Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Thực hành sinh thái môi trường - Tìm hiểu 4 tài nguyên Đất, Nước, Không khí, Rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 58 trang )

Nhóm 2: Bài về các nhóm Tài nguyên thiên nhiên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA CHĂN NUÔI – THÚ Y
LỚP TY51D

BÀI TRÌNH BÀY VỀ
CÁC TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
NHÓM 2
Giảng Viên: Lê Thị Thu Hường
HUẾ, THÁNG 10 NĂM 2018


Nhóm 2: Bài về các nhóm Tài nguyên thiên nhiên

Các Thành viên trong nhóm:









Lê Văn Khánh
Từ Hoàng Đình Khánh
Nguyễn Đăng Khoa
Nguyễn My Khuyên
Trần Hồng Lam
Cáp Thị Mỹ Lan


Nguyễn Thị Lan
Đỗ Thành Long










Phạm Minh Lưu
Trần Thị Diễm My
Bùi Thị Thảo My
Trần Thị Thanh Nga
Nguyễn Văn Nhân
Nguyễn Văn Nhảnh
Phạm Thị Nung
Trần Thị Hồng Nhung

Các thành viên đều tham gia đầy đủ và tích cực, mỗi bạn sẽ
được 10 điểm của nhóm. Và …. điểm của cô!


MỤC LỤC

Page |3



Đặt Vấn Đề:
Sau công cuộc cách mạng công nghiệp nền kinh tế thế giới như được thay da đổi thịt với
tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì của nhiều nước. Nhưng mọi vấn đề đều luôn có mặt trái của
nó. Để làm cho xã hội ngày càng phát triển, thì con người đã phá hỏng sự cân bằng của trái
đất. Chính về vậy mà hiện nay, các vấn đề liên quan đến ô nhiềm môi trường đang chở thành
một vấn đề nóng bỏng và được đưa ra thảo luận rất nhiều từ mọi nước trên toàn thế giới.
Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông tin về ô nhiềm môi trường từ
cuộc sống hàng ngày Sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình Đô thị hóa
làm cho môi trường càng trở nên ô nhiễm trầm trọng hơn. Hiện tượng này không chỉ diễn ra ở
các nước đang phát triển, mà còn diễn ra hết sức phức tạp nghiêm trọng đối với những nước
phát triển. Việt Nam cũng không phải là nước ngoại lệ.
Ô nhiễm nó không chỉ sảy ra ở môi trường không khí, mà nó còn diễn ra cả ở những môi
trường khác như môi trường nước, môi trường rừng, môi trường đất. Lượng chất thải, khí
thải, nước thải,.. mà con người đổ ra môi trường ngày càng nhiều nhưng lại chưa gắn liền với
việc sủ lý chúng. Như ta đã biết, con người không thể nhịn thở quá 3 phút, không thể không
uống nước quá 3 ngày, không thể nhịn ăn quá 3 tháng. Vì vậy mà môi trường ảnh hưởng rất
lớn đến sức khỏe của con người.Thế nhưng, chính chúng ta lại đang đe dọa đến cuộc sống
của chúng ta, hãy nhìn những thứ mà con người đã thải ra, đã xả ra, đã vô tâm vô tình làm
ảnh hưởng đến Mẹ thiên nhiên, để rồi nhận lại đó chính là mối lo ngại về sức khỏe, về cuộc
sống ngày một ô nhiễm nhiều hơn. Mẹ thiên nhiên không thể cưu mang ta nữa...
Môi trường ô nhiễm có thể giết chết rất nhiều cơ thể sống, đem lại những mầm bệnh cho
con người. Riêng chỉ ô nhiễm môi trường tài nguyên nước thì dã cướp đi sinh mạng của
14000 con người mỗi ngày, một con số không hề nhỏ. Môi trường đang bị đe dọa trầm trọng
vì tình hình thế giới phát triển càng lúc càng cao, các nhà máy, công trình, xưởng sản xuất
mỗi ngày thải ra ngoài môi trường rất nhiều khí thải, chất thải nguy hại, dẫn đến môi trường
bị đe dọa ô nhiễm. Môi trường toàn cầu hiện nay đầy những yếu tố, nào là hạn hán, đói kém,
thiên tai, lũ lụt... Không chỉ vậy, khí CO2 được sinh ra quá mức cho phép từ chính các nhà
máy, xí nghiệp, các động cơ của các phương tiện di chuyển hàng ngày của chúng ta đã gây ra
hiện tượng Hiệu ứng nhà kính, làm cho trái đất ngày càng nóng lên, băng ở hai cực đang dần
dần tan ra, làm tăng mực nước biển gây nguy cơ những quốc gia thấp, ở vùng trũng gần biển

sẽ bị nhấn chìm trong tương lai. Ở nước ta, nước biển dâng cao không những ảnh hưởng đến
cuộc sống của mọi người dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế nước ta đã được
ông Vũ Đức Đam (Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam) nhận định nếu mực nước biển dâng
cao 1 mét, sẽ có khoảng 40% diện tích Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi hiện sản xuất 12 triệu
tấn gạo/năm (xuất khẩu 6 triệu tấn), khoảng 10-12% dân số Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp
và tổn thất khoảng 10% GDP.
Page |4


Tại sao? Vì đâu mà những bạn nhỏ chỉ mới nhìn thấy ánh sáng thì trong ánh sáng đã bị ô
nhiêm, hít thở O2 thì trong không khí cũng đã bị nhiễm tạp rất nhiều chất gây hại, uống
những nguồn nước đã nhiềm kim loại nặng, ăn những thực phẩm đã nhiễm rất nhiều chất hóa
học, tiền đề của căn bệnh hiểm nghèo: Ung thư. Các cụ đã có câu "Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước". Đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân. Nhiều người nghĩ
rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người khác
lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền mà không
phải là của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì đi chăng
nữa cũng không đáng kể, và việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng gì tới mình
nhiều... Việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều
người lại là lớn.Trách nhiệm bảo vệ môi trường tuy cũng có một phần là của nhà nước nhưng
đa phần lại là của người dân. Đúng như vậy, ý thức của nhiều con người ngày càng kém,
lương tâm của họ chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính, không quan tâm đến sức khỏe của mọi
người, thì họ, chính họ sẽ nhận lại những điều như vậy từ những người như họ. Thêm một
nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh
nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy
trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường.
Con người đã nhận thức được vấn đề về môi trường, nhiều quốc gia đã thành lập ban,
nghành để đề ra các giải pháp đấu tranh, phòng chống, giảm thiểu tác hại của vấn đề này. Ở
Việt Nam theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo
vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy

trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Dự thảo Mục tiêu Phát triển bền
vững gồm 17 mục sẽ được xem xét thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc vào
tháng 9/2015. Đây được coi là văn kiện định hướng quan trọng cho các chính sách phát triển
toàn cầu. Nhiều mục tiêu phát triển bền vững có liên quan trực tiếp đến môi trường như:
Quản lý và đảm bảo cung cấp nước và điều kiện vệ sinh; Đảm bảo các dạng thức tiêu dùng và
sản xuất bền vững; Thực hiện hành động kịp thời ứng phó với BĐKH và tác động; Bảo tồn và
sử dụng bền vững biển và tài nguyên biển; Bảo vệ, khôi phục và phát triển các hệ sinh thái
trên cạn, quản lý rừng bền vững, chống sa mạc hóa, dừng và đảo ngược xu thế suy thoái đất
và suy giảm ĐDSH. Một số mục tiêu khác như xóa đói giảm nghèo, năng lượng, tăng trưởng
bền vững cũng có quan hệ chặt chẽ với BVMT. Vì vậy, để có thể giải quyết được các vấn đề
môi trường, cần lồng ghép môi trường vào các chiến lược, chính sách thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững, ở cấp toàn cầu và quốc gia. Và cái quan trọng đó là đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận
thức, ý thức chấp hành pháp luật BVMT, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp
trong việc gìn giữ và BVMT; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một
cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội. Đi đôi
với công tác tuyên truyền, giáo dục cần tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan quản lý
nhà nước về vấn đề này trên các địa bàn nông thôn, như các cấp chính quyền địa phương, các
cơ quan quản lý và BVMT, các cơ sở y tế, các tổ chức đoàn thể có liên quan để đảm bảo cho
Page |5


công tác tuyên truyền, giáo dục và thực thi các biện pháp BVMT, bảo vệ và nâng cao sức
khỏe, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn có hiệu quả hơn.
Chúng ta chỉ có một hành tinh mà thôi, hãy chung tay bảo vệ ngôi nhà chung cảu chúng ta,
đừng để đến khi ngôi nhà chung bị phá hủy, con người sẽ bị diệt vong. Hãy để giống nòi của
chúng ta phát triển bình thường, hãy làm những điều nhỏ nhất để bảo vệ môi trường.

Page |6



A.

I. Đặc
1.

2.

3.
a.

b.

c.

Tài Nguyên Nước:

điểm tài nguyên nước.
Khái niệm tài nguyên nước:
- Tài nguyên nước là toàn bộ lượng
nước có trong các thủy vực trên Trái
Đất mà con người có thể sử dụng được
cho các hoạt động dân sinh và phát
triển kinh tế xã hội của mình.
- Tài nguyên nước của một lãnh thổ là
toàn bộ lượng nước có trong đó mà
con người có thể khai thác sử dụng
được, xét cả về mặt lượng và chất, cho
sinh hoạt, sản xuất, trong hiện tại và
tương lai.

Tầm quan trọng của nước:
- Viện sĩ Xiđorenko khẳng định:
”Nước là khoáng sản quý hơn tất cả
các loại khoáng sản”.
- Nhà Bác học Lê Quý Đôn khẳng định: ”Vạn vật không có nước không thể sống
được, mọi việc không có nước không thành được…”
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có câu nói tuyệt vời trong huấn thị của Người tại Hội nghị
Thủy lợi toàn miền Bắc họp tại Bắc Ninh, ngày 14-9-1959 như sau:
“ Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có
nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh...
... Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau để nâng cao đời
sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Quy mô của tài nguyên nước trên thế giới:
Nước trong khí quyển:
- Tồn tại dưới dạng sương mù, mây, tuyết, băng.
- Chứa khoảng 12.000 – 14.000 km3 nước.
Nước trong thủy quyển:
- Đại dương chứa 1,37 tỷ km3.
- Sông suối chứa 1.200km3.
- Ao hồ chưa 230.000km3.
- Băng ở hai cực chứa khoảng 26 triệu km3.
Nước trong địa quyển:
- Tồn tại dưới dạng: nước ngầm, sông ngầm, ao hồ ngầm.
- Nước trong khe đá, các lớp thổ nhưỡng.
- Chứa khoảng 64 triệu km3 toàn bộ địa cầu.

Page |7


d.


- Lượng nước trao đổi: 4 triệu km3.
- Lượng ẩm các lớp thổ nhưỡng: 80.000 km3.
Nước trong sinh quyển
- Chứa khoảng 10.000km3

Số liệu lấy từ />4.
a.

b.

Thuận lợi của Tài nguyên nước:
Nguồn nước mưa dồi dào:
- Việt Nam có nguồn nước mưa dồi dào hơn so với các nước có cùng vĩ độ địa lý (các
nước Tây Nam Á và Châu Phi)
- Lượng mưa trung bình năm toàn lãnh thổ: 1960mm gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình
lục địa  Tạo ra lượng dòng chảy 650 tỷ m3. (Theo sở Tài nguyên và Môi Trường tỉnh
Vĩnh Phúc)
Tài nguyên nước mặt:
b.1: Khái Niệm:
Tài nguyên nước mặt (dòng chảy cảu sông ngòi)
của một vùng lảnh thổ hay 1 quốc gia là tổng
lượng dòng chảy sông ngòi từ ngoài vùng chảy
vào và lượng dòng chảy được sinh ra trong vùng
(dòng chảy nội địa) (Theo website Bộ Tài nguyên và
Môi trường)
b.2: Sông ngòi:
- Việt Nam có mạng lưới sông ngòi vô
(Một góc nuôi trồng thủy sản tại xã Quảng Lợi – TT Huế)
cùng phong phú và đầy tiềm năng, với

tổng chiều dài hơn 41.900km, do điều
kiện mưa nhiều đã tạo ra một số lượng sông suối rất lớn, tới khoảng 2.360 con sông và
kênh lớn nhỏ. Dọc bờ biển, khoảng 23 km có một cửa sông và theo thống kê có 112 cửa
sông ra biển. Chín lưu vực sông có diện tích lớn hơn 10.000km.
→ Có tiềm năng thủy điện lớn.

Page |8


- Các sông lớn ở việt nam thường bắt nguồn từ bên ngoài, phần trung du và hạ du chảy
trên đất việt nam. Hầu hết các sông ở việt nam chảy theo hướng tây bắc-đông nam và đổ
ra biển đông. Ngoại lệ có sông kỳ cùng và bằng giang. Chảy theo hướng đông nam-tây
bắc.
- Tổng lượng nước trung bình của toàn bộ sông suối: 835 tỷ
+ Từ nước ngoài: 522 tỷ ( 62,5% )
+ Trong nước : 313 tỷ ( 37,5% )
- Modun dòng chảy: 31L/ s.
→ Nguồn nước dồi dào
- Sông ngòi có tính đa quốc gia:
+ 7/9 hệ thống sông của Việt Nam chảy qua từ 2 - 5 nước
+Tỷ lệ diện tích lưu vực thuộc Việt Nam: 9 – 87%
+Tỷ lệ dòng chảy ngoại nhập: 5 – 90% ( không kể sông Kỳ Cùng, Bằng Giang).
b.3: Hồ và Đầm:
- Theo định nghĩa của các nhà Thủy văn Nga thì Hồ và Đầm là những lòng chảo hoặc
vùng trũng của bề mặt đất có chứa nước. Như vậy ở Việt Nam có các loại Hồ và Đầm
phá như sau:
+ Hồ và Đầm tự nhiên nước ngọt: Các hồ đầm tự nhiên ở vùng đồng bằng thường là
dấu vết còn lại của các đoạn sông hay vỡ đê. Các hồ này nước ít luân chuyển, các hồ
đầm tự nhiên xuất hiện ở vùng núi thường là dấu vết còn lại của núi lửa, động đất hay
những nguyên nhân khác. Phần lớn các hồ đầm tự nhiên nước không chảy nhưng cũng

có hồ nước chảy nhẹ như hồ Ba Bể.

