3.3. Một số biểu tượng nghệ thuật trong trường ca Trần Anh Thái .................. 68
3.3.1. Biểu tượng lửa ......................................................................................... 68
3.3.2. Biểu tượng biển ....................................................................................... 73
Tiểu kết .............................................................................................................. 76
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 81

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Vào khoảng những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là thời kì đổi mới (sau
1986) đến nay, độc giả văn học Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển vô cùng
rộng mở và mạnh mẽ của thể loại trường ca. Tuy xuất hiện muộn hơn các thể
loại khác, song trường ca đã nhanh chóng khẳng định vị thế của mình trong nền
văn học Việt Nam hiện đại. Cũng bắt đầu từ đây trở đi, trường ca Việt Nam
bước hẳn sang một giai đoạn mới, giai đoạn tìm tòi, biến đổi ở cả hai phương
diện: nội dung và hình thức nghệ thuật.
1.2. Trường ca trước 1975 kéo dài đến 1986 (Đợt sóng trường ca lần một),
mang đậm dấu ấn sử thi và tự sự. Âm hưởng chủ đạo của trường ca giai đoạn
này là ngợi ca, tôn vinh cuộc chiến tranh của dân tộc với những tác phẩm tiêu
biểu như: Bài ca chim Chơ - rao (Thu Bồn), Theo chân Bác (Tố Hữu), Mặt
đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh),
Những người đi tới biển (Thanh Thảo)… Những thi phẩm này thực sự đã làm
thay đổi bộ mặt của trường ca nói riêng và góp phần làm phong phú thêm cho
diện mạo văn học dân tộc ở giai đoạn này nói chung. Mặc dù ở giai đoạn đầu
đã có rất nhiều những đỉnh cao nghệ thuật, song với tiềm năng thẩm mỹ vốn có
của thể loại, trường ca vẫn thu hút được không ít các cây bút trẻ tài năng ở giai
đoạn sau tham gia. Một trong số những cây bút tiêu biểu nhất đó chính là Trần

Anh Thái. Theo ý kiến của nhà nghiên cứu và phê bình văn học Văn Giá, nhà
thơ Trần Anh Thái được đánh giá là “một trong ba tác giả có những đóng góp
quan trọng cho thể loại trường ca khoảng 20 năm gần đây”. Là một gương mặt
tiêu biểu của trường ca Việt Nam hiện đại, Trần Anh Thái với bốn bộ trường ca
“Đổ bóng xuống mặt trời” (1999) “Trên đường” (2004), “Ngày đang mở sáng”
(2007), “Mỗi loài hoa một mặt trời” (2015) đã làm mới diện mạo của trường ca
Việt Nam trong những năm gần đây.
1.3. Như vậy, với sự lao động miệt mài, không ngừng sáng tạo trên hành
trình tìm kiếm và khai mở hơn nửa thập kỉ - người nghệ sĩ mang dáng vẻ
1


nghiêm cẩn, bình thản trước cuộc đời ấy đã thổi một luồng sinh khí mới cho thể
loại trường ca trong lúc nhiều người cứ ngỡ trường ca không còn mảnh đất màu
mỡ để gieo trồng và cho những vụ mùa bội thu nữa. Và nó cũng khiến cho lĩnh
vực nghiên cứu phê bình trường ca rộn ràng trở lại. Tại Đại học Văn hóa Hà
Nội ngày 18/01/2008 đã diễn ra buổi tọa đàm: Nhà thơ Trần Anh Thái với thể
loại trường ca. Hầu hết tham luận của các nhà văn, nhà thơ, nhà lí luận phê
bình đều tập trung khẳng định những thành công mà tác giả Trần Anh Thái đã
gặt hái được. Trong đó, nhà văn Văn Giá trong báo cáo đề dẫn đã viết: “Cũng
đã lâu nền thơ ca Việt Nam mới lại chứng kiến một trường ca được viết theo
cách trút tả cảm xúc và trí tuệ…” và “đây là cây trường ca số một của thế hệ
anh”. Nhà phê bình Chu Văn Sơn cũng khẳng định Trần Anh Thái là “một
trong những cây trường ca nổi bật nhất của đương đại”. Có thể nói, sự có mặt
của các tác phẩm trường ca Trần Anh Thái đã góp phần làm mới và tạo sự khởi
sắc cho thể loại này. Cũng nhờ đó mà tình hình nghiên cứu trường ca được chú
ý hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu lớn đều
tập trung khai thác thời điểm rực rỡ nhất của trường ca trong giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ với các tên tuổi lớn như: Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Thanh
Thảo, Hữu Thỉnh… Đó là những đại biểu lừng danh của nền thi ca chiến trận.

Từ những năm 90 trở lại đây, ít có công trình nghiên cứu trường ca nào được
thực hiện một cách hệ thống. Điều này ít nhiều ghi nhận một thực tế là: các cây
bút trường ca lớp sau chưa thoát khỏi cái bóng của người đi trước. Dòng chảy
liên tục tiến đến bước hoàn thiện của thể loại này chưa xuất hiện những đỉnh
cao mới. Nhưng khi nhìn lại một lần nữa bước đi của thơ ca dân tộc cũng như
vai trò to lớn của trường ca trong nền văn học nói riêng và trong dòng chảy tinh
thần của nhân loại nói chung, chúng ta càng thấy rõ hơn những đóng góp không
thể phủ nhận của trường ca Trần Anh Thái. Với tinh thần lao động nghiêm túc,
ý thức tận hiến vì nghệ thuật của người nghệ sĩ chân chính, Trần Anh Thái
xứng đáng là cây bút trường ca nổi bật nhất trong giai đoạn hiện nay. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện


