Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi một số loài thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 115 trang )

Kỹ thuật nuôi
(Monopterus albus)
Ts. Dương Nhựt Long
Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ

Đặc điểm sinh học và kỹ thuật
nuôi một số loài thủy sản
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA LƯƠN ĐỒNG
Theo Mai Đình Yên (1978), Trần Thị Thu Hương và Trương Thủ Khoa (1984) lươn này có một số đặc
điểm như sau
Lươn đồng Monopterus albus
1.1 Tập tính sống
Lươn là loài ưa sống chui rúc trong bùn đặc biệt trong lớp mùn bã hưu cơ có nhiều sinh vật đáy. Chúng ta
cũng bắt gặp lươn chui rúc trong các đống cỏ, rơm rạ trong ruộng hoặc ao mương. Ngoài ra lươn cũng có
tập tính đào hang ven bờ ao, mương để trú ẩn và làm tổ đẻ.
1.2 Tập tính bắt mồi
Lươn là loài ăn tạp nhưng thiên về động vật, đặc biệt thức ăn có mùi tanh như tôm, cá, nòng nọc... Ngoài
ra lươn cũng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác như phụ phẩm của lò mỗ, đồ phế thải của nhà bếp kể
cả thức ăn viên dành cho gia cầm.
1.3 Tập tính sinh sản
Lươn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có 2 mùa đẻ trong năm là tháng 5 - 6 và tháng 8 - 9. Lươn thường đẻ
trong tổ và làm bọt lấp kín miệng tổ, sau khoảng 7 - 8 ngày ở nhiệt độ 29 – 30
0
C trứng nở ra lươn con và
sau khoảng 10 ngày lươn con đã tiêu hết noãn hoàng và thóat ra khỏi tổ đi kiếm ăn.
Thức ăn của lươn ở giai đoạn này là giống loài động vật thủy sinh trong nước như giun ít tơ, bọ gậy...
1.4 Tập tính sinh trưởng của lươn
Lươn là loài động vật thủy sinh lớn chậm, trọng lượng trung bình của lươn sau 12 tháng có thể đạt 100 -
150g/con và sau 12 tháng có thể đạt từ 200 – 3000 g/con.
2. GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA LƯƠN
Lươn là một trong đối tượng dễ nuôi, có nhiều loại thức ăn khác nhau và có thể tận dụng những ao mương


nhỏ và cạn kể cả chuồng heo cải tạo lại để nuôi.
Nuôi lươn ở quy mô hộ gia đình ngoài vấn đề tận dụng lao động nhàn rỗi, thức ăn thừa của gia đình, của
chăn nuôi mà còn có thể tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống gia đình, và đặc biệt thích hợp
với các gia đình có nguồn vốn eo hẹp.
3. KỸ THUẬT NUÔI LƯƠN THỊT
3.1 Một số phương pháp nuôi lươn thịt
Do lươn có tập tính sống chui rúc trong bùn đáy và đào hang để trú ẩn, đồng thời lươn cũng có thể bò đi
mất nếu bờ ao không đủ cao. Do vậy vấn đề nuôi lươn trong các ao mương cần phải hết sức chú ý vấn đề
này.
Tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi mà có thể áp dụng một số phương pháp nuôi sau đây
3.1.1 Nuôi trong các hồ cement hoặc chuồng nuôi heo cải tạo lại
• Diện tích hồ nuôi có thể từ 4 - 6 hoặc 10 m
2
, tùy điều kiện cụ thể.
• Thành hồ phải đảm bảo độ cao để lươn không bò ra ngoài được. Độ cao tối thiểu của thành hồ
tính từ mặt bùn đáy trở lên phải cao hơn 2/3 chiều dài của lươn (ví dụ: lươn dài 50 cm có khả
năng bò qua bờ có chiều cao 30 - 35 cm).
• Sau khi đã sửa sang hồ xong nên đổ một lớp sình non dưới đáy hồ 20 - 25 cm (tốt nhất lấy sình
đất thịt pha sét). Cũng có thể dùng chuối cây xếp thành một lớp dưới đáy rồi đổ sinh phủ lên trên.
Trên mặt nước có thể thả lục bình hoặc bèo tai tượng khoảng 1/3 diện tích.
• Hồ nuôi lươn nên bố trí ống bọng để thay nước dễ dàng
• Hồ cement dùng để nuôi lươn bao gồm:
1. Ống cấp nước (5 cm)
2. Lớp sình 20 - 25 cm
3. Lớp nước 5 - 10 cm (tính từ mặt sình lên)
4. Ống thoát nước (5 cm)
5. Thành hồ bằng gạch xây, có gờ nhằm tránh cho lươn thóat ra ngoài.
3.1.2 Nuôi lươn trong các ao mương
Các ao mương nhỏ có thể tận dụng để nuôi lươn. Nhưng cần chú ý các vấn đề sau:
• Cần phải vét hết lớp bùn đáy tới lớp đất dẻo, lớp bùn này có thể phơi ráo nước hoặc khô để sau