(Hồ Ba bể ở Bắc Cạn)

+ Các lợi đầm phá nước mặn: Các đầm phá nước mặm có rất nhiều ở vùng ven biển
Việt Nam, và đang được khai thác triệt để.

Page |9


(Đầm Cầu Hai – Phú Lộc – Thừa Thiên Huế)

c.

+ Hồ và kho nước nhân tạo.
- Chỉ tính riêng các hồ/đầm lớn (có diện tích mặt nước rộng trên 100ha), nước ta đã có
khoảng 40 hồ với tổng diện tích gần 35.000ha, tổng trữ lượng ước đạt trên 780 triệu m3.
- Việt Nam có khoảng 3500 hồ chứa có dung tích lớn hơn 0.2 triệu m3. Chỉ có 1976 hồ
có dung tích lớn hơn 1 triệu m3,
chiếm 55,9% với tổng dung
tích 24.8 tỷ m3. Trong số hồ
trên có 10 hồ do ngành điện
quản lý với tổng dung tích 19 tỷ m3. Có 44 tỉnh và thành phố trong 63 tỉnh thành
Việt Nam có hồ chứa. Tỉnh có nhiều hồ nhất là Nghệ An (249 hồ),
Hà Tĩnh (166 hồ), Thanh Hóa
(123 hồ), Phú
Thọ (118 hồ), Đắk Lăk (116
hồ) và Bình Định (108 hồ).
- Trong số 1957 hồ cấp nước
tưới do Bộ Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn (Việt
Nam) quản lý phân
theo dung tích có: 79 hồ có dung tích trên 10
triệu m3, 66 hồ có dung tích từ 5 đến 10
triệu m3, 442 hồ có dung tích từ 1 đến
5 triệu m3, 1370 hồ có dung tích từ 1
đến 2 triệu m3. Tổng dung tích
các hồ chứa này là 5.8 tỷ m3
(Hồ nước ngọt Dầu Tiếng - Hồ nước nhân tạo lớn nhất ĐNA)
nước tưới cho 505.162 ha. (Số
liệu lấy từ và o)
Nước Ngầm:
- Nước ta có nguồn tài nguyên nước ngầm khá phong phú.

P a g e | 10


- Qđ trên toàn lãnh thổ (chưa kể phần hải đảo) khoảng 2.000 m3/s. Lưu lượng các sông
trong mùa khô phần lớn là nước ngầm.
Các thành hệ chứa nước lớn, có vai trò quan trọng bao gồm:
c.1: Thành hệ chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ và Neogen:
+ Phân bố rộng ở ĐBBB, ven biển miền Trung, ĐBNB
+ Dày từ vài chục mét - 400-500m,
+ Tồn tại từ 2-3 tầng chứa nước (ĐBBB, ven biển miền Trung ) đến 6-7 tầng chứa nước
(như ở ĐBNB),
+ Mức độ chứa nước lớn (T=vài trăm - 1000-2000m2/ngày; giếng khoan có Q từ vài
chục - vài trăm m3/h).
+ Thành hệ chứa nước này là nguồn cấp nước quan trọng cho ăn uống, sinh hoạt và
công nghiệp ở ĐBBB, ĐBNB và vùng ven biển miền Trung của nước ta.
c.2: Thành hệ chứa nước Karst:

+ Phân bố chủ yếu ở khu vực miền Bắc: chiếm 1/3 diện tích của miền Bắc. .
+ Môdun dòng ngầm trung bình khoảng 10-12l/s.km2
+ Trong vùng Karst, nước mặt hiếm, vì vậy, nước ngầm có vai trò rất quan trọng cho cấp
nước (Hà Giang, Cao bằng, Lạng Sơn, Sơn La, Thái Nguyên…)
c.3: Thành hệ chứa nước khe nứt-lỗ hổng trong bazan:
+ Phân bố ở Tây nguyên, chiều sâu từ một hai chục mét – >100m.
+ Môdun dòng ngầm trung bình trong bazan: 8->10 l/s.km2.
+ Qkt các giếng khoan có thể đạt tới 100 m3/h.
+ Hiện nước trong bazan là nguồn cung cấp chủ yếu cho ăn uống, sinh hoạt của nhân
dân vùng Tây Nguyên, ngoài ra còn là nguồn cấp nước quan trọng cho tưới cà phê, hồ
tiêu, cao su các các loại cây trồng cạn khác ở khu vực Tây Nguyên.
c.4: Ngoài các thành hệ chứa nước chủ yếu trên, còn có các thành hệ chứa nước khác:
(trầm tích, biến chất, macma) tuy có mức độ chứa nước, dẫn nước hạn chế nhưng cũng
có giá trị đối với việc cấp nước ăn uống, sinh hoạt quy mô nhỏ và cho tưới vườn, chăn
nuôi… ở nhiều vùng, nhất là các khu vực thường xuyên bị hạn hán, thiếu nước như các
tỉnh ở Miền Trung, Tây nguyên và trung du miền núi Bắc Bộ.

P a g e | 11


5. Khó khăn đối với tài nguyên nước:
a. Khó khăn thứ nhất: 2/3 tổng lượng nước mặt của Việt Nam phụ thuộc vào nước ngoài.

P a g e | 12


- Như trên đã trình bày, 63% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam là từ
các nước láng giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Mianma, Lào và Campuchia chảy vào. Các
nước này đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển
nông nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng. Quá trình phát triển này, dù bằng cách nào cũng

sẽ đặt ra cho các nước nói trên yêu cầu tận dụng hợp lý tài nguyên nước sản sinh trên lãnh
thổ của họ. Chế độ thủy văn của các dòng sông xuyên biên giới chảy vào nước ta sẽ thay đổi.