và có hệ thống về trường ca của Trần Anh Thái. Với mong muốn tìm hiểu
những nét độc đáo về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật trong các
sáng tác trường ca của Trần Anh Thái để thấy được sự diễn tiến, phát triển của
thể loại trường ca nói riêng, sự phát triển của nền văn học dân tộc nói chung
đồng thời thấy được vị thế của nhà thơ trên thi đàn Việt Nam, cá nhân tôi đã
lựa chọn đề tài Trường ca của Trần Anh Thái làm đối tượng nghiên cứu cho
luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trường ca của Trần Anh Thái ra đời đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Với việc trình làng trường ca đầu tiên:
Đổ bóng xuống mặt trời, nhà thơ Trần Anh Thái đã tạo được một làn sóng phê
bình sôi nổi. Các vấn đề được đề cập đã vượt qua giới hạn về nội dung, thành
tựu của một tác phẩm, tác gia để đi tới những vấn đề về cảm hứng, kết cấu,
biểu tượng, giọng điệu chung của thể loại.
Sáng 18-1-2008, Khoa Sáng tác và Lý luận - Phê bình văn học, Đại học
Văn hóa Hà Nội đã tổ chức buổi tọa đàm thơ mang chủ đề “Nhà thơ Trần Anh
Thái với thể loại trường ca”. Đến dự buổi tọa đàm có các nhà văn, nhà thơ và

đông đảo các nhà LLPB như PGS Nguyễn Văn Long (ĐHSPHN), PGS.TS
Nguyễn Đăng Điệp, PGS.TS Nguyễn Bích Thu, PGS.TS Lưu Khánh Thơ (Viện
Văn học),…cùng sự có mặt của đông đảo giảng viên, sinh viên khoa ST và LL
- PBVH. Hầu hết các bản tham luận đều tập trung khẳng định sự thành công cả
trên phương diện nội dung lẫn nghệ thuật của trường ca Ngày đang mở sáng
nói riêng và các trường ca của Trần Anh Thái nói chung.
Khoảng một năm sau đó, vào ngày 4-6, tại Viện Văn học Việt Nam đã tổ
chức cuộc tọa đàm chung quanh cuốn “Trường ca Trần Anh Thái” do Hội
Nhà văn ấn hành vào cuối năm 2008, tập hợp ba trường ca viết trong hơn mười
năm của tác giả. Đến dự buổi toạ đàm có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên
cứu phê bình văn học, các nghiên cứu sinh, các bạn trẻ trong giới sáng tác và


đông đảo bạn đọc. Những ý kiến đưa ra trong buổi tọa đàm đều đánh giá cao
tinh thần sáng tạo, nỗ lực cách tân thể loại và những đóng góp đáng kể của tác
giả Trần Anh Thái với thể loại trường ca. Tiêu biểu là ý kiến của các tác giả
như: GS.TS Trần Đình Sử, PGS.TS Trương Đăng Dung, TS. Nguyễn Thanh
Tú, PGS.TS Ngô Văn Giá, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, PGS.TS Lưu Khánh
Thơ, PGS.TS Lý Hoài Thu… Mỗi người nghiên cứu và đánh giá trường ca
Trần Anh Thái từ một phương diện, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên hầu hết
đều có những ngợi ca đối với nhà thơ này. Những buổi tọa đàm này rất quan
trọng trong việc đưa trường ca Trần Anh Thái đến với bạn đọc và khẳng định
tài năng mới nở rộ của nhà thơ quân đội này.
Ngoài ra, rất nhiều bài báo, phê bình xuất hiện trên các Tạp chí văn nghệ
Quân đội, báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học của
Viện văn học...đề cập đến trường ca của Trần Anh Thái.
Kiều Nga (16/8/2009) có bài viết: Sự kết hợp của chữ trong trường ca
Trần Anh Thái. Trong bài viết, tác giả đã bày tỏ cảm xúc của mình khi đọc tập
Trên đường như sau:
"Những chữ cô chắt đến hết mực

Đóng đanh những chi tiết khó nhổ khỏi trái tim người đọc
Chúng đau đến rách giấy
Khốc liệt như muốn hét lên…"
Nguyễn Thị Thanh Thủy có bài viết: Giọng điệu trong trường ca Trần
Anh Thái số ra ngày 15/5/2010 đăng trên báo Tiếng việt đã có những nhật xét
rất mới: Sự "lạ hóa" giọng điệu trong trường ca Trần Anh Thái thể hiện rõ
trong sự đổi mới về kết cấu. Các trường ca của anh là những "trường ca tâm
trạng, chất chứa qua những dòng suy tư mang tính phản tỉnh của tác giả". Bởi
thế, sự suy tư, triết lý của Trần Anh Thái không khô khan, trừu tượng, mà nó là
sự cụ thể hóa tiếng nói của một cái tôi tự biểu hiện, thế nên chất suy tư, triết lý
càng sâu lắng, thấm trải hơn.


