Bài 6. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
Số tiết thực hiện:
I.
Mục đích yêu cầu
1. Kiến thức
Sinh viên nắm được:
- Vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MacLênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
- Tôn giáo và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
2. Kỹ năng
- Rèn luyện các kỹ năng thuyết trình, tư duy, sánh tạo, của
sinh viên và vậng dụng các bài học vào trong thực tiễn cuộc
sống hàng ngày
- Vận dụng kiến thức trên để lý giải xu thế phát
triển tất yếu của lịch sử.
3. Giáo dục:
- Hình thành cho sinh viên niềm tin vào chủ trương ,
đường lối phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt
Nam.
- Củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin, đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Gíup sinh viên có niềm tin vào bản thân, sẵn sàng
học tập cống hiến cho sự phát triển.
II.
Kiến thức trọng tâm
- Vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MacLênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
- Tôn giáo và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
Tài liệu, và phương tiện dạy học
1. Giáo trình, tài liệu tham khảo
- Giáo trình: những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lenin, NXB chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội – 2013
- Tài liệu tham khảo: giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học,
PGS.TS Đỗ Công Tuấn, HVBCTT
2. Phương tiện dạy học
Giáo án, phấn, bảng, máy chiếu, micro, danh sách lớp học
Phương pháp dạy học
III.
IV.
Hỏi đáp, thuyết trình, …
Bướ
Nội dung
Phương pháp,
Thờ
c
phương tiện
i
thực Cơ bản
Chi tiết
Phương pháp
Phươn gia
hiện
n
g tiện
1
Ổn
định Điểm danh sĩ số Hỏi đáp
Míc
3ph
lớp
lớp
2
Mở
bài Đặt câu hỏi
gián tiếp
3
1.Vấn đề 1.1. Khái niệm
dân tộc
dân tộc
và những Dân tộc là một
nguyên
hình thức tổ chức
tắc cơ
cộng đồng người
bản của
có tính chất ổn
chủ
định được hình
nghĩa
thành trong lịch
Macsử; là sản phẩm
Lênin
của quá trình
trong
phát triển lâu dài
việc giải
của lịch sử xã hội.
quyết
Lịch sử xã hội đã
vấn đề
cho thấy, trước
dân tộc
khi cộng đồng
dân tộc ra đời,
loài người đã trải
qua những hình
thức cộng đồng:
thị tộc, bộ lạc và
bộ tộc.
Những hình thức
cộng đồng này có
sự phát triển từ
thấp đến cao theo
sự biến đổi của
phương thức sản
xuất. Sự hình
thành cộng đồng
dân tộc trên thế
giới diễn ra không
đều nhau. Ở các
nước phương Tây,
sự hìn thành dân
tộc gắn liền với
quá trình hình
thành và phát
triển của phương
thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Theo Lênin, ở các
nước phương Tây
chỉ khi chủ nghĩa
tư bản ra đời
cộng đồng bộ tộc
mới phát triển
thành cộng đồng
dân tộc. Bởi vì, do
sự phát triển của
lực lượng sản
xuất và trên cơ sở
đó nền sản xuất
hàng hóa tư bản
chủ nghĩa mở
rộng đã phá vỡ
tình trạng cát cứ
phong kiến, thị
trường có tính địa
phương khép kín
bị xóa bỏ và thị
trường dân tộc
xuất hiện.
Cùng với quá
trình kinh tế đó là
sự phát triển
ngày càng chín
muồi các nhân tố
ý thức tộc người,
văn hóa, ngôn
ngữ đã tác động
hình thành dân
tộc trên cơ sở một
bộ tộc hoặc do
nhiều bộ tộc hợp
nhất lại. Đây là
loại hình dân tộc
chịu ảnh hưởng
của hệ tư tưởng
tư sản, do giai
cấp tư sản lãnh
đạo, nên được gọi
là dân tộc tư sản.