này trả lại đáy ao.
• Dùng cát đổ xuống đáy ao một lớp 5 - 10 cm. Tốt nhất trộn vôi với cát rồi lắng xuống đáy để sau
này lươn không đào sâu được. Có thể trộn vôi với cát theo tỷ lệ 5 - 6 kg vôi trộn với 1m
3
cát.
• Sau khi trộn xong, láng khắp đáy hồ và đầm nén cho cứng. Bờ ao cũng phải lấp hết hang hốc và
đầm cho cứng.
• Đổ một lớp sình khoảng 20 - 30 cm, tốt nhất nên sứ dụng bùn mới hoặc sử dụng lại bùn đáy mới
vét lên đã được phơi khô.
• Cần phải đắp một cù lao ở giữa ao, mương để hạn chế lươn đào hang xung quanh bờ. Diện tích
cù lao thường chiếm khoảng 1/4 - 1/5 diện tích ao hồ. Nếu mương dài và nhỏ thì nên đắp cù lao ở
một phía bờ mương hoặc giữa mương. Cù lao phải cao hơn mực nước 5 - 10 cm nhưng phải thấp
hơn bờ ao 50 - 60 cm. Trên mặt cù lao có thể trồng cỏ hoặc các loại khoai môn nước
3.1.3 Nuôi lươn trong hồ đất đắp có lót cao su
• Chọn nơi đất cứng để đào hồ nuôi lươn. Thông thường chỉ nên đào sâu khoảng 0,3 - 0,5m, lấy đất
này đắp lên thành bờ. Đáy và bờ phải được đầm nén cho kỹ.
• Diện tích đào và đắp tùy theo điều kiện cụ thể, thông thường nên đào và đắp hồ có diện tích 10 –
12 m
2
.
• Dùng cao su (loại dùng để phơi lúa) để lót toàn bộ đáy và thành hồ
• Hồ đất lót cao su nuôi lươn
1. Lớp cao su lót đáy và thành hồ đất
2. Lớp bùn
3. Cù lao
4. Phần đất đắp bờ
5. Mặt đất trước khi đào hồ
6. Lớp nước trong hồ 10 - 15cm

• Sau khi lót cao su xong, đổ một lớp sình 20 - 25 cm và đắp một cù lao (có thể đắp ở giữa hồ hoặc