Trên Tạp chí: Nhà Văn và tác phẩm - Hội nhà văn Việt Nam có bài viết:
Tính người trong trường ca của Trần Anh Thái: "Không là những khúc hoan ca
say sưa chiến thắng, không toan tính, thù hằn giai cấp. Vượt lên trên tất cả, điều
mà Trần Anh Thái hướng đến là truy vấn, lý giải về thân phận con người, về sự
vô nghĩa của chiến tranh".
Như vậy, nhìn tổng thể, các cuộc tọa đàm, các bài báo, hầu hết đều có
những ý kiến ngợi ca và khẳng định sự sáng tạo trong trường ca của Trần Anh
Thái cũng như khả năng sáng tác ở nhà thơ miền biển này. Trên cơ sở những
bài nghiên cứu tham luận này, đã có một số luận văn trong các trường đại học
nghiên cứu về trường ca Trần Anh Thái. Có thể kể đến: Trường ca Trần Anh
Thái nhìn từ góc độ thể loại (2009) của Nguyễn Thị Thanh Thủy; Đặc điểm cơ
bản của Trường ca Trần Anh Thái (2009) của Nguyễn Thị Tuyết Anh; Phong
cách trường ca Trần Anh Thái (2012) của Bùi Thị Thủy; Làng trong trường
ca Trần Anh Thái từ góc nhìn văn hóa (2016) của Nguyễn Thị Thuấn; Hệ
thống biểu tượng trong hai Trường ca “Ngày đang mở sáng” và “Mỗi loài
hoa một mặt trời” của Trần Anh Thái (2017) - tác giả Nguyễn Lệ Quyên. Mỗi
công trình đều cố gắng chỉ ra những nét đặc trưng trong trường ca Trần Anh

Thái từ phương diện phong cách, ngôn ngữ, giọng điệu đến văn hóa.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu trường ca của Trần Anh Thái, chúng tôi
nhận thấy những bài nghiên cứu, phê bình, các bài báo mới chỉ dừng lại ở việc
nhìn nhận, đánh giá ba trường ca đầu tiên của tác giả là: Đổ bóng xuống mặt
trời (1999), Trên đường (2004), Ngày đang mở sáng (2007); những đề tài, luận
văn thạc sĩ lại tập trung đi sâu vào những đặc sắc về nghệ thuật của trường ca
Trần Anh Thái chứ chưa có đề tài nào đi sâu, tìm hiểu một cách có hệ thống,
chuyên biệt về cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của bốn tập trường
ca. Chính bởi vậy mà cá nhân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Trường ca của
Trần Anh Thái" cho công trình nghiên cứu khoa học của mình.
Mặc dù, chưa mang nhiều tính chất khái quát, hệ thống nhưng những bài
báo, công trình, đề tài của các nhà nghiên cứu, phê bình đi trước là những tài liệu
vô cùng quý báu, làm cơ sở định hướng cho chúng tôi thực hiện đề tài này.


3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi vào tìm hiểu về tác giả Trần Anh Thái; thể loại trường ca, một
số đặc điểm của trường ca sau chiến tranh. Đồng thời, chúng tôi đi sâu vào
phân tích, đánh giá những nét nổi bật và độc đáo về nội dung và nghệ thuật
trong trường ca Trần Anh Thái.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới mục tiêu tìm hiểu những nét
nổi bật về phương diện nội dung và nghệ thuật trong trường ca Trần Anh Thái.
Qua đó thấy được những đóng góp của nhà thơ đối với sự phát triển của thể
loại trường ca nói riêng, của thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ phân tích một cách hệ thống và có định hướng
những sáng tác trường ca của Trần Anh Thái để tìm ra những nét độc đáo về

phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật trong các sáng tác trường ca của
Trần Anh Thái.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Nghiên cứu loại hình tác phẩm
trường ca của Trần Anh Thái để thấy được diễn tiến của thể loại trường ca
trong dòng chảy văn học dân tộc.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Để thấy được
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong những tác phẩm trường ca
cụ thể của Trần Anh Thái.
- Phương pháp khái quát tổng hợp: giúp nhìn nhận vấn đề một cách toàn
diện.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Ngoài những phương pháp trên, luận văn còn sử dụng các phương pháp
hỗ trợ khác như: Phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp tiếp cận thi
pháp học; phương pháp tiếp cận văn hóa; phương pháp nghiên cứu liên ngành...


5. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chọn khảo sát toàn bộ 4 trường ca
của Trần Anh Thái, bao gồm: Đổ bóng xuống mặt trời (1999), Trên đường
(2004), Ngày đang mở sáng (2007) và Mỗi loài hoa một mặt trời (2015).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được triển khai làm ba chương:
Chương 1: Trường ca Việt Nam hiện đại và sự xuất hiện của Trần Anh
Thái Chương 2: Một số đặc điểm về nội dung của trường ca Trần Anh
Thái Chương 3: Một số đặc sắc về nghệ thuật của trường ca Trần Anh
Thái
7. Đóng góp của luận văn

Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn được góp thêm một cách
nhìn, cách cảm thật toàn diện và sâu sắc về trường ca của Trần Anh Thái nói
riêng, đồng thời thấy được vị thế của nhà thơ mặc áo lính trên thi đàn văn học
Việt Nam đương đại nói chung.