Trong khi đó ở
phần lớn các nước
phương Đông, sự
hình thành cộng
đồng dân tộc chịu
sự tác động của
hoàn cảnh lịch sử
có tinhd đặc thù,
trong đó, các yếu
tố cố kết tự
nhiên-xã hội, quá
trình đấu tranh
dựng nước và giữ
nước…đã hình
thành nên dân
tộc.
Do đó, cộng
đồng dân tộc đã
ra đời trước khi
chủ nghĩa tư bản
được xác lập. có
thể coi đây là loại
hình dân tộc tiền
tư bản hình thành
trên cơ sở một
nền văn hóa, một
ý thức, tâm lý dân
tộc phát triển
chính muồi nhưng
lại có một cơ sở
kinh tế chưa phát
triển.
*Khái niệm dân
tộc thường được
dùng với hai
nghĩa:
- Dùng để chỉ
cộng đồng người
cụ thể nào đó có
những mối liên hệ
chặt chẽ, bền
vững, có sinh
hoạt kinh tế
chung, có ngôn
ngữ chung của
cộng đồng và
trong sinh hoạt
văn hóa có những
nét đặc thù so với
những cộng đồng
khác; xuất hiện
sau cộng đồng bộ
lạc; có sự kế thừa
và phát triển hơn
những nhân tố
tộc người ở cộng
đồng bộ lạc, bộ
tộc và thể hiện
thành ý thức tự
giác của các
thành viên trong
cộng đồng đó.
- Dùng để chỉ
một cộng đồng
người ổn định,
bền vững hợp
thành nhân dân
của một quốc gia,
có lãnh thổ
chung, nền kinh
tế thống nhất,
quốc ngữ chung,
có truyền thống
văn hóa, truyền
thống đấu tranh
chung trong quá
trình dựng nước
và giữ nước. Như
vậy, về khái niệm
dân tộc, nếu theo
nghĩa thứ nhất,
dân tộc là bộ
phận của quốc
gia, là cộng đồng
xã hội theo nghĩa
là các tộc người,
còn theo nghĩa
thứ hai thì dân
tộc là toàn bộ
nhân dân một
nước, là quốc giadân tộc.
Với nghĩa như vậy
đã cho thấy: khái
niệm dân tộc và
khái niệm quốc
gia có sự gắn bó
chặt chẽ với
nhau, dân tộc bao
giờ cũng ra đời
trong một quốc
gia nhất định và
thực tiễn lịch sử
chứng minh,
những nhân tố
hình thành dân
tộc chín muồi
thường không
tách rời với sự
chín muồi của
những nhân tố
hìn thành quốc
gia. Đây là những
nhân tố bổ sung
và thúc đẩy lẫn
nhau trong quá
trình phát triển
1.2. Hai xu
hướng phát
triển của
dân tộc và
vấn đề dân
tộc trong
xây dựng
chủ nghĩa xã
hội
Khi nghiên cứu về
dân tộc và phong
trào dân tộc trong
chủ nghĩa tư bản,
Lênin đã phân
tích và chỉ ra hai
xu hướng phát
triển có tính
khách quan của
dân tộc:
-Xu hướng thứ
nhất: Do sự chín
muồi của ý thức
dân tộc, sự thức
tỉnh về quyền
sống của mình,
các cộng đồng
dân cư muốn tách
ra để thành lập
các quốc gia dân
tộc độc lập. Thực
tế này đã diễn ra
ở những quốc gia,
khu vực nơi có
nhiều cộng đồng
dân cư với nguồn
gốc tộc người
khác nhau trong
chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng này
biểu hiện thành
phong trào đấu
tranh chống áp
bức dân tộc để
hướng tới thành
lập các quốc gia
dân tộc độc lập
và có tác động
nổi bật trong giai
đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản.
Trong xu hướng
đó, nhiều cộng
đồng dân cư đã ý
thức được rằng,
chỉ trong cộng
đồng dân tộc độc
lập họ mới có
quyền quyết định
con đường phát
triển của dân tộc
mình.
