Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.23 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH

TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ, Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI THỜI ĐẠI NGÀY NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH

TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ, Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Ngành


: Chính trị học

Mã số

: 52310201

Chuyên ngành

: Giáo dục lý luận chính

trị

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Vân Hạnh


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Khóa
luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Vân
Hạnh. Tài liệu và số liệu trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực và
đáng tin cậy. Kết quả trong bài không trùng lặp với những công trình đã được
công bố trước đây.
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2018
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Nguyễn Thị Như Quỳnh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan........................................................
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................
7. Kết cấu của khóa luận............................................................................
Chương 1...........................................................................................................7
KHÁI QUÁT VỀ LÃO TỬ VÀ TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA.........................7
1.1. Tiền đề kinh tế chính trị- xã hội cho việc hình thành tư tưởng vô
vi của Lão Tử.............................................................................................
1.1.1. Tiền đề kinh tế.................................................................................8
1.1.2. Tiền đề chính trị.............................................................................11
1.1.3. Tiền đề xã hội................................................................................15
1.2. Sơ lược về Lão Tử và trường phái đạo gia.......................................
1.2.1.Cuộc đời và sự nghiệp của Lão Tử.................................................17
1.2.2 Nội dung cơ bản của triết học Lão Tử và trường phái đạo gia.......20
Chương 2.........................................................................................................28
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT VÔ VI CỦA LÃO TỬ............28
2.1. Khái niệm vô vi trong triết học của Lão Tử.....................................
2.2. Xã hội lí tưởng theo thuyết vô vi của Lão Tử..................................
2.4. Vô vi trong phương châm xử thế.....................................................39
Chương 3.........................................................................................................43
Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA LÃO TỬ..............................................43
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY...................................................................43


3.1. Những giá trị tiêu biểu của tư tưởng vô vi trong triết học của Lão

Tử.............................................................................................................
3.1.1. Tư tưởng vô vi của Lão Tử chưa đựng hạt nhân biện chứng sơ
khai..........................................................................................................43
3.1.2. Tư tưởng vô vi của Lão Tử chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc. .48
3.1.3. Tư tưởng vô vi của Lão Tử đề xuất một lối sống tôn trọng tự nhiên
.................................................................................................................50
3.2. Một số hạn chế trong tư tưởng vô vi của Lão Tử.............................
3.2.1. Tư tưởng vô vi còn mang yếu tố duy tâm, siêu hình....................55
3.2.2. Tuyệt đối hóa chủ nghĩa vô vi......................................................57
3.2.3. Chưa nhận thức đúng vai trò của kinh nghiệm và hoạt động thực
tiễn trong lí luận nhận thức......................................................................59
KẾT LUẬN.....................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................75


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử triết học phương Đông, triết học Trung Quốc thời kì cổ,
trung đại có một vị trí rất quan trọng. Các trường phái triết học Trung
Quốcxuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc phát triển mạnh mẽ và đạt
đượcnhững thành tựu hết sức rực rỡ. Sử sách Trung Quốc gọi thời kì này là
thời kì“Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh”, thời kì vàng son của triết
họcTrung Quốc. Chính trong thời kì này đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn
vàhình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
cáctrường phái này là luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự
nghiêncứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị đạođức của xã hội. Tiêu biểu trong các trường phái triết học Trung Quốc
cổ,trung đại là Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Âm dương gia, Pháp
gia.Trong số sáu trường phái triết học lớn này, Đạo gia do Lão Tử sáng lập ra
là một trong những trường phái triết học học giữ vai trò quan trọng và có ảnh

hưởng rất lớn đến đời sống,văn hóa, tư tưởng của dân tộc Trung Quốc.Lão Tử
là một trong những triết gia tiêu biểu của Trung Hoa Cổ đại nói riêng và triết
học thế giới nói chung, Đạo Đức Kinh là một tác phẩm lớn của triết học cổ
đại Trung Hoa, là một hệ thống tư tưởng, nhân sinh quan của Lão Tử. “Vô vi”
là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt tác phẩm, “vô vi” trong cách sống, cách hành
xử, cũng như trong phép trị nước.
Lão Tử được cho là người đầu tiên thuyết về vũ trụ, ông để lại câu:
“Đạo khả Đạo phi thường Đạo” với ngụ ý Đạo nếu định nghĩa được thì không
còn là Đạo. Ông để lại nhiều câu khiến người đời và hậu thế phải nghiêng
mình khâm phục. Quan điểm triết học của Lão Tử tuy còn sơ khai nhưng tư
tưởng của ông đã phản ánh rất đúng bản chất của thế giới khách quan. Thế
giới đó tồn tại tự nhiên, không phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên nào.
Nó không đứng yên, mà luôn vận động, biến đổi theo những quy luật vốn có


2
và do nguyên nhân ở chính bản thân nó, do sự vận động, chuyển hoá của các
mặt đối lập bên trong vạn vật. Ông luôn nhìn thế giới ở cả hai mặt chứ không
phiến diện, cứng nhắc. Đó thực sự là nền tảng khoa học cho những phương
pháp hành động cũng rất hợp lý của con người trong mọi quan hệ xã hội mà
ông đã chỉ ra trong đường lối vô vi của mình. Đầu thế kỷ 19, châu Âu bắt đầu
nghiên cứu “Đạo Đức Kinh”, các triết gia như Hegel, Heiderger, đại văn hào
Tolstoy đều rất tôn sùng Lão Tử. Tiến sỹ người Anh Needham, người hai lần
đoạt giải Nobel viết trong tác phẩm nổi tiếng “Lịch sử khoa học kỹ thuật
Trung Quốc” của ông rằng: “Trong tính cách người Trung Quốc có rất nhiều
nhân tố hấp dẫn nhất, đều có nguồn gốc từ tư tưởng của Đạo gia. Trung Quốc
nếu không có tư tưởng Đạo gia, thì cũng giống như một cây đại thụ có rễ sâu
bị mục nát. Cây đại thụ này đến nay vẫn bừng bừng sức sống”.Thời bách gia
chư tử trong lịch sử Trung Quốc là thời kỳ được đánh dấu bằng chiến tranh và
loạn ly, nhưng cũng được xem là thời kỳ vàng son của nhiều nhà tư tưởng