một phía nào đó của hồ). Cù lao phải đắp cao hơn mặt nước 5 - 10 cm và thấp hơn bờ khoảng 40
- 50 cm.
• Sau khi hoàn tất việc lót cao su, đắp cù lao và tạo một lớp bùn đáy thì cấp nước vào. Mực nước
trung bình 10 - 15 cm.
3.2 Thả giống lươn
Nguồn lươn giống hiện nay ở Đồng Bằng Sông Cửu Long chủ yếu được đánh bắt ở ngoài tự nhiên. Kích
thước lươn giống bắt được dao động rất lớn và phụ thuộc vào mùa vụ. Thông thường lươn giống vào
tháng 8 - 10 theo phương pháp xúc mô có chất lượng cao hơn so với lươn đánh bắt bằng phương pháp
đặt chúm, câu hoặc tát đìa. Lươn giống đánh bắt theo phương pháp xúc mô thường có kích thước đều (60
– 70 con/kg) và khỏe mạnh.
Khi thả lươn chúng ta nên chú ý không nên thả lươn quá lớn (100g/con) vì loại này khi đánh bắt đã bị vuốt
cho gãy xương sống cho khỏi bò mất, do vậy lươn sẽ chết sau 7 - 10 ngày thả. Ngoài ra lươn đươc đánh
bắt bằng mồi thuốc dân gian cũng không nên thả vì loại này cũng dễ chết sau khi thả vài ngày và thường
chết rộ sau khi thả 10 - 15 ngày.
Nói tóm lại, lươn có kích thước lớn, lươn đánh bắt bằng mồi thuốc, lươn loại nhỏ ở các vựa thu mua
chúng ta không nên thả vì loại này thường có tỷ lệ chết rất cao khi thả nuôi.
Mật độ thả: Mặc dù lươn có khả năng chịu đựng tương đối cao nhưng không nên thả quá dầy. Nếu thả
mật độ cao sẽ dẫn đến tình trạng lươn lớn không đều. Trung bình thả 1,0 - 1,5 kg/m
2
đáy hồ, ao.
Trước khi thả lươn cần xử lý qua nước muối 3 – 5 % trong 5 - 7 phút để phòng bệnh cho lươn.

3.3 Chế độ chăm sóc
3.3.1 Thức ăn
Do lươn ăn rất tạp nên có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi. Tuy nhiên những loại thức ăn
có nguồn gốc là động vật như tép, óc, cá, nòng nọc, ruột gà, vịt... thường có tác dụng làm lươn lớn rất
nhanh so với thức ăn có nguồn gốc thực vật như cám.
Chúng ta cũng có thể sử dụng các loại thức ăn cho gia cầm hiện nay để nuôi lươn hoặc tự phối chế thức
ăn đơn giản phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để nuôi lươn vẫn có thể đem lại kết quả tốt như
sau:

• Cám nhuyễn: 64%
• Bột cá lạt: 35%
• ADE + bột gòn + khoáng: 1%
• Trộn đều các thứ sau đó cho vào máy ép đùn thủ công để tạo thành thức ăn viên, phơi khô (viên
thức ăn lớn hay nhỏ tùy theo kích thước của lươn).
Lượng thức ăn cho mỗi ngày chiếm 5 – 7 % trọng lượng thân và nên cho ăn 2 - 3 lần trong ngày. Không
nên cho tất cả lượng thức ăn dồn vào một lần vì làm như vậy lươn ăn không hết, thức ăn phân hủy gây
thối nước, lươn dễ bị bệnh. Thức ăn nên được rải đều (đặc biệt gần khu vực cù lao là nơi lươn trú ẩn) để
lươn có cơ hội ăn được nhiều hơn.

3.3.2 Quản lý hàng ngày
• Cần phải giử môi trường nước luôn sạch sẽ và mát. Trung bình 3 - 4 ngày thay nước 1 lần cho
lươn.
• Khi thời tiết nóng kéo dài cần phải có biện pháp che mát cho ao hồ nuôi hoặc dùng lục bình thả
trên mặt hồ với diện tích khoảng 20 – 25 % mặt nước.
• Khi trời mưa to cần kịp thời rút bớt nước đề phòng nước đầy tràn bờ lươn trốn mất.
• Thường xuyên theo dõi để loại bỏ lươn chết (lươn bị bệnh hoặc sắp chết thường nằm trên mặt
bùn đáy) tránh thối nước.
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
(Artemia franciscana)
Nhóm nghiên cứu Artemia.
Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ

I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHÂN LOẠI VÀ PHÂN BỐ
1. Vị trí phân loại
• Ngành: Arthropoda
• Lớp: Crustacea
• Lớp phụ: Branchiopoda
• Bộ: Anostraca
• Họ: Artemiidea