Dòng chảy nước sẽ được điều tiết theo những chiều hướng có khi không phù hợp với yêu cầu
kinh tế và sinh thái của ta. Khối lượng nước cần cho sinh hoạt, canh tác, đẩy mặn, giao thông
thủy vào mùa khô có thể sẽ không còn như trước. Chất lượng nước của một số dòng sông sau
khi đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị, khu dân cư, khu nông nghiệp trên các vùng thượng
lưu sẽ không thể còn độ trong sạch như hiện nay.
P a g e | 13


- Lấy sông Mê Công làm thí dụ. Mê Công là một con sông xuyên biên giới quan trọng ở
châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những năm cuối thập kỷ 50 của
thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức quốc tế hết sức quan tâm việc
quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài nguyên thiên nhiên liên quan khác và các hoạt
động phát triển trên lưu vực. Việc hợp tác quản lý dòng sông quan trọng này được thực hiện
trong khuôn khổ tổ chức hợp tác quốc tế về phần hạ lưu sông Mê Công, cụ thể là của Ủy ban
quốc tế về hạ lưu sông Mê Công trước từ năm 1957 đến năm 1975, Ủy ban lâm thời hạ lưu
sông Mê Công từ năm 1975 đến năm 1995 và Ủy ban sông Mê Công (Mekong River
Commission, MRC) hiện nay. Qua nhiều đổi thay của lịch sử, thành viên của các Ủy ban này
là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam . Địa phận quản lý của các Ủy ban chỉ là phần "hạ
lưu" sông Mê Công. Trung Quốc và Mianma không phải là thành viên chính thức của Ủy
ban và chỉ tham gia một cách không chính thức vào một số cuộc họp của Ủy ban. Với đặc
điểm như trên, sông Mê Công là một dòng sông liên quốc gia. Theo thỏa thuận đã có giữa
bốn quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê Công là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt
Nam, không nước nào được xây dựng công trình trên dòng sông chính, việc xây dựng các
công trình quan trọng trên các sông nhánh lớn cũng cần thông báo và tham khảo ý kiến của
nhau.
- Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình nào, nhưng ở phần
thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình thủy điện, với đập cao,

hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều tiết nước, hoặc đang được xây
dựng và chuẩn bị xây dựng. Thủy điện Manwan, công suất lắp máy 1.500MW, đập cao
126m, đã hoàn thành và phát điện năm 1996 là một thí dụ. Trên các sông nhánh, Thái Lan, - Lào và ở nước ta cũng đã và đang xây dựng nhiều công trình phục vụ thủy điện và cấp nước
cho nông nghiệp. Các đập và hồ trên phần sông Sê San, chi nhánh của sông Mê Công, thuộc
lãnh thổ nước ta là thí dụ về các công trình này. Nếu trong tương lai các quốc gia ở thượng
nguồn sông Mê Công sẽ sử dụng một lưu lượng nước khoảng 1.200 - 1.500 m3/s để tưới
ruộng trong mùa khô, hoặc nước của Biển Hồ sẽ được Campuchia khai thác nhiều hơn cho
nông, công nghiệp và sinh hoạt, thì Đồng bằng sông Cửu Long của ta sẽ có nguy cơ vô cùng
thiếu nước. Nạn xâm nhập mặn sẽ đe dọa toàn vùng.
- Vì vậy, nhìn một cách lâu dài, không thể khẳng định là nước ta sẽ luôn luôn có tài nguyên
nước phong phú với tổng lượng là 830 tỷ m3/năm, hay 10.375 m3/người.năm. Phần chắc
chắn là phải dựa chủ yếu vào lượng nước hình thành trên lãnh thổ là 310 tỷ m3/năm. Lượng
nước có thể có trên đầu người sẽ phải tính theo dân số ổn định xung quanh 100 triệu người.
b. Khó khăn thứ hai: tài nguyên nước phân bố rất không đều theo không gian và thời gian
- Lượng mưa, nhân tố chủ yếu hình thành tài nguyên nước trên lãnh thổ nước ta, phân bố rất
không đều theo không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ lượng mưa năm là
1.944mm. Tuy nhiên, lượng mưa này phân bố rất không đều theo không gian. Có những nơi
lượng mưa này đạt 8.000mm/năm như ở Bạch Mã thuộc Thừa Thiên - Huế; 5.000mm/năm
như ở Bắc Quang thuộc Hà Giang; Nam Châu Lĩnh thuộc Quảng Ninh. Trong lúc có những
nơi lại chỉ có 700mm/năm như ở thị xã Phan Rang, Ninh Thuận, thậm chí chỉ có
P a g e | 14


400mm/năm như ở thị xã Phan Rí thuộc Bình Thuận. Trong từng phạm vi lãnh thổ nhỏ hơn
như tỉnh, huyện lượng mưa phân bố cũng rất không đều. Trong năm 2002, nhiều tỉnh ở Tây
Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long trong 3 - 4 tháng hầu
như không có giọt mưa nào. Trong năm 2003, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên, duyên hải miền
Trung đều có tình trạng không có mưa suốt trong 3 tháng mùa hè (Bảng II.3).
Bảng II.3. Lượng mưa trong một số tháng của năm 2002 tại một số địa điểm (mm)


(Nguồn: Niên giám Thống kê, 2002)
- Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong
khoảng ba tháng mùa lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng nước
trong năm. Cùng với đó là mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng.
Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều con sông chỉ
vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng chảy năm.
- Lượng dòng chảy trong sông, tổng hợp cả dòng chảy hình
thành trong và ngoài lãnh thổ, cũng phân bố rất không đều.
Lấy theo số liệu của "Hồ sơ nguồn nước, 2002" thì suất dòng chảy năm bình quân của cả
nước ta là 2,642 triệu m3/km2.năm. Vùng Đông Bắc với diện tích bằng 65.327km2, có lượng
dòng chảy năm bằng 15,4 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm chỉ là 0,236 triệu m3/km2. Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích bằng 39.706km2 có lượng dòng chảy năm bằng
507,9 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm khoảng 12,79m3/km2, gấp 54 lần suất dòng chảy của
vùng Đông Bắc. Khác biệt giữa các vùng khác cũng tương đối lớn.
Bảng II.4. So sánh suất dòng chảy năm của các vùng

P a g e | 15


(Nguồn: Niên giám Thống kê và Hồ sơ nguồn nước, 2002)
- Trong bối cảnh chung cả nước như vậy, sự phân bố nước không đều theo không gian và
thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu lượng lớn, có sức tàn
phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ lệ giữa lưu lượng tối đa và lưu
lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000, thậm chí 10.000 lần.
c. Khó khăn thứ ba: có nhiều thiên tai gắn liền với nước
- Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta.
Theo tài liệu ghi chép của các cơ quan quản lý nước thì trong
thế kỷ XIX, chỉ riêng ở Đồng bằng sông Hồng đã có khoảng
30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm vỡ đê tả ngạn sông
Hồng, 18 năm đê hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây

thiệt hại cho hàng chục vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng
ngàn làng xóm với hàng ngàn sinh mệnh người và gia súc,
hủy hoại nhiều công trình công ích, gây dịch bệnh trên nhiều vùng.
- Trong thế kỷ XX, mặc dầu hệ thống đê điều đã được tu bổ, kiên cố hóa nhưng do lũ lớn, đã
có 23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn thất nghiêm trọng. Trận lũ vỡ đê năm 1971
trên Đồng bằng sông Hồng đã gây thiệt hại khoảng 7 triệu tấn thóc, số dân bị ảnh hưởng lên
tới 2,71 triệu người. Lũ do bão gây ra ở miền Trung từ năm 1992 đến năm 1999 đã làm chết
2.716 người, bị thương 1.655 người, gây thiệt hại kinh tế trên 8.000 tỷ đồng Việt Nam. Mười
năm gần đây, từ năm 1986 đến năm 2002, đã lần lượt xảy ra 30 trận lũ đặc biệt lớn trên nhiều
lưu vực sông trong cả nước.