NỘI DUNG
Chương 1
TRƯỜNG CA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRẦN ANH THÁI
1.1. Trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.1. Khái niệm trường ca
Trong văn học Việt Nam hiện đại, trường ca là thể loại có đóng góp không
nhỏ cho sự phát triển của tư duy thơ Việt nói riêng, sự phát triển của văn học
nói chung. Là thể loại đặc biệt của văn chương, trường ca đã thu hút được sự
quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, trường ca cũng là sân khấu lí tưởng
được nhiều nhà thơ lựa chọn để trình diễn và thể hiện tài năng của mình. Tuy
đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài nhưng cho đến nay trường ca vẫn
được xem là thể loại chưa ổn định. Nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc trong Chung
quanh vấn đề trường ca cũng đưa ra nhận xét: “Trường ca là một thuật ngữ văn
học mới, chưa chính xác, chưa ổn định, để chỉ các sáng tác thơ dài”[40; tr.93102]. Chính vì là thể loại chưa ổn định nên cho đến nay người ta thật khó mà

đưa ra được khái niệm trường ca một cách chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên các
nhà lí luận, phê bình văn học cũng cố gắng đưa ra cách hiểu của mình về khái
niệm và tên gọi trường ca, song ở các điểm nhìn và góc độ khác nhau nên các ý
kiến đưa ra cũng có sự khác nhau.
Theo nhóm tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học bao gồm Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì trường ca trong tiếng Pháp là "Poème" chỉ
“những tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ
tình” [16; tr.376]. Trường ca cũng được dùng để chỉ các tác phẩm sử thi

(épopée) thời cổ và thời trung đại, khuyết danh hoặc có tác giả. Ở Việt Nam,
tên gọi "trường ca" một thời dùng để chỉ các sử thi dân gian như Đăm Săn,
Xinh Nhã, nay thường được dùng để chỉ các sáng tác thơ dài của các tác giả


như Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn, Theo chân Bác của Tố Hữu. Nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cũng đồng quan điểm với các tác giả Từ điển
thuật ngữ văn học, ông có đánh giá: "Trường ca chỉ có nghĩa là tác phẩm thơ
dài, số lượng câu thơ lớn: hàng trăm, hàng ngàn câu” [20; tr.44]. Theo nhà
nghiên cứu văn học người Nga Tynhianov, trường ca chính là độ lớn. Và nhà
nghiên cứu X. I. Kormilov cũng cho rằng: “Trường ca (tiếng Hi Lạp: Poèma sáng tác) theo quan điểm hiện đại là các tác phẩm thơ ca có dung lượng lớn và
vừa” [76; tr.9].
Như vậy, với việc xác định trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn,
tác phẩm thơ dài, các nhà nghiên cứu đã xác định khái niệm trường ca về mặt
định lượng dựa vào những dấu hiệu bề ngoài. Không dừng lại ở đó, giới nghiên
cứu còn cố gắng đi tìm một định nghĩa để chỉ ra những đặc điểm bản chất của
trường ca.
Về vấn đề này, nhà lí luận, phê bình văn học nổi tiếng người Nga
Biêlinxki đã đưa ra đánh giá: “Trong thơ đương đại có một loại tự sự đặc biệt,
nó không dung nạp văn xuôi của đời sống, nó chỉ chớp lấy những yếu tố mang
tính chất thơ, chất lí tưởng của cuộc sống mà nội dung là những chiêm nghiệm
sâu sắc nhất về thế giới và những vấn đề đạo đức của nhân loại hiện đại. Thể
loại này giữ riêng cho mình từ Poèma”[12; tr.48]. Trong cuốn tiểu luận phê bình
Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng khi chỉ ra hiện tượng nở rộ của
trường ca Việt Nam sau chiến tranh, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp có
đánh giá: “Các trường ca thường dung nạp trong nó yếu tố tự sự rõ nét, thông
qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong đời sống để trình bày những suy ngẫm
của nhà thơ về dân tộc, con người”[14; tr.77]. Nhà nghiên cứu Vũ Văn Sỹ cũng
cho rằng: Trường ca là hình thức biểu hiện lớn cái tôi trữ tình trước các hiện
tượng tinh thần của đời sống có ý nghĩa với cộng đồng”[53; tr.8]. Hoàng Ngọc

Hiến trong bài Về đặc trưng của trường ca trong khi so sánh các trường ca của
Việt Nam với trường ca trong văn học phương Tây đã nhấn mạnh “trường ca


không nhất thiết lấy sự chuyển động của các sự kiện lớn làm mạch văn, mà
thường lấy cảm xúc trực tiếp của tác giả đối với sự kiện và nhân vật là động
lực thúc đẩy mạch văn phát triển”[21; tr.56]. Nhìn vào các ý kiến trên ta thấy
các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được đặc điểm chung của trường ca, ở thể loại
trường ca có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố trữ tình và tự sự.
Như vậy, từ việc liệt kê các ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu, lí luận văn học tuy mỗi người đều đưa ra cách hiểu riêng của mình
về khái niệm trường ca song các ý kiến đều có điểm chung thống nhất đó là:
Trường ca là những tác phẩm vừa có "tầm cỡ", ''tầm vóc", lớn lao cả về hình
thức lẫn nội dung vừa có tính tự sự, tính trữ tình và yếu tố chính luận.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại trường ca trong văn
học Việt Nam hiện đại
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, thể loại trường ca ra đời và phát
triển đã đáp ứng yêu cầu của lịch sử, xã hội là phản ánh và tổng kết cuộc đấu
tranh của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược. Cùng với các thể loại khác, trường ca đã góp phần làm cho
nền văn học dân tộc phát triển toàn diện và ngày càng hoàn thiện hơn. Nhà
nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định sự xuất hiện của trường ca trong giai
đoạn 1945 -1975 là một nhu cầu tất yếu nằm trong hệ thống các thể loại văn
học Việt Nam. “Có thể nói, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 không
thiếu một thể loại nào: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, các loại kí: kí sử,
bút kí, tùy bút, truyện kí, các thể thơ: thơ tứ tuyệt, thơ trào phúng, truyện thơ,
trường ca”.
Trong nền văn học dân tộc nói chung, thơ ca nói riêng, trường ca đã có
lịch sử từ lâu đời. Trước đây, các sáng tác dân gian của các dân tộc thiểu số
mang âm hưởng anh hùng ca như sử thi Đăm Săn, Đăm Noi, Xinh Nhã,... hay