-Xu hướng thứ
hai: Các dân tộc ở
từng quốc gia, kể
cả các dân tộc ở
nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại
với nhau. Sự phát
triển của lực
lượng sản xuất,
của giao lưu kinh
tế, văn hóa trong
chủ nghĩa tư bản
đã tạo nên mối
liên hệ quốc gia
và quốc tế mở
rộng giữa các dân
tộc, xóa bỏ sự
biệt lập, khép kín,
thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần
nhau.
Trong điều kiện
chủ nghĩa đế
quốc, sự vận
động của hai xu
hướng trên gặp
rất nhiều khó
khăn, trở ngại. Xu
hướng các dân
tộc xích lại gần
nhau trên cơ sở tự
nguyện và bình
đẳng bị chủ nghĩa
đế quốc phủ
nhận, thay vào đó
là những khối liên
hiệp với sự áp
đặt, thống trị của
chủ nghĩa đế
quốc nhằm áp
bức, bóc lột các
dân tộc còn
nghèo nàn và lạc
hậu. Sau thắng lợi
của cách mạng
tháng Mười Nga,
một thời đại mới
đã xuất hiện thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã
hội. Có thể nói
đây cũng là một
sự quá độ lên một
xã hội trong đó
các quyền tự do,
bình đẳng và mối
quan hệ đoàn kết,
hữu nghị giữa
người được thực
hiện. Giai cấp
công nhân hiện
đại với sứ mệnh
lịch sử của mình,
cùng với nhân
dân lao động sẽ
sáng tạo ra xã hội
đó.
Khi nghiên cứu về
dân tộc, quan hệ
dân tộc và những
xu hướng phát
triển của nó, chủ
nghĩa Mác-Lênin
khẳng định rằng,
chỉ trong điều
kiện của chủ
nghĩa xã hội, khi
tình trạng áp bức
giai cấp, tình
trạng người bóc
lột người bị thủ
tiêu thì tình trạng
áp bức dân tộc
cũng bị xóa bỏ.
Với thắng lợi của
cách mạng vô
sản, giai cấp công
nhân đã trở thành
giai cấp cầm
quyền tạo tiền đề
cho tiến trình xây
dựng chủ nghĩa
xã hội, đồng thời
cũng mở ra quá
trình hình thành
và phát triển của
dân tộc xã hội
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dân
tộc xã hội chủ
nghĩa chỉ xuất
hiện khi sự cải
tạo, xây dựng
từng bước cộng
đồng dân tộc và
các mối quan hệ
xã hội, quan hệ
dân tộc theo các
nguyên lý của
chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đồng
thời, dân tộc xã
hội chủ nghĩa
cũng chỉ có thể ra
đời từ kết quả
toàn diện trên
mọi lĩnh vực của
công cuộc xây
dựng chủ nghĩa
xã hội từ kinh tế,
chính trị, xã hội
và văn hóa – tư
tưởng. Dân tộc
trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội có sự
vận động mới
theo xu hướng
ngày càng tiến bộ
văn minh. Trong
đó, hai xu hướng
khách quan của
sự phát triển dân
tộc sẽ phát huy
tác dụng cùng
chiều, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau
và diễn ra trong
từng dân tộc,
trong cả dân tộc,
quốc gia. Quan hệ
dân tộc là biẻu
hiện sinh động
của hai xu hướng
đó trong điều kiện
của công cuộc
xây dựng xã hội
mới – xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Tiến trình xây
dựng chủ nghĩa
xã hội đã tạo ra
những điều kiện
thuận lợi để xây
dựng quan hệ dân
tộc bình đẳng,
hợp tác giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ
giữa các dân tộc.
Sự xích lại gần
nhau trên cơ sở tự
nguyện và bình
đẳng sẽ là nhân
tố quan trọng cho
từng dân tộc
nhanh chóng đi
tới phồn vinh,
hạnh phúc. Mỗi
dân tộc không
những có điều
kiện khai thác tối
đa tiềm năng của
dân tộc mình để
phát triển mà còn
nhận được sự
giúp đỡ, dựa vào
tiềm năng của
dân tộc anh em
để phát triển
nhanh chóng. Sự
xích lại gần nhau
giữa các dân tộc
trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong
một quốc gia sẽ
làm cho những
giá trị, tinh hoa
của các dân tộc
hòa nhập vào
nhau, bổ sung
cho nhau làm
phong phú thêm
giá trị chung của
quốc gia – dân
tộc. Những giá trị
chung đó sẽ lại là
cơ sở liên kết các
dân tộc chặt chẽ,
bền vững hơn.