Trung Quốc tìm cách giải hóa vấn đề an dân lập quốc. Tư tưởng của Lão Tử
dựa vào quy luật phát triển của vạn vật để chỉ ra rằng, trị quốc nên bắt đầu từ
lúc trước khi bạo loạn, như cây to trưởng thành từ một ngọn nhỏ, tháp cao
chín tầng hình thành từ những giỏ bùn nhỏ đắp nên, hành trình nghìn dặm
cũng bắt đầu từ một bước chân. Mặt khác, tư tưởng vô vi của Lão Tử có tầm
quan trọng của đức hạnh con người và tích đức đối với tu luyện và làm người.
Mặc dù vậy, do hạn chế về lịch sử xã hội, ông đã không tránh khỏi
những lối nói thái quá hoặc diễn đạt quá ngắn gọn khiến cho người ta khó
hiểu đúng bản ý của ông. Từ đó đã gây không ít tranh cãi trong lịch sử triết
học từ trước tới nay.
Việt Nam là một đất nước phương Đông. Nhà nước Việt Nam phải có
những nét đặc thù của một Nhà nước phương Đông, tiếp thu được những lý
thuyết hiện đại về quản lý Nhà nước đồng thời kết hợp với các hạt nhân hợp
lý tư tưởng của Lão Tử, tư tưởng chính trị và triết học Trung Quốc cổ đại nói


3
chung và học thuyết vô vi của Lão Tử nói riêng là một yếu tố rất thiết thực, có
ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng vào đời sống ở Việt Nam hiện nay
Để hiểu sâu hơn, đi vào tìm hiểu những quan điểm triết học của Lão
Tử, tôi chọn đề tài “Tư tưởng vô vi của Lão Tử, ý nghĩa của nó đối với
thời đại ngày nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
* Các công trình nghiên cứu về lịch sử - xã hội - chính trị và học thuật
của Trung Hoa cổ đại
- Một công trình nghiên cứu về Lịch sử triết học xuất hiện khá sớm của
Trung Quốc và cũng sớm được dịch ra tiếng Việt của tập thể tác giả Hồng
Tiềm, Nhiệm Hoa, Uông Tử Tung, Trương Thế Anh, Trần Tú Mai, Chu Bá
Côn là cuốn Lịch sử triết học Trung Quốc do Lê Vũ Lang dịch (Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1957).

- Ở nước ta, Nguyễn Hiến Lê là một trong những người đi đầu trong
nghiên cứu lịch sử tư tưởng nói chung và triết học Trung Hoa cổ đại nói riêng.
Trước tiên là công trình lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc, cuốn Sử ký
của Tư Mã Thiên do Phan Ngọc dịch (Nxb Thời đại, Hà Nội, 2010), trong đó
Tư Mã Thiên bộc bạch phương pháp thực hiện việc làm sử là “Chỉ thuật lại
chuyện xưa, sắp đặt lại chuyện chứ không sáng tác”[18, tr.17]. Bộ sử nhắc
đến hàng nghìn nhân vật, do đó những cái tên được nhắc đến trong “Sử ký”
phải là điển hình
Tác giả Lê Giảng có cuốn Các triều đại Trung Hoa (Nxb Từ điển Bách
khoa, 2010). Trong sách, những nhân vật, sự kiện được miêu tả thông qua
những câu chuyện, qua bảng đối chiếu các niên đại. Thời Xuân thu – Chiến
quốc trong các thiên: Ngũ bá tranh hùng; Vương triều Tần; Sự phát triển của
Tần và biến Pháp Thương Ưởng; Văn hóa Tần; Một số học giả; Tần Chinh
phục lục quốc;. Tác phẩm cùng các cứ liệu lịch sử khác, sẽ là những căn cứ


4
quan trọng giúp những nhận định, đánh giá về vai trò của Đạo gia trong lịch
sử được thỏa đáng hơn.
Có thể nói, những tư liệu sử học, mà tiêu biểu là cuốn “Sử ký” của Tư
Mã Thiên là công cụ rất quan trọng để nghiên cứu về Pháp gia, bởi lẽ người ta
tìm đến với “Sử ký” như tài liệu để thẩm định khoa học do tính chân thực của
nó. Hơn nữa, những công trình này sẽ trực tiếp giúp chúng tôi hoàn thành cơ
sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời, phát triển và ảnh hưởng của trường phái
Đạo gia gia trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại.
* Các công trình nghiên cứu về nguồn gốc, sự hình thành trường phái
Đạo gia
Trước hết là cuốn Lịch sử triết học (tập 1) – Triết học cổ đại của Trung
tâm KHXH&NV Quốc gia – Viện KHXH tại TP.HCM được Nxb KHXH,
xuất bản năm 2002. Cuốn sách là công trình khoa học phản ánh sự chín muồi

trong nghiên cứu Lịch sử triết học của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa, Doãn
Chính, bởi tài liệu viện dẫn hầu hết là những sản phẩm nghiên cứu đã được
công bố của chính các tác giả này
Tiếp đến, một công trình có chung đối tượng nghiên cứu với công trình
trên là cuốn Lịch sử triết học phương Đông (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
2006) của Nguyễn Đăng Thục. Tuy nhiên, điểm đặc biệt ở công trình này là
chỉ đi sâu vào hai nền triết học lớn: Trung Hoa và Ấn Độ
Cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu của học
giả Cao Xuân Huy (Nxb Văn học, Hà Nội, 1995
Lã Trấn Vũ được biết đến là một trong những học giả nổi tiếng trong
lĩnh vực nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội của Đạo gia gia với
công trình Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc do Trần Văn Tấn dịch (Nxb,
Sự thật, Hà Nội, 1964).
Cuốn sách Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan được Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội biên dịch và xuất bản năm 2005. Mặc dù tiêu đề là