• Giống: Artemia
2. Đặc điểm về hình thái
Artemia phát triển trải qua các giai đoạn:
- Ấu trùng mới nở (instar I =nauplius, có chiều dài 400-500 µm) có màu vàng cam, có một mắt màu đỏ
ở phần đầu và ba đôi phụ bộ. Ấu trùng giai đoạn I không tiêu hóa được thức ăn vì bộ máy tiêu hóa
chưa hoàn chỉnh. Lúc này, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng.
- Sau khoảng 8 giờ từ lúc nở, ấu trùng lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn II (instar II). Lúc này, chúng
có thể lọc và tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ có kích thước từ 1 đến 50 µm và bộ máy tiêu hóa đã bắt
đầu hoạt động. Ấu trùng tăng trưởng và trải qua 15 lần lột xác trước khi đạt giai đoạn trưởng thành.
Các đôi phụ bộ xuất hiện ở vùng ngực và dần dần biến thành chân ngực. Mắt kép xuất hiện ở hai bên
mắt
- Từ giai đoạn 10 trở đi, các thay đổi về hình thái và chuyên hóa chức năng của các cơ quan trong cơ
thể bắt đầu, chúng có sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực anten của chúng phát triển thành càng bám,
trong khi đó anten của con cái bị thoái hóa thành phần phụ cảm giác (râu cảm giác). Các chân ngực
được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng: Các đốt chân chính, các nhánh chân trong (vận chuyển và
lọc thức ăn) và nhánh chân ngoài dạng màng (mang).
- Artemia trưởng thành (dài khoảng 10-12 mm) có cơ thể kéo dài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng,
râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau của vùng ngực (vị trí sau
đôi chân ngực thứ 11) và con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôi
chân ngực thứ 11.
Hình 1: : Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos và ctv., 1980)

3. Phân bố
Ngày nay, sự phân bố của Artemia được chia làm hai nhóm:
• Những loài thuộc về Cựu thế giới (Old World) là những loài bản địa đã tồn tại từ rất lâu trong các
hồ, vịnh tự nhiên.
• Những loài thuộc về Tân thế giới (New World) là những loài mới xuất hiện ở những vùng trước
đây không có sự hiện diện của Artemia. Sự có mặt của chúng do người, chim hoặc là gió tạo ra
mà tiêu biểu là loài Artemia franciscana (đại diện cho loài Artemia ở Tân thế giới) đã được sử dụng
rộng rãi để thả nuôi ở nhiều ruộng muối trên khắp các lục địa.

II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Đặc điểm môi trường sống
Artemia chỉ có thể tìm thấy ở những nơi mà vật dữ (cá tôm, giáp xác lớn) không thể xuất hiện (cao hơn 70
ppt). Ở độ mặn bão hòa (≥250 ppt) Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt ngưỡng chịu đựng (trở nên
gây độc) và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
Các dòng Artemia khác nhau thích nghi rộng với sự biến đổi môi trường khác nhau đặc biệt là nhiệt độ (6-
35
o
C), độ muối (độ mặn của nước) và thành phần ion của môi trường sống. Ở các thủy vực nước mặn với
muối NaCl là thành phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven biển và các sinh cảnh nước mặn khác
nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great Salt Lake (GSL) ở Utah, Mỹ. Các sinh cảnh Artemia khác
không có nguồn gốc từ biển nằm sâu trong lục địa có thành phần ion khác rất nhiều so với nước biển: Vực
nước sulphate (Chaplin lake, Saskatchewan, Canada), vực nước carbonate (hồ Mono Lake, California,
Mỹ), và các vực nước giàu lân (rất nhiều hồ ở Nebraska, Mỹ).
Artemia được nuôi rộng rãi ở Việt nam thuộc dòng Artemia franciscana, mặc dù có nguồn gốc từ Mỹ (San
Francisco Bay, USA) nhưng sau thời gian thích nghi dòng này gần như đã trở thành dòng bản địa của Việt
nam và chúng có nhiều đặc điểm khác xa so với tổ tiên chúng đặc biệt là khả năng chịu nóng. Hiện tại
chúng có thể phát triển tốt trong điều kiện:
- Độ mặn: 80-120 phần ngàn
- Nhiệt độ: 22-35
o
C
- Oxy hoà tan: không thấp hơn 2 mg/l
- pH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0)
2. Đặc điểm về dinh dưỡng
Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa, chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi khuẩn có
kích thước nhỏ hơn 50µm. Các sinh cảnh tự nhiên có Artemia hiện diện thường có chuỗi thức ăn đơn giản
và rất ít thành phần giống loài tảo. Artemia thường xuất hiện ở những nơi có nồng độ muối cao, vắng mặt
các loài tôm, cá dữ và các động vật cạnh tranh thức ăn khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Ở các
sinh cảnh này nhiệt độ, thức ăn và nồng độ muối là những nhân tố chính ảnh hưởng đến mật độ của quần