P a g e | 16


Bảng II.5. Một số trận lũ từ năm 1986 đến năm 2002

(Nguồn: Ngô Đình Tuấn, 2003)
- Hạn hán cũng là thiên tai gây tác hại hết sức lớn, trên diện rộng cho sản xuất nông, công
nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh thái trên nước ta từ
đồng bằng, trung du đến miền núi đều có thể bị hạn nặng.
- Trong những năm gần đây ở Tây Nguyên đã liên tiếp có 6 năm bị hạn 1994, 1995, 1996,
1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả bị hạn là
111.000ha, bị chết là 19.300 ha, riêng cà phê bị hạn là 74.400ha, bị chết là 13.800ha và hơn
770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
- Tại vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng nhân dân địa phương cho biết trong các năm 1978,
1998 mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tận tháng 5 năm sau, nước cho trồng trọt và chăn nuôi
cạn kiệt, nước ăn uống, sinh hoạt cho nhân dân vô cùng khan hiếm. Nhân dân phải bỏ hết
mọi việc để đi tìm nước, "cõng" nước về nhà phục vụ ăn uống với mức tối thiểu. Nhiều hộ
hàng ngày phải đi xa 4 - 8km, vượt núi cao, đèo sâu để “cõng” nước, nhưng cũng chỉ đáp
ứng được khoảng 40% nhu cầu tối thiểu. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX,

hàng trăm hộ dân vùng này đã phải rời bỏ quê hương, di dân tự do vào Tây Nguyên để kiếm
sống.
Tại các đô thị, thậm chí đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và một số thành
phố duyên hải miền Trung về mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt nước ăn uống sinh hoạt cho
nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
d. Khó khăn thứ tư: chất lượng nước đang giảm sút tại nhiều nơi
- Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì tỷ lệ tiếp cận với nước sạch
của nhân dân Việt Namđã tăng 13% trong giai đoạn 1998 - 2000. Việt Nam là một trong
những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế giới. So sánh với một số nơi trên
thế giới thì nước sông ngòi phần thượng lưu và tại một số hồ lớn ở Việt Nam còn tương đối
sạch. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh của công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số ở
P a g e | 17


nông thôn cũng như thành thị, chất lượng nước mặt cũng như nước ngầm đã có những biểu
hiện suy thoái khá nghiêm trọng.
- Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung
đã rất lớn. Thí dụ tại Cụm Công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, ước tính mỗi
ngày có khoảng hàng trăm nghìn m3 nước thải công nghiệp từ các nhà máy giấy, hóa chất,
dệt nhuộm thải ra, tuy đã có những cố gắng khắc phục, nhưng nước kênh Tham Lương vẫn
còn mầu đen, mùi hôi thối, hàm lượng chất độc hại cao.
- Ở thành phố Thái Nguyên nước thải từ các cơ sở luyện gang, thép, kim loại mầu, sản xuất
giấy, khai thác than chưa được xử lý vẫn đổ ra sông Cầu và chuyển về vùng hạ lưu là nơi dân
cư đông đúc sản xuất nông, công nghiệp phát triển. Hàng trăm làng nghề về sắt thép, đúc
đồng, nhôm, chì, dệt nhuộm, giấy với lượng nước thải hàng ngàn m3/ngày không qua xử lý
cũng góp phần gây ô nhiễm nguồn nước tại nhiều địa phương ở đồng bằng và trung du.
- Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị lớn và vừa vẫn còn tình trạng nước thải
sinh hoạt, lẫn lộn với nước thải công nghiệp không qua xử lý tập trung, mà trực tiếp thải ra
các sông, hồ, kênh, mương lộ thiên đi qua các khu dân cư và sản xuất. Nước thải từ phần lớn
các bệnh viện và cơ sở y tế cũng còn được thải chung vào hệ nước thải công cộng. Độ ô

nhiễm của phần lớn các vực nước tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
- Ô nhiễm nước ở nông thôn và các khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm trọng. Ở
đây chưa có cơ sở hạ tầng tốt cho thoát nước thải, phần lớn chất thải của con người và gia
súc không được xử lý, bị rửa trôi theo dòng mặt, hoặc thấm xuống đất, làm cho nguồn nước
mặt cũng như nước ngầm bị ô nhiễm về mặt hữu cơ và vi sinh. Môi trường nước nông thôn
còn bị ô nhiễm do sử dụng không hợp lý và đúng quy cách các hóa chất nông nghiệp, trong
đó có không ít hóa chất độc hại. Tỷ lệ số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh chỉ
mới đạt khoảng 30 - 40%. Chỉ khoảng 28 - 30% số hộ có công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
e. Khó khăn thứ năm: yêu cầu về nước đang tăng nhanh
- Nạn thiếu nước đang đe dọa toàn thế giới. Tài liệu thông tin về tài nguyên và môi trường
nước không ngớt nhắc tới tình trạng "Trên trái đất hiện thường xuyên có hai tỷ người đang
khát"; "trong mỗi khoảng thời gian 8 giây lại có một em bé bị chết vì các bệnh liên quan đến
nước". Với sự gia tăng dân số và xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đang bao
trùm nhiều quốc gia, tình trạng thiếu nước ngày càng gia tăng. Có dự báo cho rằng đến năm
2020 khoảng 40% nhân loại sẽ phải sống trong những vùng thiếu nước. Nguy cơ xung đột,
thậm chí chiến tranh đang tiềm tàng trên các lưu vực một số sông lớn chảy qua những vùng
dân cư đông đúc và có nhiều khó khăn về nước.
- Ở nước ta với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông nghiệp
và nâng cao đời sống nhân dân ở nông thôn yêu cầu về nước đang tăng lên với gia tốc. Theo
tài liệu nghiên cứu về tài nguyên nước của Việt Nam do Viện Quy hoạch thủy lợi hợp tác với
Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á thực hiện năm 1996 thì năm 1990 lượng tài
nguyên nước được sử dụng ở nước ta mới chỉ có 50 tỷ m3/năm, chỉ mới bằng khoảng 6%
tổng tài nguyên. Trong đó 92% được dùng cho nông nghiệp, 5% cho công nghiệp và 4% cho
cấp nước đô thị. Tài liệu này dự báo rằng lượng nước sử dụng sẽ tăng lên tới khoảng 65 tỷ
m3/năm vào năm 2000; 72 tỷ m3/năm vào năm 2010 (tức tăng khoảng 11%); 80 tỷ m3/năm
P a g e | 18


vào năm 2020 và 87 m3/năm vào năm 2030. Tỷ lệ nước dùng cho nông nghiệp giảm xuống
còn 75%, cho công nghiệp tăng lên 16% và cho sinh hoạt là 9%.