truyện thơ Đẻ đất đẻ nước đều được xem là trường ca. Đến văn học trung đại,
tuy thành tựu nổi bật của thời kì này là thơ ca, song do tính qui phạm chặt chẽ


nên các nhà thơ không thể tìm đến những thể loại mới để bộc lộ cảm xúc của
mình. Chính vì vậy các tác phẩm thuộc thể loại trường ca không có điều kiện
để xuất hiện. Bước sang đầu thế kỉ XX, quá trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc diễn ra một cách mạnh mẽ và toàn diện. Các thể loại văn học, đặc biệt là
thơ và văn xuôi đều phát triển nhanh và đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận. Nói riêng về thơ ca, sự thắng thế và ra đời của phong trào Thơ mới
(1932- 1945) đã thực sự mở ra "Một thời đại mới trong thơ ca" (Hoài Thanh),
các nhà thơ mới đã mang lại cho thơ ca dân tộc một tiếng nói mới, một hình
thức biểu đạt tự do, phóng khoáng, điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để các
sáng tác thơ dài ra đời. Nhà thơ mới tìm đến sáng tác thơ dài theo hình thức của
thể loại trường ca là Phạm Huy Thông với tác phẩm Tiếng địch sông Ô. Tuy
nhiên, ở sáng tác này mới chỉ tập trung vào việc biểu hiện cái tôi cá nhân, cá
thể riêng lẻ chứ chưa bắt rễ vào đời sống hiện thực nên chưa phản ánh được
tinh thần chung của cộng đồng dân tộc. Như vậy, thực công bằng mà nói văn
học Việt Nam đến thời kì Thơ mới vẫn chưa thực sự có tác phẩm được gọi là
trường ca đáp ứng được đặc trưng cơ bản của thể loại là khả năng khái quát,
tổng hợp, phát triển.
Trường ca Việt Nam hiện đại đã chính thức xuất hiện sau cách mạng
tháng Tám 1945. Từ chỗ xuất hiện lẻ tẻ trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
trường ca phát triển mạnh mẽ trong những năm chống Mĩ và mười năm sau
chiến tranh. Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, trường ca có sự chững lại.
Từ năm 1990 đến nay, trường ca đã xuất hiện trở lại và ngày càng khẳng định
vị trí quan trọng trong dòng chảy văn học dân tộc.
Trong Văn học Việt Nam hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu đã lấy mốc từ
năm 1945 đến năm 1965 làm giai đoạn mở đầu của thể loại trường ca. Là giai
đoạn thể nghiệm của thể loại, tuy trường ca chưa có được thành tựu gì đáng kể,

đội ngũ sáng tác còn thưa thớt, số lượng tác phẩm còn khiêm tốn, ý thức về thể
loại chưa sâu sắc, sự phân định giữa trường ca với các thể thơ trường thiên
khác


cũng chưa thật rạch ròi nhưng thể loại này đã gây được sự chú ý với sự xuất
hiện của những tác giả, tác phẩm như: Xuân Diệu với Ngọn Quốc kì (1945) và
Hội nghị non sông (1946); Khương Hữu Dụng với Từ đêm mười chín (1948);
Hà Thanh Đẩu với Việt Nam hùng sử ca (1949); Phùng Quán với Tiếng hát trên
địa ngục Côn Đảo (1954); Văn Cao với Những người trên cửa biển (1956);
Xuân Hoàng với Du kích sông Loan (1962); ...Nhìn chung, các tác phẩm kể
trên đã phản ánh được một số sự kiện nổi bật và ghi lại được hình tượng người
chiến sĩ cách mạng trong thời kì kháng chiến chống Pháp và những năm đầu
kháng chiến chống Mĩ. Tuy nhiên, ở các trường ca này giá trị nghệ thuật cũng
như tư tưởng chưa có kết tinh lớn, chưa khái quát được những đặc trưng của
thể loại trường ca. Đến năm 1964, Bài ca chim chơ - rao của Thu Bồn ra đời là
dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của trường ca Việt Nam.
Bước sang giai đoạn từ 1965 đến 1985, do nhu cầu khái quát và tổng kết
lịch sử nên nhiều nhà thơ đã lựa chọn trường ca là thể loại thích hợp để sáng
tác. Đây chính là giai đoạn trường ca Việt Nam nở rộ, phát triển mạnh mẽ và
trở thành hiện tượng văn học được chú ý trong những năm chống Mĩ và mười
năm sau chiến tranh. Dựa vào bối cảnh lịch sử, lấy năm 1975 làm mốc, có thể
chia sự phát triển của trường ca ở giai đoạn này làm hai chặng đường là mười
năm trong chiến tranh và mười năm sau chiến tranh.
Từ năm 1965 đến 1975 là thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
của nhân dân ta đang diễn ra quyết liệt và đây cũng là thời kì trường ca nở rộ.
Hàng loạt cây bút đã khẳng định được tên tuổi của mình, hàng loạt những bông
hoa trường ca khoe sắc, tỏa hương. Tiêu biểu như Lê Anh Xuân với trường ca
Nguyễn Văn Trỗi (1967); Giang Nam với Người anh hùng Đồng Tháp (1968);
Tố Hữu với Theo chân Bác (1970) và Nước non ngàn dặm (1973); Thu Bồn với