thể Artemia hoặc ngay cả đến sự vắng mặt tạm thời của chúng.
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối hợp phân chuồng (chủ yếu là
phân gà) kết hợp với phân vô cơ (Urea, DAP...) để gây màu trực tiếp (trong ao nuôi Artemia) hoặc gián tiếp
(ngoài ao bón phân) trước khi cấp nước “màu” (nước tảo) vào trong ao nuôi. Phân gà khi được bón trực
tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, phân còn là nguồn thức ăn trực
tiếp cho Artemia. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hàng ngày thiếu hụt, nông dân còn sử
dụng cám gạo, bột đậu nành hoặc các loại phụ phẩm nông nghiệp khác...để duy trì quần thể Artemia.
III. KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
1. Thời vụ sản xuất Artemia?
Trùng hợp với thời vụ sản xuất muối khác nhau ở từng địa phương, chẳng hạng ở khu vực Vĩnh châu Bạc
liêu mùa vụ sản xuất Artemia bắt đầu từ cuối tháng 11 và kết thúc vào đầu tháng 6 dương lịch hàng năm,
trong khi quá trình này kéo dài từ đầu tháng 1 và kết thúc vào cuối tháng 8 ở khu vực Cam ranh.
Tuy nhiên, mùa vụ có thể kéo dài nếu nước mặn được chuẩn bị sớm và độ mặn trong ao được duy trì ở
các tháng đầu của mùa mưa.
2. Xây dựng ao nuôi Artemia:
- Chọn điểm: Ngoài các yêu cầu về kỹ thuật trong lựa chọn địa điểm cấy thả, trước khi xây dựng kế hoạch
cần lưu ý các điểm sau:
+ gần nguồn nước biển (khắc phục tình trạng thiếu nước nhất là trong mùa khô)
+ thuận lợi trong giao thông (để vận chuyển nguyên liệu, phân bón...)
+ an ninh (tránh trộm cắp, mất mát)
- Diện tích: Để dể quản lý, diện tích ao nuôi khoảng 0.5 đến 1 ha là thích hợp nhất. Ao thường có dạng
hình chử nhật với chiều dài gấp 3 đến 4 lần chiều rộng.
- Hướng ao: Trục dài hoặc đường chéo của ao nằm xuôi theo hướng gió chính của địa bàn, để giúp cho
việc thu trứng sau này được thuận lợi, vì trứng nổi trên mặt nước sẻ được gió thổi tấp vào bờ cuối gió.
- Kỹ thuật xây dựng công trình: Ao nuôi thường được xây dựng theo hai dạng: riêng rẽ họăc trong cùng
một hệ thống, ở ao riêng rẽ thường tốn kém hơn vì bờ ao cần được xây dựng chắc chắn và có hệ thống
cấp tháo nước riêng biệt, ở hệ thống kết hợp chỉ cần chú ý tu sửa đê bao của toàn hệ thống còn kênh cấp
tháo thì được phân bổ chung cho các ao nên giảm được chi phí.
Các chỉ tiêu cần lưu ý trong xây dựng:
Chỉ tiêu Ao đơn Ao trong hệ thống