5
Nho giáo, nhưng nội dung của nó đã bàn đến vai trò của trường phái Đạo gia
trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc thời kỳ phong kiến
Ngoài ra còn có các công trình tiêu biểu của Doãn Chính viết về Đại
cương triết học Trung Quốc nội dung của nó đã bàn đến vai trò của
trường phái Đạo gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc
thời kỳ phong kiến
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu tư tưởng vô vi của Lão Tử. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với thời
đại ngày nay
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là: Khái quát về Lão Tử và phái đạo gia

Hai là: Tìm hiểu rõ nội dung của tư tưởng vô vi
Ba là. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với thời đại ngày nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng vô vi của Lão Tử
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử là chủ yếu, ngoài ra khảo
sát thêm một số tác phẩm khác của Lão Tử
Tác phẩm ra đời ở Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc, do vậy cần
khảo sát các tư liệu lịch sử liên quan đến thời kì này
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo:
- Vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Vận dụng phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với phương pháp
logic – lịch sử
Phương pháp cụ thể:
+ Thu thập, phân loại tài liệu.


6
+ Lược thuật tài liệu
+ Phân tích và tổng thuật tài liệu
+ Đọc và nghiên cứu tài liệu liên quan đến riết học, lịch sử, Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Sử học, Xã hội học, Tâm lý học, kinh tế học …
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận có kết
cấu gồm 3 chương 8 tiết:


7

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ LÃO TỬ VÀ TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA
1.1. Tiền đề kinh tế chính trị- xã hội cho việc hình thành tư tưởng
vô vi của Lão Tử
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xét đến cùng thì sự vận
động và phát triển của xã hội tuân theo quy luật tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Vì thế, khi nghiên cứu sự xuất hiện tư tưởng chính trị - xã hội cần
phải xuất phát từ chính nội bối cảnh xã hội đó. Khi mâu thuẫn giai cấp xuất
hiện, xung đột về tư tưởng xảy ra trong xã hội là sự phản ánh về cách thức sản
xuất, kết cấu và tổ chức dân cư tương ứng với điều kiện tự nhiên không còn
phù hợp nữa. Đó là cơ sở để một nhà nước mới ra đời với những thể chế, thiết
chế phù hợp với lợi ích của người cầm quyền. Trung Hoa cổ đại không thể
nằm ngoài quy luật đó.
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III Tr.CN kéo dài tới tận thế kỷ III Tr.CN. Trong hơn 2000 năm
đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Từ thế kỷ IX Tr.CN
trở về trước và từ thế kỷ VIII Tr.CN đến cuối thế kỷ III Tr.CN. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu, luận án này chỉ tập trung khảo cứu vai trò và vị thế của
Pháp gia thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770 – 221 Tr.CN), đây là thời kỳ đánh
dấu chế độ lãnh chúa mang tính chất nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến sơ
kỳ. Kể từ đây nhà Chu chỉ tồn tại về danh nghĩa, trên thực tế Thiên tử bị các
chư hầu lấn át, họ xưng bá, xưng vương ở khắp nơi, một cảnh tượng Bách gia
chư tử bao phủ suốt mấy trăm năm, lịch sử còn gọi là thời Xuân Thu - Chiến
Quốc. Cục diện này chỉ kết thúc vào năm 221 Tr.CN khi Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Hoa cổ đại.
Trong bối cảnh đó, nếu làm rõ được tình hình kinh tế, chính trị - xã hội
của Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến Quốc, sẽ lý giải được vì sao phong trào


8

Bách gia tranh minh xuất hiện, được xem là cội nguồn của các học thuyết
chính trị - xã hội, trong đó Pháp gia và Nho gia là những trường phái tiêu
biểu, đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển của xã hội Trung Hoa thời kỳ này.
1.1.1. Tiền đề kinh tế
Vào thời Xuân Thu chiến quốc, sự phát triển của triết học cổ đại bước
vào giai đoạn rực rỡ nhất, đây là thời kì tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và
chế độ phong kiến sơ kì đang lên.
Theo quan niệm của triết học mácxít: chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế, cho nên phác họa bức tranh tổng thể về kinh tế thời Xuân Thu –
Chiến Quốc sẽ trả lời được câu hỏi vì sao Pháp gia xuất hiện trên vũ đài tư
tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại là một tất yếu của lịch sử.
Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ có sự thay đổi mau lẹ về công cụ
sản xuất với cuộc cách mạng chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt gắn liền với sức
kéo bằng trâu, bò thay thế sức người. Từ kỹ thuật sản xuất thay đổi, kéo theo
sự thay đổi về cách thức tổ chức lao động.
Trước hết, đó là vấn đề sở hữu ruộng đất, lúc này ruộng đất công không
còn được chia theo chế độ“tỉnh điền” nữa, [“tỉnh điền” vốn được áp dụng từ
thời nhà Thương với phương thức sở hữu vừa tư vừa công, theo đó trong một
đơn vị ruộng đất được chia làm 9 phần (theo hình chữ “tỉnh”), nhà nước giao
cho nông dân 8 mảnh, còn phần đất ở giữa là đất công, các hộ có sở hữu xung
quanh có trách nhiệm cùng nhau cày cấy và nộp sản phẩm làm ra từ mảnh
ruộng này để nộp cho nhà nước (gọi là phép “trợ”)]. Ruộng đất công được
giao cho các gia đình nông nô canh tác lâu dài, người nông dân nhờ đó có thể
luân canh ổn định trên mảnh đất của mình, hay còn gọi là chế độ “tư điền”
[“tư điền” là hình thức sau khi giao ruộng đất cho nông dân, nhà nước đánh
thuế trên từng mẫu ruộng (gọi là thuế “sơ mẫu”)]. Cũng do nhu cầu sản xuất
nông nghiệp, chiến tranh mà các nghề sắt, rèn, đúc trở nên hưng thịnh. Những
vật dụng như: lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao; những vũ khí phục vụ cho chiến