Tóm lại, dân tộc
và quan hệ dân
tộc trong tiến
trình xây dựng xã
hội xã hội chủ
nghĩa là một nội
dung quan trọng
trong toàn bộ nội
dung của sự
nghiệp xây dựng
xã hội mới. Xã hội
mới từng bước
tạo ra những tiền
đề, điều kiện để
xây dựng quan hệ
hợp tác giữa các
dân tộc. Sự phát
triển mọi mặt của
từng dân tộc gắn
với sự phát triển
của cả cộng đồng
các dân tộc. Sự
tăng cường tính
thống nhất các
dân tộc trở thành
một quá trình hợp
qui luật. Tuy
nhiên, tính cộng
đồng chung, tính
thống nhất vẫn
trên cơ sở giữ gìn
và phát huy tinh
hoa, bản sắc của
tưng dân tộc.
1.3. Những
nguyên tắc
cơ bản của
chủ nghĩa
Mác-Lênin
trong việc
giải quyết
vấn đề dân
tộc
Cùng với vấn đề
giai cấp, vấn đề
dân tộc luôn luôn
là một nội dung
quan trọng có ý
nghĩa chiến lược
của cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết vấn đề
dân tộc là một
trong những vấn
đề có ý nghĩa
quyết định đến sự
ổn định, phát
triển hay khủng
hoảng, tan rã của
một quốc gia dân
tộc.
Theo quan điểm
của chủ nghĩa
Mác-Lênin, vấn đề
dân tộc là một bộ
phận của những
vấn đề chung về
cách mạng vô sản
và chuyên chính
vô sản. Do đó,
giải quyết vấn đề
dân tộc phải gắn
với cách mạng vô
sản và trên cơ sở
của cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa MácLênin cũng nhấn
mạnh rằng, khi
xem xét và giải
quyết vấn đề dân
tộc phải đứng
vững trên lập
trường giai cấp
công nhân. Điều
đó có nghĩa là
phải trên cơ sở và
vì lợi ích cơ bản
lâu dài của dân
tộc. Giải quyết
vấn đề dân tộc,
thực chất là xác
lập quan hệ công
bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc
trong một quốc
gia, giữa các quốc
gia dân tộc trên
các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn
hóa, xã hội và
ngôn ngữ.
Trên cơ sở tư
tưởng của Mác,
Ăngghen về vấn
đề dân tộc và giai
cấp; cùng với sự
phân tích hai xu
hướng của quá
trình dân tộc,
Lêninđã nêu ra
“cương lĩnh dân
tộc” với ba nội
dung cơ bản: các
dân tộc hoàn toàn
bình đẳng; các
dân tộc được
quyền tự quyết;
liên hiệp công
nhân tất cả các
dân tộc lại. Đây
được coi là cương
lĩnh dân tộc của
chủ nghĩa MácLênin, của Đảng
Cộng sản. Cương
lĩnh dân tộc của
chủ nghĩa MácLênin là một bộ
phận không thể
tách rời trong
cương lĩnh cách
mạng của giai
cấp công nhân, là
tuyên ngôn về
vấn đề dân tộc
của Đảng Cộng
sản trong sự
nghiệp đấu tranh
giải phóng dân
tộc, giải phóng
giai cấp và giải
quyết đúng đắn
mối quan hệ dân
tộc. Cương lĩnh đã
trở thành cơ sở lý
luận cho chủ
trương, đường lối
và chính sách dân
tộc của các Đảng
Cộng sản và nhà
nước xã hội chủ
nghĩa.
-Các dân tộc
hoàn toàn bình
đẳng.