Những tài liệu nghiên cứu gần đây hơn đã đưa ra những yêu cầu cao hơn nhiều về gia tăng
dùng nước ở nước ta. So sánh với năm 2000 tổng lượng nước sử dụng trong năm 2010 sẽ
tăng 14%; năm 2020, 25% và năm 2030, 38%. Riêng cho nông nghiệp, đến năm 2010, với
diện tích tưới là 12 triệu ha, lượng nước cần dùng đã là 88,8 tỷ m3/năm. Tỷ lệ dân số được
sử dụng nước sạch hiện nay là 60%, dự kiến sẽ đạt 80% năm 2005 và 95% năm 2010. Nhu
cầu nước cho sinh hoạt đương nhiên phải tăng theo. Với đà gia tăng được dự báo trên đây
đến năm 2030 lượng nước sử dụng sẽ có thể lên tới gần 90 tỷ m3/năm, tức bằng khoảng 11%
tổng tài nguyên nước, hoặc 29% tài nguyên nước hình thành trên lãnh thổ quốc gia.
II. Ô nhiễm nguồn nước
1. Khái Niệm:
- Ô nhiễm nước là hiện tượng các vùng nước như sông, hồ, biển, nước ngầm... bị các
hoạt động của con người làm nhiễm các chất độc hại như chất có trong thuốc bảo vệ
thực vật, chất thải công nghiệp chưa được xử lý,... tất cả có thể gây hại cho con người và
cuộc sống các sinh vật trong tự nhiên.
- Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và chất lượng nước không đáp ứng được cho
các mục đích sử dụng khác nhau, vượt quá tiêu chuẩn cho phép và có ảnh hưởng xấu
đến đời sống con người và sinh vật.
- Hiến chương châu Âu về nước đã định nghĩa: "Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung
do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con
người, cho công nghiệp, nông nghiệp, cho động vật nuôi và các loài hoang dã."
2. Nguồn gốc:
a. Ô nhiễm tự nhiên:
- Là do mưa,tuyết tan, lũ lụt, gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống của sinh
vật, kể cả xác chết của chúng. Cây cối, sinh vật chết đi, chúng bị vi sinh vật phân hủy
thành chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây ô
nhiễm hoặc theo dòng nước ngầm hòa vào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nước mất sự
trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống cống rãnh, mang theo nhiều chất
thải độc hại từ nơi đổ rác và cuốn theo các loại hoá chất trước đây đã được cất giữ. Nước
lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp, kỹ nghệ hoặc do các tác nhân
độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận các công trường kỹ nghệ bị lụt có

thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất. Ô nhiễm nước do các yếu tố tự nhiên (núi lửa,
xói mòn, bão, lụt,...) có thể rất nghiêm trọng, nhưng không thường xuyên, và không phải
là nguyên nhân chính gây suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
- Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và các
vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu
cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá được. Kết
quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục
của nước, gây suy thoái thủy vực
b. Ô nhiễm nhân tạo
P a g e | 19


b.1: Từ sinh hoạt hằng ngày:
Nước thải sinh hoạt (domestic wastewater): là nước
thải phát sinh từ các hộ gia đình, bệnh viện, khách
sạn, cơ quan trường học, chứa các chất thải trong
quá trình sinh hoạt, vệ sinh của con người. Thành
phần cơ bản của nước thải sinh hoạt là các chất hữu
cơ dễ bị phân hủy sinh học (cacbohydrat, protein,
dầu mỡ), chất dinh dưỡng (photpho, nitơ), chất rắn
và vi trùng. Tùy theo mức sống và lối sống mà
lượng nước thải cũng như tải lượng các chất có
trong nước thải của mỗi người trong một ngày là
khác nhau. Nhìn chung mức sống càng cao thì
lượng nước thải và tải lượng thải càng cao.
(Ý thức của mọi người vẫn còn kém)
b.2: Từ các chất thải công nghiệp:
Nước thải công nghiệp (industrial wastewater): là
nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, giao thông vận tải. Khác với nước thải sinh hoạt hay nước thải đô thị, nước

thải công nghiệp không có thành phần cơ bản giống nhau, mà phụ thuộc vào ngành sản
xuất công nghiệp cụ thể. Ví dụ: nước thải của các xí nghiệp chế biến thực phẩm thường
chứa lượng lớn các chất hữu cơ; nước thải của các xí nghiệp thuộc da ngoài các chất hữu

(Hình ảnh minh họa ô nhiễm từ các xí nghiệp xả thải thẳng ra môi trường)

cơ còn có các kim loại nặng, sulfua,... Người ta thường sử dụng đại lượng PE
(population equivalent) để so sánh một cách tương đối mức độ gây ô nhiễm của nước
thải công nghiệp với nước thải đô thị. Đại lượng này được xác định dựa vào lượng thải
trung bình của một người trong một ngày đối với một tác nhân gây ô nhiễm xác định.
Các tác nhân gây ô nhiễm chính thường được sử dụng để so sánh là COD (nhu cầu oxy
hóa học), BOD5 (nhu cầu oxy sinh hóa), SS (chất rắn lơ lửng). Ngoài các nguồn gây ô
P a g e | 20


nhiễm chính như trên thì còn có các nguồn gây ô nhiếm nước khác như từ y tế hay từ
các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của con người.
3.

Nguyên Nhân:
- Trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, dưới tốc độ phát triển như hiện nay con người vô
tình làm ô nhiễm nguồn nước bằng các hóa chất, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp.
Các đơn vị cá nhân sử dụng nước ngầm dưới hình thức khoan giếng, sau khi ngưng
không sử dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn chảy lẫn vào làm ô
nhiễm nguồn nước ngầm. Các nhà máy xí nghiệp xả khói bụi công nghiệp vào không khí
làm ô nhiễm không khí, khi trời mưa, các chất ô nhiễm này sẽ lẫn vào trong nước mưa
cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước.
a. Nguyên nhân Hóa học:
a.1: Các ion hòa tan:
Nhiều ion hữu cơ có nồng độ rất cao trong nước tự nhiên, đặc biệt là trong nước