9
tranh được luyện từ sắt… được sử dụng phổ biến. Sử nước Lỗ ghi chép: Cuối
thời Xuân Thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt lớn đến 300 người thụt bễ, đổ
than. Nước Tấn trưng thu sắt để đúc đỉnh hình… [13, tr.242].
Chính sách sở hữu thay đổi, công cụ sắc bén đã giúp cho việc khai
hoang nhân rộng, làm cho ruộng đất tư ngày một nhiều, bọn quý tộc cũng nhờ
đó mà tìm cách chiếm dần đất công để biến thành đất tư.
Cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, các ngành
thương nghiệp cũng phát triển theo, làm cơ sở cho sự hình thành một tầng lớp
quý tộc mới, đó là hạng thương nhân giàu có và ngày càng có thế lực, có thể
kể đến một số đại biểu như: Bão Thúc Nha - Quản Trọng (nước Tề), Huyền
Cao (nước Trịnh), Tử Cống (vốn là học trò Khổng Tử ở nước Lỗ), … những
người này kết giao với các chư hầu, đại phu, hoặc chuyển hẳn sang hoạt động
chính trị nên họ có thanh thế trong xã hội đương thời.
Sự xuất hiện giao thương đã đem lại cho xã hội hệ quả mang cả ý nghĩa
tích cực và tiêu cực: thứ nhất, hình thành nên hệ thống các trung tâm
thương nghiệp với số lượng và chủng loại hàng hoá ngày càng nhiều; thứ
hai, trong sự biến chuyển đó đã đánh dấu sự lên ngôi của một tầng lớp mới
trên vũ đài chính trị, nó có tầm ảnh hưởng ngày càng mạnh và đang có xu
hướng leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ, đặc biệt là đầu
thời Chiến Quốc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn taị và phát triển từ triều
đại nhà Hạ, qua nhà Thương, đến cuối thời Tây Chu thì bước qua thời kì
khủng hoảng và càng ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc bước vào
thời kì giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trưởng, giá trị tư
tưởng đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhưng các giá trị tư tưởng mới còn
manh nha và đang trên con đường xác lập. Sự biến đổi toàn diện về kinh tế,
chính trị xã hội thời đại này đã tạo nên tiền đề cho sự giải phóng con người,



10
thoát khỏi thế giới quan thần thoại tôn giáo, thần bí truyền thống, ảnh hưởng
sâu sắc đến quá trình phát triển của tư tưởng triết học
Ở thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ
đồng sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo cày đã trở nên phổ biến. Phát
minh mới về kĩ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ
mới trong việc cải tiến công cụ và kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. Thời kì này
hệ thống thủy lợi đã rải khắp khu vực Trường Giang. Diện tích đất đai canh
tác nhờ đó được mở rộng. Kĩ thuật trồng trọt cũng được cải tiến, tạo điều kiện
tăng năng suất trong lao động nông nghiệp. Từ đó người ta thấy không cần
thiết phải chia lại ruông đất theo định kì căn cứ vào đất tốt hay đất xấu như
trước nữa. Giờ đây công xã đã giao hẳn đất công cho những người nông nô,
cày cấy trong thời hạn lâu dài. Vì vậy, nông dân có thể dùng phương pháp lưu
canh hay luân canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác nhờ công cụ bằng
sắt xuất hiện và thủy lợi mở mang, ruộng đất do nông nô vỡ hoang biến thành
ruộng tư ngày một nhiều. Bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần ruộng
của công xã làm ruộng tư. Chế độ tịch điền dần tan rã.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, việc mở rộng quan hệ
trao đổi sản phẩm lao động,sự phân công trong sản xuất thủ công nghiệp cũng
đã đạt được mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy một loạt các ngành thủ
công nghiệp phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc,
nghề làm đồ gốm..
Thưong nghiệp cũng phát triển hơn trước. Trong xã hội đã xuất hiện và
hình thành một tầng lớp thương nhân giàu có ngày càng có thế lực như Huyền
Cao nước Trịnh, Tử cống vốn là học trò của Khổng Tử..Thương nhân đã có
người kết giao với chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đến
chính trị đương thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã hội đang rối ren, phương tiện
giao thông thô sơ, lãnh thổ chia năm xẻ baỷ do nạn chư hầu cát cứ đi lại rất
khó khăn, nên việc kinh doanh đòi hỏi phải do những người tháo vát có đầu