Vách đá Hồ Chí Minh (1970), Người gồng gánh phương Đông (1972) và Quê
hương mặt trời vàng (1975); Hưởng Triều với Hành trình (1971); Liên Nam
với Trên cát trắng (1973); Trần Đăng Khoa với Khúc hát người anh hùng


(1974); Nguyễn Khoa Điềm với Mặt đường khát vọng (1974);... Nếu như các
sáng tác trường ca ở giai đoạn trước phản ánh hiện thực ở độ hẹp về không
gian, thời gian và đối tượng thì đến giai đoạn này có thể nói chính sự sôi động
của đời sống kháng chiến đã giúp các tác giả trường ca đi sâu vào phản ánh
được nhiều phương diện của cuộc kháng chiến. Bên cạnh đó, các trường ca ở
chặng đường này chủ yếu là trường ca có cốt truyện nhưng chất tự sự, trữ tình,
triết lí ngày càng được tăng cường và được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau góp
phần tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Tuy nhiên, nhìn vào đội ngũ
sáng tác trường ca ở chặng đường này thì phần lớn các tác giả đều là những
người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu, họ lại viết trong hoàn cảnh chiến tranh
nên hiện thực phản ánh trong tác phẩm còn bề bộn, mới chỉ ở mức liệt kê phác
thảo, chưa thực sự đi vào chiều sâu. Nhìn chung trường ca ở chặng đường này
vẫn còn có những hạn chế nhất định về cả nội dung phản ánh và nghệ thuật
biểu hiện.
Sang chặng đường mười năm sau chiến tranh (1975 - 1985), đất nước
được giải phóng và thống nhất, các tác giả trường ca, những người đã lăn lộn
trong chiến tranh khốc liệt để đưa cuộc kháng chiến của dân tộc đi đến thắng
lợi cuối cùng, hơn ai hết họ nhận thức rõ về sự lớn lao, vĩ đại của một dân tộc,
về niềm vui chiến thắng và họ càng nhận thức rõ rằng để có được vinh quang
chiến thắng thì dân tộc ta phải đánh đổi bằng biết bao mất mát, đau thương. Với
nhu cầu khái quát và tổng kết lịch sử, trường ca viết sau chiến tranh đã bùng nổ
và phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng tác phẩm. Hàng loạt các
tác giả trường ca có lực viết dồi dào, hàng loạt các tác phẩm trường ca vừa có
dung lượng lớn, vừa chứa đựng giá trị tư tưởng sâu sắc và được đánh giá là có
giá trị nghệ thuật cao tiêu biểu như: Những người đi tới biển (1976), Ngọn sóng

mặt trời (1982), Khối vuông ru - bích (1985) của Thanh Thảo; Ba zan khát
(1976), Cam Pu Chia hi vọng (1978), O ran 76 ngọn (1980) của Thu Bồn; Sông
núi trên vai (1977), Sông Mê kông bốn mặt (1981), Điệp khúc vô danh (1983)


của Anh Ngọc; Người anh hùng đất Hoan Châu (1976), Ngày hội rạng đông
(1978) của Võ Văn Trực; Đường tới thành phố (1979) của Hữu Thỉnh; Con
đường của những vì sao (1978) của Nguyễn Trọng Tạo; Mặt trời trong lòng đất
(1979), Đất nước hình tia chớp (1980) của Trần Mạnh Hảo; Trường ca sư
đoàn (1980) của Nguyễn Đức Mậu;... Có thể nói, những sáng tác trường ca ở
thời kì này tuy vẫn chủ yếu viết về chiến tranh và cách mạng, song các tác giả
đã có những góc nhìn nhận rộng hơn, toàn diện hơn trong việc chiếm lĩnh con
người và sự kiện. Nếu các trường ca ra đời trong chiến tranh thường lấy kết cấu
sự kiện, cốt truyện và giọng điệu ngợi ca làm điểm tựa thì trường ca sau chiến
tranh lại lấy mạch ngầm tư tưởng cảm xúc làm kết cấu chính và lấy giọng điệu
suy tư, triết lí làm chủ đạo. Vì vậy trường ca sau năm 1975 ngày càng có xu
hướng nghiêng về thế sự, các nhà trường ca đã thể hiện được sự nhận thức, suy
ngẫm và triết luận của mình về các vấn đề hiện thực.
Từ năm 1986 đến nay, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới và quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, hiện thực cuộc sống và không khí thời đại đã có sự thay
đổi nhiều so với giai đoạn trước, trường ca có sự chững lại. Số nhà thơ tìm đến
trường ca để khẳng định "sức vóc" ngòi bút của mình như giai đoạn trước là
không nhiều, các tác phẩm trường ca xuất hiện cũng thưa thớt hơn. Đáng chú ý
là nhà thơ Vĩnh Quang Lê với tác phẩm Tốc độ lớn của tình yêu (1986), sau đó
trường ca đã lắng xuống trong một khoảng thời gian khá dài. Từ khoảng năm
1994 đến nay, trường ca đang có sự "hồi sinh" trở lại. Bên cạnh các tác giả đã
thành danh từ trước, có sự gia nhập của những nhà trường ca mới, ta có thể
điểm qua những tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Hữu Thỉnh với Trường ca biển
(1994); Thi Hoàng với Gọi nhau qua vách núi (1994); Nguyễn Quang Thiều
với Nhịp độ châu thổ mới (1997); Mai Văn Phấn với Người cùng thời (1999);