biển.Trong nước thải đô thị luôn chứa một lượng lớn các ion Cl-, SO42-, PO43, Na+,
K+. Trong nước thải công nghiệp, ngoài các ion kể trên còn có thể có các chất vô cơ có
độc tính rất cao như các hợp chất của Hg, Pb, Cd, As, Sb, Cr, F...
a.2: Các chất dinh dưỡng (N,P):
Muối của nitơ và photpho là các chất dinh dưỡng đối với thực vật, ở nồng độ thích hợp
chúng tạo điều kiện cho cây cỏ, rong tảo phát triển. Amoni, nitrat, photphat là các chất
dinh dưỡng thường có mặt trong các nguồn nước tự nhiên, hoạt động sinh hoạt và sản
xuất của con người đã làm gia tăng nồng độ các ion này trong nước tự nhiên. Mặc dù
không độc hại đối với người, song khi có mặt trong nước ở nồng độ tương đối lớn, cùng
với nitơ, photphat sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng. Lúc đó bắt đầu xảy ra hiện tượng phú
dưỡng với sự phát triển bùng nổ của tảo, nước hồ trở nên có màu xanh, một lượng lớn
bùn lắng được tạo thành do xác của tảo chết. Dần dần, hồ sẽ trở thành vùng đầm lầy và
cuối cùng là vùng đất khô, cuộc sống của động vật thủy sinh trong hồ bị ngừng trệ.
a.3: Các kim loại nặng:
Pb, Hg, Cr, Cd, As, Mn,...thường có trong chất và nước thải công nghiệp. Hầu hết các
kim loại nặng đều có độc tính cao đối với con người và các động vật khác. Chì (Pb): chì
có trong nước thải của các cơ sở sản xuất pin, acqui, luyện kim, hóa dầu. Chì còn được
đưa vào môi trường nước từ nguồn không khí bị ô nhiễm do khí thải giao thông. Thủy
ngân (Hg): thủy ngân là kim loại được sử dụng trong nông nghiệp (thuốc chống nấm) và
trong công nghiệp (làm điện cực). Trong tự nhiên, thủy ngân được đưa vào môi trường
từ nguồn khí núi lửa. Ở các vùng có mỏ thủy ngân, nồng độ thủy ngân trong nước khá
cao. Nhiều loại nước thải công nghiệp có chứa thủy ngân ở dạng muối vô cơ của Hg(I),
Hg(II) hoặc các hợp chất hữu cơ chứa thủy ngân. Asen (As): asen trong các nguồn nước
có thể do các nguồn gây ô nhiễm tự nhiên (các loại khoáng chứa asen) hoặc nguồn nhân
tạo (luyện kim, khai khoáng...). Asen thường có mặt trong nước dưới dạng asenit
(AsO33-), asenat (AsO43-) hoặc asen hữu cơ (các hợp chất loại methyl asen có trong
môi trường do các phản ứng chuyển hóa sinh học asen vô cơ)..
a.4: Các chất hữu cơ:

P a g e | 21



- Các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học Cacbonhidrat, protein, chất béo… thường
có mặt trong nước thải sinh hoạt, nước thải đô thị, nước thải công nghiệp chế biến thực
phẩm là các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học. Trong nước thaỉ sinh hoạt, có khoảng
60-80% lượng chất hữu cơ thuộc loại dễ bị phân huỷ sinh học.Chất hữu cơ dễ bị phân
huỷ sinh học thường ảnh hưởng có hại đến nguồn lợi thuỷ sản, vì khi bị phân huỷ các
chất này sẽ làm giảm oxy hoà tan trong nước, dẫn đến chết tôm cá.
- Các chất hữu cơ bền vững: Các chất hữu cơ có độc tính cao thường là các chất bền
vững, khó bị vi sinh vật phân huỷ trong môi trường. Một số chất hữu cơ có khả năng tồn
lưu lâu dài trong môi trường và tích luỹ sinh học trong cơ thể sinh vật. Do có khả năng
tích luỹ sinh học, nên chúng có thể thâm nhập vào chuỗi thức ăn và từ đó đi vào cơ thể
con người. Các chất polychlorophenol(PCPs), polychlorobiphenyl (PCBs:
polychlorinated biphenyls), các hydrocacbon đa vòng ngưng tụ(PAHs: polycyclic
aromatic hydrocacbons), các hợp chất dị vòng N, hoặc O là các hợp chất hữu cơ bền
vững. Các chất này thường có trong nước thải công nghiệp, nước chảy tràn từ đồng
ruộng (có chứa nhiều thuốc trừ sâu, diệt cỏ, kích thích sinh trưởng…). Các hợp chất này
thường là các tác nhân gây ô nhiễm nguy hiểm, ngay cả khi có mặt với nồng độ rất nhỏ
trong môi trường.
a.5: Dầu mỡ: Dầu mỡ là chất khó tan trong nước, nhưng tan được trong các dung môi
hữu cơ. Dầu mỡ có thành phần hóa học rất phức tạp. Dầu thô có chứa hàng ngàn các
phân tử khác nhau, nhưng phần lớn là các Hidro cacbon có số cacbon từ 2 đến 26. Trong
dầu thô còn có các hợp chất lưu huỳnh, nitơ, kim loại. Các loại dầu nhiên liệu sau tinh
chế (dầu DO2, FO) và một số sản phẩm dầu mỡ khác còn chứa các chất độc như PAHs,
PCBs,…Do đó, dầu mỡ thường có độc tính cao và tương đối bền trong môi trường nước.
Độc tính và tác động của dầu mỡ đến hệ sinh thái nước không giống nhau mà phụ thuộc
vào loại dầu mỡ.
b. Nguyên nhân sinh học:
- Các vi sinh vật gây bệnh: Nhiều vi sinh vật gây bệnh có mặt trong nước gây tác hại
cho mục đích sử dụng nước trong sinh hoạt. Các sinh vật này có thể truyền hay gây bệnh

cho người. Các sinh vật gây bệnh này vốn không bắt nguồn từ nước, chúng cần có vật
chủ để sống ký sinh, phát triển và sinh sản. Một số các sinh vật gây bệnh có thể sống
một thời gian khá dài trong nước và là nguy cơ truyền bệnh tiềm tàng. Các sinh vật này
là vi khuẩn, virút, động vật đơn bào, giun sán. Ngoài ra còn có một số tác nhân như các
chất có màu, các chất gây mùi vị….
- Ô nhiễm nước sinh học do các nguồn thải đô thị hay kỹ nghệ có các chất thải sinh
hoạt, phân, nước rửa của các nhà máy đường, giấy...
- Sự ô nhiễm về mặt sinh học chủ yếu là do sự thải các chất hữu cơ có thể lên men
được: sự thải sinh hoạt hoặc kỹ nghệ có chứa chất cặn bã sinh hoạt, phân tiêu, nước rửa
của các nhà máy đường, giấy, lò sát sinh...
c. Ô nhiễm Vật lý
- Các chất rắn không tan khi được thải vào nước làm tăng lượng chất lơ lửng, tức làm
tăng độ đục của nước. Các chất này có thể là gốc vô cơ hay hữu cơ. Nhiều chất thải công
nghiệp có chứa các chất có màu, hầu hết là màu hữu cơ, làm giảm giá trị sử dụng của
nước về mặt y tế cũng như thẩm mỹ.
P a g e | 22


- Ngoài ra các chất thải công nghiệp còn chứa nhiều hợp chất hoá học như muối sắt,
mangan, clor tựdo, hydro sulfur, phenol... làm cho nước có vị không bình thường. Các
chất amoniac, sulfur, cyanur, dầu làm nước có mùi lạ. Thanh tảo làm nước có mùi bùn,
một số sinh vật đơn bào làm nước có mùi tanh của cá.
4.
a.

b.