11
óc thông minh và lòng quả cảm đảm đương. Hơn thế buôn bán ở Trung Quốc
thời bây giờ bị coi là rẻ mạt nhất, theo quan điểm “nông bản thương mạt”, nên
nó cũng chưa thực sự phát triển. Nhưng sự trưởng thành của thương nghiệp
buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới. Từ tầng lớp
này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm
cách leo lên tranh giành quyền lực
1.1.2. Tiền đề chính trị
Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới
tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của
Trung Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến. Dưới
thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được cho là như
vậy) vị vua nhà Chu.
Cần lưu ý rằng vua và hoàng đế không phải hoàn toàn như nhau. Vị vua
nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất mà
họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công
tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với
nhà vua và triều đình cai trị, trong trường hợp này là nhà Chu. Vị vua nhà Chu
không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình. Thay vào đó, sự
trung thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực cho ông ta.
Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút. Vị hoàng
đế đầu tiên của Trung Quốc thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn
tới một vị vua ít quyền lực và một tình thế hỗn loạn. Vì vậy, ông đã dựng lên
một Trung Quốc với một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào lòng
trung thành của các quận công địa phương.
Sau khi kinh đô bị các bộ tộc rợ phía tây cướp bóc, Chu Bình chạy sang
phía Đông. Trong khi rút chạy từ thủ đô phía tây về phía đông, vị vua Chu nhờ
các vị vương hầu ở gần đó là Tần, Trịnh và Tấn bảo vệ khỏi các rợ và các vị
vương hầu phản loạn. Ông dời đô thành của Chu từ Cảo Kinh (nay thuộc Thiểm

Tây)đến Lạc Ấp (nay thuộc Lạc Dương) ở châu thổ sông Hoàng Hà.


12
Vị vua trốn chạy nhà Chu không có được vị trí chắc chắn trên vùng
lãnh thổ phía đông; thậm chí cả lễ lên ngôi của thế tử cũng phải nhờ sự trợ
giúp của các vị vương hầu trên mới diễn ra được. Với sự sút giảm lớn về đất
đai, chỉ còn giới hạn ở Lạc Dương và các vùng xung quanh, triều đình Chu
không còn có thể duy trì sáu đội quân thường trực. Các vị vua nhà Chu tiếp
sau cần sự trợ giúp của các chư hầu hùng mạnh xung quanh để bảo vệ họ khỏi
các cuộc cướp bóc và để giải quyết các cuộc tranh giành quyền lực bên trong.
Triều đình nhà Chu không bao giờ còn lấy lại được quyền lực trước đó của
họ; họ chỉ còn đơn thuần là một triều đình bù nhìn của các chư hầu phong
kiến. Mặc dù nhà Chu trên danh nghĩa vẫn đang nắm Thiên Mệnh, danh hiệu
không hề có quyền lực.
Vị quý tộc đầu tiên giúp đỡ các vua nhà Chu là Trịnh Trang Công (ở
ngôi 743 TCN - 701 TCN). Ông là người đầu tiên lập lên một hệ thống bá chủ
với ý định giữ lại hệ thống phong kiến cũ. Các nhà sử học xưa biện hộ rằng hệ
thống mới là một phương tiện để bảo vệ các chư hầu văn minh yếu hơn và
triều đình nhà Chu khỏi phải chịu sự cướp phá của các bộ tộc “rợ” nằm bao
quanh (mà người Trung Hoa thường gọi miệt thị là Bắc Địch; Nam Man, Tây
Nhung, Đông Di
Tuy nhiên, tất cả các chư hầu được cho là “văn minh” thực tế gồm một
phần pha trộn đáng kể các tộc người; vì thế không có đường biên giới rõ ràng
giữa các chư hầu “văn minh” và các “rợ”. Tuy nhiên các bộ tộc với sự khác
biệt về dân tộc và văn hoá đó lại có một nền văn minh duy nhất của họ ở một
số vùng. Một số nhóm dân tộc về thực chất lại có sức mạnh và được văn minh
hoá theo các tiêu chuẩn Trung Quốc tới mức những thực thể chính trị của họ,
gồm cả Ngô và Việt, thậm chí được gộp trong một số liên minh của Ngũ Bá.
Các chư hầu hùng mạnh mới nổi lên thực lòng muốn giữ sự ưu tiên

dòng dõi quý tộc hơn hệ tư tưởng truyền thống là giúp đỡ các nước yếu hơn ở


13
thời hỗn loạn, điều này vốn đã từng được truyền bá rộng rãi ở thời đế quốc
Trung Quốc để củng cố quyền lực vào tay gia đình cai trị.
Các vị chư hầu Tề Hoàn Công (ở ngôi 685 TCN -643 TCN) và Tấn Văn
Công (ở ngôi 636 TCN - 628 TCN) còn đi xa hơn trong việc thiết lập hệ thống
cai trị lãnh chúa, nó mang lại sự ổn định nhưng chỉ trong những khoảng thời
gian ngắn so với trước kia. Các vụ sáp nhập tăng lên, mang lại lợi ích cho
những chư hầu hùng mạnh nhất gồm Tần, Tấn, Tề và Sở. Vai trò của lãnh
chúa ngày càng có chiều hướng rời xa khỏi mục đích ban đầu là bảo vệ các
chư hầu nhỏ hơn; cuối cùng lãnh chúa đã trở thành một hệ thống quyền bá
chủ của các chư hầu lớn đối với các nước vệ tinh yếu hơn ở Trung Quốc và
đối với cả những vùng có nguồn gốc “rợ”. Các chư hầu lớn thường lợi dụng
lý do giúp đỡ và bảo vệ để can thiệp và kiếm lợi từ các nước chư hầu nhỏ khi
xảy ra xung đột nội bộ ở các nước đó. Đa phần các vị bá thời sau này đều bắt
nguồn từ các chư hầu lớn thời đó. Họ tự tuyên bố mình là vị chúa tể trên lãnh
thổ của họ, thậm chí còn không cần công nhận tính tượng trưng nhỏ mọn của
nhà Chu. Việc thiết lập hệ thống hành chính địa phương (châu và quận), với
các quan chức được chỉ định bởi chính phủ, tạo cho các chư hầu khả năng
kiểm soát lớn hơn với lãnh địa của mình. Việc thu thuế nông nghiệp và
thương mại cũng dễ dàng hơn so với kiểu phong kiến trước đó.
Ba nước Tần, Tấn và Tề không chỉ tự tăng cường sức mạnh của mình
mà còn đẩy lùi chư hầu ở phía nam là Sở, các vị lãnh chúa ở đó tự phong
mình làm vua. Quân đội Sở dần dần xâm nhập vào lưu vực sông Hoàng Hà.
Việc coi Sở như là “rợ phương nam” (Sở Man), đơn giản là một lý do để cảnh
báo Sở không được can thiệp vào tầm ảnh hưởng riêng của họ. Những sự xâm
nhập của Sở nhiều lần bị chống trả với ba trận đánh lớn ngày càng tăng về
mức độ bạo lực - trận Thành Bộc (632 TCN), trận Bi (595 TCN) và trận Yên