Bờ bao (m)
chân 4
mặt 2
cao 1
bờ lưu thông 0.5
Bờ ao (m)
chân 3 2
mặt 1.5 1
cao 0.7 0.7
bờ lưu thông 0.5 0.5
Mương quanh (m)
mặt 3 2
sâu 0.3 0.3
Máng cấp (m) máng nổi
mặt 2
cao 1
Máng tháo (m) máng chìm
mặt 2
sâu 0.5
Cống cấp tháo(m) gỗ hoặc xi măng
khẩu đô 0.5 0.5
Lưu ý: ở những nơi đất mới khai thác, hoặc dể thẩm lậu, bờ ao cần được xây dựng gia cố chắc chắn (đầm
nén, tô láng bờ...)
- Công trình phụ: Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý, ao nuôi cần được lắp đặt các công trình phụ sau:
+ lưới lọc cá: Dùng lưới nylon (cở mắc lưới từ 1-1.5 mm) để làm khung lọc nước hoặc may theo
dạng vèo để hứng nguồn nước cấp vào ao.
+ đập tràn: đập đất hoặc phai gổ lắp ở cống cho phép lớp nước nhạt tầng mặt (mùa mưa) được
tháo bỏ nhằm duy trì độ mặn cho ao nuôi.
+ nơi bón phân: được bố trí ngay nguồn nước cấp vào ao nuôi, thường được rào lại bằng tre hoặc
lá dừa nước để tránh phân bị trôi dạt.

+ rào phá sóng: được lắp đặt ở bờ cuối gió bằng các vật liệu rẻ tiền (tre, lá dừa nước...), nhằm
phá sóng để trứng dể tập trung nơi thu hoạch.
+ vách ngăn trứng: thường dùng nylon để lót bờ nơi thu hoạch nhằm tránh trứng thất thoát vào bờ
đất, tuy nhiên cách này khá đắt tiền nên người dân thường dùng bùn nhão để tô láng góc bờ chỗ
thu hoạch.

3. Quá trình thu gom nước mặn (đi nước) để thả Artemia
Nước mặn được chuẩn bị theo kỹ thuật làm muối, theo nguyên tắc bốc hơi nước biển để tăng độ mặn, để
rút ngắn thời gian này nhiều biện pháp đã được sữ dụng như: nuôi nước mỏng, bừa trục, sang ao... để có
đủ lượng nước và độ mặn theo yêu cầu, thường phải mất từ 2 đến 3 tuần ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu.
4. Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống
- Lượng nước và độ mặn: Lúc đầu vụ do nhiệt độ môi trường còn thấp, chỉ cần mực nước ngập trảng (đáy
ao) vài phân (một đến hai lóng tai) là có thể xuống giống, tuy nhiên cũng cần tính toán sao cho lúc cá thể
đạt cở trưởng thành mực nước phải đủ sâu để Artemia lẩn tránh sự săn bắt của chim.
Mặc dù Artemia có thể sống ở độ muối thấp, ta không nên cấy thả Artemia ở độ muối dưới 80 phần ngàn
(8 chữ), vì lúc này còn hiện diện rất nhiều: Fabrea, copepod, tảo độc...hoặc tôm cá dữ làm hạn chế tăng
trưởng hoặc tiêu diệt hoàn toàn số Artemia mới thả.
- Phòng ngừa địch hại: Địch hại thường gặp và cách phòng ngừa
Địch hại Cách phòng ngừa
+ Ao chưa thả giống
.Cá các loại Rút cạn nước ao, dùng vôi hoặc thuốc cá
.Lab-lab, rong tạp các
loại
Dọn ao, bừa trục, phơi nền đáy
+ Ao đã xuống giống
.Fabrea,copepod, tảo
độc
Cấp nước có độ muối cao hơn 80ppt
.Cá các loại
Dùng lưới chài để giăng bắt hoặc sang ao