Hoàng Trần Cương với Trầm tích (1999); Giang Nam với Sông Dinh mùa
trăng khuyết (2000); Lê Thị Mây với Lửa mùa hong áo (2003); Nguyễn Hưng
Hải với Mảnh hồn chim Lạc (2003); Trần Anh Thái với Đổ bóng xuống mặt


trời (1999), Trên đường (2004), Ngày đang mở sáng (2007) và Mỗi loài hoa
một mặt trời (2015).; Nguyễn Anh Nông với Trường ca Trường Sơn (2009),
Gửi Bill Gates và Trời xanh (2011), Trò chuyện với cha con Cu Lập Sơn
(2012) và Lập Thành (2012);... Nội dung cảm hứng của trường ca giai đoạn
này, đặc biệt là các tác phẩm được viết trong những năm gần đây đã được
mở rộng, cảm hứng sử thi đã dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời
thường trong thời hiện đại. Một số trường ca tuy vẫn khai thác về đề tài
chiến tranh nhưng các tác giả đã có cái nhìn đa chiều về chiến tranh. Về
nghệ thuật, các tác giả đã có ý thức phá vỡ cấu trúc, không theo mô hình cấu
trúc cố định mà nhận thức và chiếm lĩnh hiện thực theo cách riêng của mình,
mở rộng trường liên tưởng, chú trọng xây dựng các biểu tượng,...
Như vậy, qua việc tìm hiểu ở trên, ta thấy trường ca Việt Nam hiện đại đã
trải qua các giai đoạn phát triển và biến đổi không ngừng để phù hợp với xu thế
vận động chung của nền văn học và đáp ứng yêu cầu tổng hợp và khái quát
hiện thực đời sống. Nhờ sự tìm tòi và thể nghiệm của nhiều thế hệ nhà thơ qua
các thời kì, trường ca đã dần dần được hoàn thiện và đang khẳng định được vị
trí quan trọng trong tiến trình phát triển của nền văn học dân tộc.
1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của trường ca hiện đại Việt Nam
1.1.3.1. Khả năng khái quát, tổng hợp
Có thể nói rằng, trường ca là bước phát triển mới của thơ trữ tình về khả
năng tổng hợp, khái quát cuộc sống, bởi nhu cầu mở rộng về dung lượng phản
ánh hiện thực. Tính chất khái quát, tổng hợp cho phép trường ca có một khả
năng phản ánh, tái hiện, chuyển tải những nội dung lớn.
V.Y vanixenkô xác định rằng, “nội dung lớn” chính là đặc trưng cốt yếu
của thể loại trường ca (Hình thức lớn thì nội dung lớn, “Tình hữu nghị các

dân tộc”, 1961, số 8). Nội dung lớn nói đến trên đây của trường ca biểu hiện ở
hai khía cạnh: nhân tố khách quan của đời sống - quy mô của thực tế được tổng
hợp trong tác phẩm, tức là quy mô bên ngoài, tạo nên tính hoành tráng của tác


phẩm; nhân tố chủ quan của nhà thơ - nhân cách của nhà thơ với những tư
tưởng tình cảm phóng khoáng, lành mạnh hết sức phong phú, những tư tưởng
có sức khái quát sâu sắc, những tình cảm bay bổng của nhà thơ. Vấn đề quy
mô hiện thực được tổng hợp trong tác phẩm chính là vấn đề lựa chọn đề tài của
nhà thơ - yếu tố đầu tiên giúp nhận biết quy mô của một trường ca. Thông
thường, đối tượng phản ánh của trường ca sẽ liên quan đến các vấn đề lớn như
đất nước, quê hương, nhân dân, người mẹ, người lính...
Tư tưởng là một yếu tố cốt lõi tạo nên tầm vóc, quy mô lớn của trường ca.
Chính tầm vóc của tư tưởng chứa đựng quy mô của trường ca. Tư tưởng là kết
quả của những quan sát, những chiêm nghiệm, những suy tưởng của tác giả
trước những vấn đề hiện thực đời sống. Nó giúp cho tác phẩm có có thể giữ
được sức sống lâu dài trong đời sống lịch sử - văn học.
Để có một hình thức tương xứng với nội dung lớn, thể loại trường ca còn
mang tính tổng hợp cả trên phương diện hình thức, từ thể thơ tới giọng điệu, hệ
thống hình ảnh, ngôn ngữ...
Một trong những đặc điểm nổi bật của trường ca là việc sử dụng kết hợp
linh hoạt sáng tạo nhiều thể thơ khác nhau trong cùng một tác phẩm để thay đổi
không khí, cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng, đơn điệu. Trong trường ca hiện đại
của Vệt Nam, các thể thơ truyền thống và hiện đại được sử dụng đan xen,
thường là thơ tự do, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ, những câu thơ văn xuôi, thơ lục bát...
trong đó thơ tự do chiếm vị trí chủ đạo, thơ văn xuôi có xu thế được sử dụng
phổ biến và bước đầu có những kết tinh nghệ thuật trong trường ca.
Cùng với sự đan xen hòa quyện linh hoạt của các thể thơ là vấn đề xây
dựng hệ thống hình ảnh nghệ thuật. Tính chất khái quát, tổng hợp của trường ca
được thể hiện trong việc nó sử dụng phổ biến hệ thống hình ảnh biểu tượng,

tượng trưng. Ví dụ, để thể hiện sức sống mãnh liệt, sự bất tử của nhân dân,
trường ca Thanh Thảo đã xây dựng hàng loạt hình ảnh biểu tưởng: “cỏ”,
“sóng”, “đất”, “cát”, “lửa”, “nước”... Trong trường ca Những người đi tới biển,
Thanh Thảo mượn hình tượng “đất” để khái quát về sự bất tử của nhân dân:


Đất nằm im như chết
Có bao giờ đất chết đâu anh
Một vấn đề đáng chú ý nữa là trường ca còn có sự phối hợp của nhiều
giọng điệu. Độ dài của trường ca đòi hỏi sự mở rộng của biên độ cảm xúc, sự
thay đổi linh hoạt các sắc thái cảm xúc, sự kết hợp của nhiều giọng trong một
trường ca. Một bản trường ca thường được ví như một bản hợp xướng nhiều
“bè”, nhiều “mảng”. Chính những cung bậc cảm xúc tạo nên tính đa giọng điệu
của trường ca.
Bên cạnh đó, một đặc điểm nữa của thể loại trường ca là khả năng tổng
hợp về thể loại. Cả nghiên cứu lí thuyết và qua thực tiễn tác phẩm đều cho thấy
rằng trường ca sử dụng tổng hợp phương thức tiếp cận của cả ba loại hình tự sự,
trữ tình, và kịch. Sự kết hợp đó chủ yếu nhằm mở rộng dung lượng, tăng cường
khả năng bao quát hiện thực của trường ca. Trong đó, các yếu tố tự sự như cốt
truyện, tính cách và hoàn cảnh, sự kiện, chi tiết, trần thuật, miêu tả... rất đậm
nét. Có những tác phẩm lại mang rất rõ tính kịch, đó là khi trường ca xây dựng
trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở
mang tính nhân loại như xung đột giữa cái thiện và cái ác, cái tốt - cái xấu, cái
cao thượng - cái thấp hèn, hiện thực - khát vọng... Cốt truyện được tổ chức dựa
trên những xung đột kịch tính, có phát sinh, phát triển, thắt nút, mở nút. Nhân
vật được tổ chức theo các tuyến đối lập. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại rõ
nét...Sự xâm nhập các yếu tố của kịch là điểm nổi bật trong các trường ca Bài
ca chim Chơ-rao, Du kích sông Loan, Kể chuyện ăn cốm giữa sân, Trường ca
Biển...
1.1.3.2. Tương quan giữa nguyên tắc tự sự và nguyên tắc trữ tình

Nguyên tắc tự sự là một đặc điểm cơ bản của trường ca. Nó gắn liền với
sự miêu tả những “hoàn cảnh bên ngoài”, sự kể lại những “biến cố bên ngoài”,
sự thuật lại “hành tung và những bước phiêu lưu” của những “nhân vật tha
nhân” (từ của Heeghen), tức là “khách”, đối lập với cái tôi của tác giả. Yếu tố
tự sự được tả và kể bằng phương thức tự sự, nhà thơ nói về những điều gì đã


xảy ra, diễn ra xong xuôi, hoàn tất và lời văn kể lại, tả lại “làm sống lại” những
điều đó. Biểu hiện của yếu tố tự sự trong tác phẩm là những hình ảnh, chi tiết,
sự kiện, nhân vật...tạo nội dung hiện thực cho trường ca.
Nguyên tắc trữ tình giả định sự hiện diện của nhà thơ trong tác phẩm và
gắn liền với sự bộc lộ chủ quan bên trong của nhà thơ. Yếu tố trữ tình được bộc
lộ bằng phương thức trữ tình. Đặc trưng của phương thức trữ tình là ở sự bộc lộ
trực tiếp những tâm tư, cảm nghĩ và tính chất trực tiếp này thể hiện ngay ở hình
tượng cái tôi trữ tình, ngữ điệu, tiết tấu, cốt cách câu thơ.
Đặc trưng cơ bản của trường ca chính là sự kết hợp giữa nguyên tắc tự sự
và nguyên tắc trữ tình. Nếu như trữ tình là phương thức biểu hiện xuyên suốt
của các tác phẩm thơ dài, yếu tố tự sự không đáng kể, không bắt buộc, không
phải là thuộc tính thì ở trường ca, trữ tình và tự sự bổ sung lẫn nhau. Trữ tình
bộc lộ chủ thể, bộc lộ những cảm xúc và suy nghĩ, tự sự phản ánh khách thể, là
miêu tả, tạo nên dáng dấp của hiện thực. Trong trường ca, sự gia tăng của yếu
tố tự sự là hệ quả của việc tăng cường chất liệu đời sống.
Trong nền văn học thế giới, trường ca hiện đại phát triển với nguyên tắc
trữ tình lấn át tự sự. Ở Việt Nam, xu thế này bộc lộ khá rõ nét trong các trường
ca viết trong khoảng mười năm sau 1975, đến giai đoạn này càng sâu sắc hơn.
Trong tác phẩm, xu hướng này bộc lộ ở sự hiện diện đậm nét của hình tượng
cái tôi trữ tình; sự giảm thiểu của yếu tố cốt truyện, nhân vật, chi tiết, sự kiện;
những cách tân về cấu trúc, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu...; hướng kết cấu tác
phẩm chủ yếu là kết cấu của tác phẩm không có cốt truyện. Tất cả những
chuyển biến trên có nguyên nhân sâu xa từ sự thay đổi quan niệm về vai trò của

nhà văn với hiện thực đời sống. Nhà văn không phải chỉ là người tái hiện
những nội dung hiện thực trong trường ca mà điều quan trọng là phải trình bày
những cảm nhận, lí giải, phân tích, suy nghiệm trước hiện thực. Hiện thực
không chỉ là đối tượng tái hiện mà còn phải là đối tượng cảm nghĩ, triết lí. Điều
cốt yếu làm nên tầm vóc của một tác phẩm trường ca là do yếu tố tư tưởng, tình
cảm quy định.


×