Lăng (575 TCN); điều này dẫn tới sự hồi phục của các chư hầu Trần và Thái


14
Ở thời này một hệ thống quan hệ phức tạp giữa các chư hầu được phát
triển. Một phần nó được cấu trúc theo hệ thống phong kiến của Tây Chu
nhưng các yếu tố thực dụng được tăng cường. Một sự tập hợp các tiêu chuẩn
và giá trị thông thường của các chư hầu, có thể gọi một cách không chính xác
lắm là Luật quốc tế đã xuất hiện. Khi các vùng ảnh hưởng và vùng văn hoá
của các chư hầu mở rộng và giao nhau, các cuộc chạm trán ngoại giao cũng
tăng lên.
Sau một giai đoạn tăng trưởng chiến tranh ở mọi góc độ, Tề, Tần, Tấn
và Sở cuối cùng đã gặp gỡ ở một hội nghị giải giáp vũ khí năm 579 TCN, các
nước khác hầu như trở thành các nước vệ tinh (nước phụ dung). Năm 546
TCN, Tấn và Sở đồng ý ngừng chiến với nhau.
Sau một thời gian tương đối yên ổn trong thế kỷ thứ 6, hai nước chư
hầu ven biển ở vùng Triết Giang ngày nay là Ngô và Việt, dần dần mạnh lên.
Sau khi đánh bại và trục xuất vua Phù Sai nước Ngô, vua Câu Tiễn nước Việt
(kh. 496 TCN-465 TCN) trở thành vị bá chủ cuối cùng được công nhận.
Thời kỳ hoà bình này chỉ là một sự mở đầu cho một tình trạng rối loạn
của Thời chiến quốc. Bốn chư hầu mạnh đang ở giữa cuộc tranh giành quyền
lực. Sáu họ chiếm hữu đất đai lớn ở Tấn tiến hành đánh lẫn nhau. Họ Trần
đang loại trừ các đối thủ chính trị ở Tề. Tính chính thống của những kẻ cai trị
thường không được thừa nhận trong các cuộc nội chiến với sự tham gia của
nhiều thành viên thuộc gia đình hoàng gia ở Tần và Sở. Một lần nữa những kẻ
tranh giành đó lại củng cố vững chắc vị trí của mình tại lãnh thổ riêng, sự
chém giết giữa các nước tiếp tục trong Thời chiến quốc. Thời Chiến Quốc
chính thức bắt đầu vào năm 403 TCN khi ba họ lớn nhất ở Tấn là Triệu, Nguỵ
và Hàn phân chia đất nước; triều đình bất lực nhà Chu bắt buộc phải công
nhận quyền lực của họ.Từ đây hình thành các phái triết gia khác nhau, họ có

quan điểm khác nhau về tự nhiên và xã hội, học thuyết vô vi của Lão Tử cũng
được hình thành từ đây.


15
1.1.3. Tiền đề xã hội
Nếu như thời Tây Chu (từ thế kỷ XI – VIII Tr.CN), chế độ tông pháp
“phong hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa
ràng buộc về huyết thống, tức “Thiên tử” có quyền phân phong đất đai, chức
tước cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để duy trì cơ nghiệp, thì
đến thời Xuân Thu chế độ này không còn được tôn trọng, Thiên tử nhà Chu
không còn các quyền phán xét về việc xâm lấn, thôn tính lẫn nhau giữa các
chý hầu. Khổng Tử phải thốt lên rằng: bồi thần, lễ, nhạc, chinh phạt… không
còn ban ra từ Thiên tử mà ban ra từ các nước chư hầu.
Trong xã hội cảnh tôi giết vua, cha con hại nhau, vợ chồng chia lìa
thường xuyên xảy ra, tới mức vua nước Tề là Tề Cảnh Công đã phải cay đắng
thừa nhận: Nếu như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con
chẳng ra con, dẫu ta có lúa (đầy kho), ta có thể ngồi mà ăn được chăng? [10,
tr.483-484].
Sự suy đồi của tầng lớp quí tộc trong xã hội như trên chứng tỏ hệ tư
tưởng dựa trên nền tảng của Chu Lễ mà người sáng lập Nho gia là Khổng Tử,
chủ trương của Nho là “Ngô tòng Chu” đang ngày càng trở nên bất cập,
không còn đủ sức duy trì trật tự xã hội, đồng thời đòi hỏi phải có một hệ lý
tưởng mới có đủ khả năng quản lý và điều hành xã hội.
Xuân Thu cũng là thời kỳ mà người dân phải gánh nhiều nghĩa vụ: sưu
thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Đây cũng là thời kỳ mà nạn cướp bóc nổi
lên khắp mọi nơi khiến đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Lao dịch, cướp
bóc, chiến tranh… khiến dân lưu vong, đồng ruộng bỏ hoang, tạo ra một
khung cảnh xã hội điêu đứng, người người phẫn uất. Trong khi đó, các vương
hầu, lãnh chúa quý tộc lại sống rất xa hoa. Họ xây cất cung điện nguy nga,

như cung Bồng Đế của vua Tấn rộng đến mấy dặm, trong cung chen chúc
cung nữ (Tả truyện, Chiêu Công năm thứ ba). Hai bức tranh đối lập xuất hiện
trong xã hội, một bên là thế lực cầm quyền với quyền hành vô độ và ăn chơi