Đây là quyền
thiêng liêng của
các dân tộc. Tất
cả các dân tộc,
dù đông hay ít
người, có trình độ
phát triển cao
hay thấp đều có
quyền lợi và
nghĩa vụ như
nhau, không có
đặc quyền, đặc lợi
về kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngôn
ngữ cho bất cứ
dân tộc nào.
Trong một quốc
gia có nhiều dân
tộc, quyền bình
đẳng dân tộc phải
được pháp luật
bảo vệ và trong
thực tế phải được
thực hiện, trong
đó việc khắc phục
sự chênh lệch về
trình độ phát
triển kinh tế, văn
hóa giữa các dân
tộc do lịch sử để
lại có ý nghĩa cơ
bản. Trong quan
hệ giữa các quốc
gia – dân tộc,
quyền bình đăng
dân tộc gắn liền
với cuộc đấu
tranh chống chủ
nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ
nghĩa sôvanh
nước lớn, chống
sự áp bức, bóc lột
của các nước tư
bản phát triển đối
với các nước lạc
hậu, chậm phát
triển về kinh tế.
Mọi quốc gia đều
bình đẳng trong
quan hệ quốc tế.
- Các dân tộc
được quyền tự
quyết. Về thực
chất, quyền dân
tộc tự quyết là
quyền làm chủ
của mỗi dân tộc,
quyền tự quyết
định con đường
phát triển kinh tế,
chính trị - xã hội
của dân tộc mình.
Quyền dân tộc tự
quyết bao gồm
quyền tự do phân
lập thành cộng
đồng quốc gia
dân tộc độc lập
(vì lợi ích của các
dân tộc, chư
không phải vì
mưu đồ và lợi ích
của một nhóm
người nào) và
quyền tự nguyện
liên hiệp lại với
các dân tộc khác
trên cơ sở bình
đẳng. Khi xem xét
giải quyết quyền
tự quyết của dân
tộc cần đứng
vững trên lập
trường của giai
cấp công nhân:
ủng hộ các phong
trào tiến bộ, kiên
quyết đấu tranh
chống lại những
mưu toan lợi dụng
quyền dân tộc tự
quyết làm chiêu
bài để can thiệp
vào công việc nội
bộ các nước, đòi
ly khai chia rẽ
dân tộc.
- Liên hiệp công
nhân tất cả các
dân tộc. Đây là tư
tưởng, nội dung
cơ bản trong
cương lĩnh dân
tộc của Lênin. Tư
tưởng này là sự
thể hiện bản chất
quốc tế của giai
cấp công nhân,
phong trào công
nhân và phản ánh
tính thống nhất
giữa sự nghiệp
giải phóng dân
tộc với giải phóng
giai cấp. Đoàn kết
giai cấp công
nhân các dân tộc
có ý nghĩa lớn lao
đối với sự nghiệp
giải phóng dân
tộc. Nó có vai trò
quyết định đến
việc xem xét,
thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc
và quyền dân tộc
tự quyết. Đồng
thời, đây cũng là
yếu tố tạo nên
sức mạnh đảm
bảo cho thắng lợi
của giai cấp công
nhân và các dân
tộc bị áp bức
trong cuộc đấu
tranh chống chủ
nghĩa đế quốc
2. Tôn
giáo và
những
nguyên
tắc cơ
bản của
chủ
nghĩa
MácLênin
trong
việc giải
quyết
vấn đề
tôn giáo
2.1.Khái niệm tôn
giáo
Tôn giáo là một
hiện tường xã hội
ra đời rất sớm
trong lịch sử nhân
loại và tồn tại phổ
biến ở hầu hết
các cộng đồng
người trong lịch
sử hàng ngàn
năm qua. Nói
chung, bất cứ tôn
giáo nào, với hình
thái phát triển
đầy đủ của nó,
cũng đều bao
gồm: ý thức tôn
giáo (thể hiện ở
quan niệm về các
đấng thiêng liêng
cùng nhữn tín
ngưỡng tương
ứng) và hệ thống
tổ chức tôn giáo
cùng với những
hoạt động mang
tính chất nghi
thức tín ngưỡng
của nó.