Hậu quả:
Nhiễm kim loại nặng
- Các kim loại nặng có trong nước là cần

thiết cho sinh vật và con người vì chúng
là những nguyên tố vi lượng mà sinh vật
cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó lại là
nguyên nhân gây độc cho con người, gây
ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư,
đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó là
nguyên nhân gây nên những làng ung
thư. Các ion kim loại được
phát hiện là hợp chất kìm
(Một trong những triệu chứng của cơ thể bị tích tụ
hãm ezyme mạnh. Chúng tác
dụng lên
kim loại nặng)
phôi tử như nhóm –SCH3 và
SH trong
methionin và xystein. Các kim loại nặng có tính độc cao như chì (pb), thủy ngân (hg),
asen (as)…
Do các hợp chất hữu cơ
- Trên thế giới hàng năm có khoảng 60.105 tấn các chất hữu cơ tổng hợp bao gồm các
chất nhiên liệu,chất màu, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, các phụ gia trong
dược phẩm thực phẩm. Các chất này thường độc và có độ bền sinh học khá cao, đặc biệt
là các hiđrôcacbon thơm gây ô nhiễm môi trường mạnh, gây ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe con người.
- Các hợp chất hữu cơ như: các hợp chất hữu cơ của phenol, các hợp chất bảo vệ thực
vật như thuốc trừ sâu DDT, linden(666), endrin, parathion, sevin, bassa… Các chất tẩy
rửa có hoạt tính bề mặt cao là những chất ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, bị nghi
ngờ là gây ung thư.

c.


Vi khuẩn có trong nước thải
- Vi khuẩn có hại trong nước bị ô nhiễm có từ chất thải sinh hoạt của con người, động
vật có thể gây ra bệnh tả,ung thư da, thương hàn và bại liệt

5.

Cách khắc phục:
- Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi
trường nước, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
- Quy hoạch hệ thống cấp nước và tiêu nước cho các vùng nuôi tôm nên được tách
riêng ra khỏi những khu canh tác lúa, đặc biệt là hệ thống lấy nước cấp cho các khu
nuôi.
- Cần tiến hành xử lý nguồn nước thải từ các ao nuôi trước khi thải ra môi trường.

P a g e | 23


- Có thể ứng dụng các kỹ thuật xử lý nước thải sau nuôi tôm bằng biện pháp xử lý
sinh học như dùng các loài nhiễm thể hai mảnh vỏ lọ bỏ các chất hữu cơ trong nước thải
tại các ao chứa nước thải và có thể tái sử dụng nguồn nước này cấp lại cho các ao nuôi
(đã áp dụng thành công tại Cà Mau.
- Lượng bùn sên vét đáy cào ao nuôi cần được xử lý làm phân bón vi sinh học được
chôn lấp, không được để tràn tự nhiên ra môi trường.
a. Các biện pháp thuỷ lợi nhằm giảm ô nhiễm nguồn nước.

- Thiết kế hệ thống cấp nước, tiêu nước cho các khu nuôi thuỷ sản đáp ứng đủ yêu cầu
cấp nước và kênh tiêu phải tách rời khỏi kênh lấy nước.
- Thiết kế, xây dựng hệ thống cống lấy nước và lọc phù sa đáp ứng tiêu chuẩn nuôi
trồng để tôm có thể phát triển tốt trong môi trường nước được cấp.
- Hệ thống kênh dẫn, kênh tiêu đào đắp đi qua vùng đất phèn cần lựa chọn các giải

pháp hợp lý để hạn chế quá trình oxy hoá các vật liệu sinh phèn gây chua cho các vùng
xung quanh và nguồn nước phía hạ lưu.
- Xây dựng chế độ tưới, tiêu hợp lý cho các vùng quy hoạch sản xuất lúa, vùng nuôi
thuỷ sản, xây dựng quy trình đóng mở cống ngăn mặn hợp lý đáp ứng yêu cầu: Lấy
nước mặn, ngăn mặn, xả phèn và trữ ngọt.
- Quản lý nước trong hệ thống kênh mương nội đồng cần phải được tính toán theo chế
độ rửa, chế độ tưới cho các loại cây trồng, cho từng loại đất và hướng dẫn người dân
cách thức vận hành quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao về hệ số sử dụng nước và
giảm mức độ gây ô nhiễm môi trường hoặc gây lãng phí nguồn nước.
- Xây dựng các tổ dùng nước nhằm sử dụng hợp ý, có hiệu quả nguồn nước tưới tạo
điều kiện tốt cho việc quản lý tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm và các hộ gia
đình học hỏi lẫn nhau về kỹ thuật canh tác, nuôi trồng cũng như kỹ thuật sử dụng nguồn
nước cho thuỷ sản.
- Lập các chương trình dự báo về diễn biến môi trường nước trong các vùng bố trí quy
hoạch nuôi thuỷ sản, trồng lúa theo các phương án thiết kế hệ thống công trình thuỷ lợi.
P a g e | 24


b. Các biện pháp trong nông nghiệp:
- Quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho từng tiểu vùng cần phải xét đến tính phù hợp
về điều kiện thổ nhưỡng, tập quán canh tác, nguồn nước cấp, mức tăng trưởng dân số
trong những năm tới.
- Các vùng đất trũng, phèn nặng cần xây dựng các hồ sinh thái phát triển tổng hợp:
Phát triển thuỷ sản, lấy nước tưới vào thời kỳ hạn và sử dụng nước sinh hoạt.
- Thiết kế, quy hoạch của các ngành như nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, thuỷ sản,
xây dựng nên được xét đồng bộ nhằm xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh, lâu dài,
không chồng chéo để không xảy ra hiện tượng lãng phí và ảnh hưởng tới môi trường.
- Canh tác trên vùng đất phèn phải thực hiện theo các hướng dẫn kỹ thuật nhằm hạn
chế sự xì phèn, tiêu thoát các độc tố từ trong đất ra nguồn nước mặt do quá trình thau
rửa phèn.

- Khuyến cáo nông dân sử dụng phân bón vi sinh, sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc diệt
cỏ có thời gian phân giải ngắn.
c. Biện pháp quản lý và giáo dục cộng đồng:
- Cần có sự hợp tác toàn diện giữa Ban quản lý các dự án với các ban ngành có liên
quan của địa phương
bàn về vấn đề tổ chức
thực hiện, về tiến độ
thi công, về biện pháp
thi công và về giám
sát thi công công
trình.
- Giám sát việc
thực thi các hạng mục
công trình theo nội
dung thiết kế, khi có
các vấn đề ô nhiễm
môi trường xảy ra cần
đề xuất ngay các giải
pháp cụ thể mang tính khả thi để khắc phục mà không phải chờ đợi kéo dài thời gian
tăng thêm mức độ nghiêm trọng.
- Thông báo cho người dân trong vùng dự án về những kế hoạch, tiến độ xây dựng các
công trình và lợi ích của các công trình này đối với đời sống dân sinh kinh tế.
- Tuyên truyền vận động quần chúng hưởng ứng các chương trình chống ô nhiễm môi
trường nước: Không thải các chất thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi và chất thải rắn
xuống các kênh rạch.
- Di rời các nhà ở phía lòng kênh vào phía trong để tránh hiện tượng xả thải xuống lòng
kênh và tai nạn giao thông thuỷ.
- Xây dựng các khu tái định cư cần phải bố trí hệ thống thu gom xử lý nước thải, rác
thải, xây dựng hệ thống nước cấp sinh hoạt.
- Cần xây dựng kế hoạch thu thập, phân tích định kỳ về chất lượng nước trong vùng.

Phân tích diễn biến về thành phần các loài sinh vật nước.
P a g e | 25


×