16
sa đoạ, một bên là cảnh cùng cực của dân chúng, điều đó càng thúc đẩy mâu
thuẫn xã hội nhanh chóng đạt tới đỉnh điểm.
Thêm vào đó, bao phủ thời Xuân Thu - Chiến Quốc là khung cảnh
chiến tranh. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm (770 – 475 Tr.CN) thì sử
nước Lỗ ghi được tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ, trung bình cứ mỗi năm
diễn ra hai cuộc sát chiến lẫn nhau. Tốc độ thôn tính giữa các nước cũng rất
nhanh, nếu như đầu thời Tây Chu có hàng nghìn nước thì sang thời Xuân Thu
chỉ còn hơn một trăm nước (chỉ trong khoảng 2 thế kỷ). Nếu năm 403 Tr.CN,
mới chỉ có Hàn, Triệu, Ngụy là các chư hầu thay nhau mượn danh thiên tử để
thảo phạt nước khác với mục đích tranh dành ảnh hưởng và mở rộng đất đai,
để bá chủ thiên hạ thì đến cuối thời Xuân Thu đã hình thành nên cục diện
“thất hùng” Tiền thân của “Thất hùng” là “Ngũ bá” gồm: Hoàn Công nước
Tề, Văn Công nước Tấn, Mục Công nước Tần, Trang Vương nước Sở. Về sau
có thêm Ngô Vương Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn, lúc này chính thức tạo
nên “Thất hùng” phân phong cương vực. Ở phía Tây Hàm Cốc Quan có nước
Tần, phía Đông có 6 nước là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt thường gây chiến
tranh với quy mô lớn và tàn khốc hơn thời Xuân Thu, thay nhau làm bá chủ
thiên hạ. Sở dĩ họ mạnh lên là nhờ đã dùng phép trị nước theo “bá đạo”, tức
đạo của các nước chư hầu, dùng sức mạnh bạo lực, áp bức. Đây là chính sách
cai trị trái ngược hẳn với lễ giáo nhà Chu là “vương đạo”, lấy đạo đức nhân
nghĩa để thu phục và cảm hóa lòng người. Như vậy, xét về tiến bộ lịch sử thì
những lãnh chúa trên đã rất thức thời, họ biết kết hợp đường lối cai trị với
phát triển kinh tế và quân sự để có nước hùng, quân mạnh. Điều này càng
được thể hiện rõ ở cuối thời Chiến Quốc, họ đã phát triển đất nước mình

thành các quốc gia độc lập.
Khi cục diện Chiến Quốc hình thành, những thủ đoạn và chính sách
ngoại giao về quân sự để đối phó lẫn nhau cũng được ra đời, đó là thế “hợp
tung” và “liên hoành”. Trong đó, Tô Tần (Thế kỷ IV Tr.CN, người Lạc


17
Dương) đã đề xuất thế “hợp tung”, tức hợp nhiều nước yếu để đánh nước
mạnh và Trương Nghi (Thế kỷ IV Tr.CN, người nước Ngụy) đề xuất thuật
“liên hoành”, tôn trọng một nước mạnh để đánh nước yếu. Với chính sách
quân sự này, nước Tần là một trong các “thất hùng” có uy tín lớn nhất.
Nguyên nhân để dẫn tới nước Tần hùng mạnh và có uy tín nhất được lý
giải là vào năm 362 Tr.CN, Tần Hiếu Công lên ngôi, vị vua này đã được sự
trợ giúp của nhà cải cách Thương Ưởng (trong khoảng thời gian từ 359 – 349
Tr.CN). Tần Hiếu Công làm cuộc cách mạng trên các lĩnh vực: kinh tế, tổ
chức hành chính, pháp luật, tiền tệ, thuế khoá, chế độ khen thưởng, quan hệ
gia trưởng… cuộc cách mạng này đã đập tan cơ cấu xã hội theo kiểu công xã
nông thôn ở nước Tần. Thêm vào đó với đề xuất “hợp tung”, nước Tần đã
nhận được sự trợ giúp của các nước yếu
Như vậy, nhờ những cải cách xã hội hợp lý mà vua Tần có được thiên
hạ, đồng thời chấm dứt cảnh hỗn chiến suốt mấy trăm năm. Sự thống nhất
toàn Trung Hoa khi đó đã đánh dấu chuyển biến xã hội từ cát cứ phân phong
sang phong kiến sơ kỳ theo hướng trung ương tập quyền, kiến tạo nên một
chế độ quân chủ chuyên chế đầu tiên ở Trung Hoa. Biến cố lịch sử này cũng
đã đánh dấu sự thay đổi lớn trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó
gắn liền với một hệ tư tưởng mang màu sắc triết học có ảnh hưởng lớn thời
bấy giờ là Đạo gia
1.2. Sơ lược về Lão Tử và trường phái đạo gia
1.2.1.Cuộc đời và sự nghiệp của Lão Tử
Từ lâu, các sử gia đã lọc những sự kiện thực tế ẩn sau sau sự phát triển

của đạo Lão. họ đã thống nhất một số quan điểm về nguồn gốc khởi thuỷ và
vai trò của những người sáng lập nền tảng của Lão học. Mặc dù vậy, do sự
khác biệt trong cách nhận thức của con người về các sự kiện lịch sử cũng như
do chính bản chất vi diệu của Đạo, nhiều vấn đề của đạo Lão vẫn chưa được
làm sáng tỏ.