Khi phân tích bản
chất tôn giáo với
tư cách là một
hình thái ý thức
xã hội, Ăngghen
đã cho rằng: “tất
cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là
sự phản ánh hư
ảo vào trong đầu
óc của con người
- của những lực
lượng bên ngoài
chi phối cuộc
sống của họ; chỉ
là sự phản ánh
trong đó những
lực lượng ở trần
thế đã mang
những hình thức
của lực lượng siêu
trần thế”.
Tôn giáo là sản
phẩm của con
người, gắn với
những điều kiện
tự nhiên và lịch
sử cụ thể, xác
định. Về bản chất,
tôn giáo là một
hiện tượng xã hội
phản ánh sự bế
tắc, bất lực của
con người trước
tự nhiên và xã
hội. Tuy nhiên,
tôn giáo cũng
chứa đựng một số
giá trị phù hợp với
đạo đức, đạo lý
con người. Trong
hệ thống những
lời răn dạy của
giáo lý tôn giáo
cũng có những lời
răn mà trong
chừng mực nào
đó khi quần
chúng chấp nhận
vẫn có tác dụng
điều chỉnh, như
khuyên làm điều
tốt, răn bỏ điều
ác đối với họ. Bởi
vậy khi tham gia
sinh hoạt tôn
giáo, người ta có
cảm nhận như
làm công việc
“tích đức”, “tu
thân”.
Trong lịch sử xã
hội loài người, tôn
giáo xuất hiện từ
rất sớm. Nó hoàn
thiện và biến đổi
của những điều
kiện kinh tế-xã
hội, văn hóa,
chính trị. Tôn giáo
ra đời bởi nhiều
nguồn gốc khác
nhau nhưng cơ
bản là từ các
nguồn gốc kinh
tế-xã hội, nhận
thúc và tâm lý.
2.2. Vấn đề tôn
giáo trong tiến
trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội và
trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn
tại.
Có nhiều nguyên
nhân cho sự tồn
tại của tính
ngưỡng tôn giáo,
trong đó có
những nguyên
nhân chủ yếu
sau:
- Nguyên nhân
nhận thức.
Trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội và
trong xã hội xã
hội chủ nghĩa vẫn
còn nhiều hiện
tượng tự nhiên,
xã hội và của con
người mà khoa
học chưa lý giải
được, trong khi đó
trình độ dân trí lại
vẫn chưa thực sự
được nâng cao.
Do đó, trước
những sức mạnh
tự phát của giới
tự nhiên và xã hội
mà con người vẫn
chưa thể nhận
thức và chế ngự
được đã khiến
cho một bộ phận
nhân dân đi tìm
sự an ủi, che chở
và lý giải chúng
từ sức mạnh của
thần linh.
- Nguyên nhân
kinh tế.
Trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội nền
kinh tế vẫn còn
tồn tại nhiều
thành phần kinh
tế với những lợi
ích khác nhau của
các giai cấp, tầng
lớp xã hội. Trong
đời sống hiện
thực, sự bất bình
đẳng về kinh tế,
chính trị, văn hóa,
xã hội vẫn còn
diễn ra, sự cách
biệt khá lớn về
đời sống vật chất
và tinh thần giữa
các nhóm dân cư
còn tồn tại phổ
biến. Do đó,
những yếu tố may
rủi, ngẫu nhiên
vẫn tác động
mạnh mẽ đến con
người, làm cho
con người dễ trở
nên thụ động với
tư tưởng nhờ
cậy, cầu mong
vào những lực
lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân
tâm lý. Tín
ngưỡng, tôn giáo
đã tồn tại lâu đời
trong lịch sử nhân
loại, đã trở thành
niềm tin, lối sống,
phong tục, tập
quán, tình cảm
của một bộ phận
đông đảo quần
chúng nhân dân
qua nhiều thế hệ.
Bởi vậy, cho dù
trong tiến trình
xây dựng chủ
nghĩa xã hội và