18
Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đam., người
làng Khúc Nhân, hương Lệ, huyện Hỗ nước Sở. Ông có thời làm quan sử, giữ
kho chứa sách của nhà Chu. Với cương vị ấy, Lão Tử có cơ hội tiếp xúc với
các bản văn cổ cũng như các tác phẩm vĩ đại đương thời, xây dựng vốn hiểu
biết uyên thâm đối với kho tàng tri thức từ thời Hoàng Đế (2697 TCN) cho
đến thời của ông. Lão Tử trao dồi đạo đức, học thuyết của ông cốt ở chỗ giấu
mình, ẩn danh.
Theo Sử kí, Lão Tử là người sống cùng thời với Khổng Tử. Khi Khổng
Tử qua Chu, đã hỏi Lão Tử về lễ. Lão Tử ở nước Chu đã lâu, thấy nhà Chu
suy, bèn bỏ đi. Đến cửa quan, viên quan coi cửa là Doãn Hi bảo: “ông sắp đi
ẩn, rán vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão Tử viết một cuốn gồm hai thiên
thượng và hạ, nói về ý nghĩa của “Đạo” và “Đức”, được trên năm ngàn chữ.
Không ai biết chết ra sao, ở đâu. Lão Tử là một triết gia lớn, ở thời nào cũng
được dân tộc Trung Hoa tôn trọng. Vậy mà chúng ta không biết gì chắc chắn
về đời ông, cả về tác phẩm bất hủ mang tên ông nữa. Nhưng thiết nghĩ điều
đó cũng không thật sự quan trọng. Bởi việc chúng ta cố công tìm ra Lão Tử là
ai, sống ở thời nào, thọ bao nhiêu tuổi, làm gì… cũng sẽ không làm thay đổi
giá trị tác phẩm của ông. Đối với hậu thế, Lão Tử mãi mãi là một triết gia lớn,
con người đáng kính trọng vì giá trị tư tưởng mà ông để lại cho nhân loại
Về mặt học thuyết, Lão Tử cho rằng Đạo là bản thể của vũ trụ, là nguồn
gốc của muôn sự sinh thành và tạo hoá. Đạo là thực tại tuyệt đối và huyền
diệu, có từ trước khi khai thiên lập địa, nằm ngoài mọi danh sắc và hình tướng

Đạo Đức Kinh chứa đựng nhiều tư tưởng sâu xa, chứa đựng triết lý
tinh hoa của Đạo gia. Kinh được viết theo thể thơ tự do, tiết điệu phóng
khoáng, ý tưởng như phát thẳng từ tâm mà ra, câu cú đối nhau vanh vách. Có
lẽ do tư tưởng trong kinh quá uyên thâm, văn từ cổ kính và rất hàm súc nên
mỗi nhà chú dịch Đạo Đức Kinh đều tìm thấy cách diễn giải của riêng mình.
Mặc dù vậy, những nguyên lý của Đạo huyền, thông qua những lời kinh thâm


19
thuý vẫn tác động sâu sắc đến nhận thức của người đọc thuộc nhiều thế hệ và
nhiều nền văn minh khác nhau. Đạo Đức Kinh gồm 2 quyển, khoảng 5000 từ,
tổng cộng 81 chương, chia làm 2 thiên, trình bày 2 chủ đề lớn: • Thượng thiên
nói về Đạo, cái gốc của muôn sự tạo hoá, quy luật vận hành của vạn vật. • Hạ
thiên nói về Đức, năng lực vận hành và thành tựu của Trong Đạo Đức Kinh
chỉ có khoảng 50 chương độ 3000 chữ là quan trọng, còn những chương kia
hoặc lặp lại, hoặc diễn thêm ý trong các chương trước. Các chương lại sắp đặt
rất lộn xộn, vậy mà học thuyết của Lão Tử lại được coi là một triết thuyết
hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tân. Đạo Đức Kinh không phải là
một tác phẩm có kết cấu logic của một thế giới quan mà chỉ là tập hợp của
những câu triết lý rời rạc. Tuy vậy nó cũng thể hiện một quan điểm rõ ràng về
tư tưởng triết học của một trường phái và có giá trị nhất định. Đạo Đức Kinh
được viết theo hình thức câu dài ngắn khác nhau, rất súc tích, ngắn gọn, dễ
nhớ nhưng không dễ hiểu. Nhiều câu trong tác phẩm tối nghĩa, mỗi người có
thể chấm câu một khác, hiểu một khác. Đọc Đạo Đức Kinh không nên căn cứ
vào chữ nghĩa, nó chỉ là những gợi ý và mỗi người hội ý theo “trực giác linh
cảm” của mình. Toàn bộ tư tưởng của Lão Tử được trình bày cô đọng trong
tác phẩm Đạo Đức Kinh, nổi bật nhất là những vấn đề: học thuyết về đạo, tư
tưởng về phép biện chứng và học thuyết vô vi hay những vấn đề đạo đức –
nhân sinh, chính trị xã hội. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt đi tìm hiểu những
tư tưởng triết học đó trong Đạo Đạo.

Đạo Đức Kinh chỉ ra nguyên lý vận hành của Đạo và cách ứng dụng nó
để thực hiện một cuộc sống toàn mãn. Tất cả được trình bày qua những vần
thơ có khả năng đánh thức tâm đạo của người đọc, bất chấp tính nghịch luận
và ngôn từ hàm súc của chúng. Lão Tử không chọn cách lý giải các khái niệm
qua những ngôn từ xác định. Theo ông, ngôn từ “không chở nổi” Đạo, bản
chất nội tại của sự vật vốn nằm ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ (Đạo khả
đạophi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh). Cho nên. Đạo Đức


×