để gạn cá tạp
.Lab-lab, rong tạp các
loại
Bừa trục, dọn đáy ao thường xuyên nếu cần
thì tháo cạn cải tạo lại
.Chim
Dùng lưới gió, bù nhìn, pháo hoặc có người
canh giữ trực tiếp
Chuẩn bị thức ăn cho ao nuôi Artemia:
Bước này chỉ cần thiết cho những ao nghèo tảo thức ăn (nước ao không màu hoặc màu nhạt), để gây màu
thường dùng các loại phân vô cơ (urea, lân...) hoặc hữu cơ (phân heo, phân gà, phân bò, phân dê, phân
cút...) với liều lượng
+ Phân hữu cơ: 500 đến 1000 kg/ha
+ Phân vô cơ : 50 đến 100 kg/ha
5. Thả giống
- Kỹ thuật ấp nở :
+ Dụng cụ: cân, xô, chậu, lưới lọc, ống dẫn khí, đá bọt, máy thổi khí, đèn huỳnh quang...
+ Điều kiện ấp nở:
.ánh sáng: thắp đèn huỳnh quang cách mặt nước bể ấp khoảng 2 tấc
.nhiệt độ: 25-30 độ C
.độ muối : nước biển 35 ppt (ba chữ rưỡi) được dùng để ấp trứng
.pH: 8.1 đến 8.3
.mật độ ấp: không nên nhiều hơn 5g trứng cho mỗi lít nước
+ Thao tác: Nước được lọc sạch trước khi cho vào bể ấp; cân trứng theo đúng mật độ qui định
cho vào bể ấp, kết hợp sục khí để đảo trộn nhằm thúc đẩy quá trình hút nước của trứng để kích
thích sự phát triển phôi. Sau 20 đến 24 giờ trứng nở tập trung, sẳn sàng cho việc cấy giống.

Những điểm cần lưu ý trong thao tác thả giống:
+ Cở giống thả: Cấy thả bằng giống mới nở (Naupli): hình thức này rất phổ biến, đặc biệt ở những nơi
mới bắt đầu thử nghiệm nuôi Artemia. Cấy giống cở nhỏ (Naupli giai đoạn I) có trở ngại là rất khó quan sát

cá thể ở những ngày đầu, nhưng chúng có thể chịu đựng sự sai khác lớn về nhiệt độ và độ muối giữa nơi
ấp nở và nơi cấy thả; do đó nếu kéo dài thời gian ấp nở ấu thể sẻ phát triển đến giai đoạn lớn hơn (Naupli
giai đoạn II; tuỳ điều kiện nhiệt độ trong bể ấp, thường thời gian để chuyển từ Naupli giai đoạn I sang giai
đoạn II mất khoảng 5 đến 8 giờ), khả năng trên sẻ giãm đi làm gia tăng tỉ lệ tử vong lúc cấy thả.
Cấy thả bằng giống lớn: khi cấy thả theo phương pháp này cần lưu ý là phải thuần hoá giống thả (cho một
phần nước ao định thả vào thùng giống vừa chuyển đến) để chúng thích nghi dần với nhiệt độ và độ muối
trước khi cấy thả vào ao.
+ Thời gian thả thích hợp: Thích hợp nhất là thời gian lúc sáng sớm (6 đến 7 giờ) hoặc chiều tối (17
đến 19 giờ), điều này cần nắm để tính toán kế hoạch ấp nở cho hợp lý.
+ Mật độ thả: Thường mật độ thả ở ao đất được đề nghị là 50 cá thể cho mỗi lít, tuy nhiên theo quan
sát thực tế nếu ao nuôi được cấy thả ở mật độ lớn hơn 100 cá thể trên lít thì sau 2 tuần ao nuôi bắt đầu
cho trứng, trong khi ở ao có mật độ thưa, quần thể phải trải qua giai đoạn tăng gia mật độ trước khi tham
gia cho trứng.
+ Vận chuyển giống: Nếu nơi cấy thả khá xa (thời gian vận chuyển từ một giờ trở lên) nơi ấp nở hoặc
ao cung cấp giống, giống nở cần được xan thưa, đóng oxy và hạ nhiệt độ của môi trường vận chuyển để
giãm thấp tỉ lệ hao hụt.
+ Nơi thả giống: Thích hợp nhất là bờ ao phía trên hướng gió, hoặc đầu nguồn nước cấp nhằm đãm
bảo cho giống được phân bố đều trong ao.
+ Nơi thu mẫu để đánh giá: Đối với giống lớn thì dể dàng quan sát sự tồn tại của chúng trong ao vừa
cấy thả, ngược lại nếu cấy giống ấp nở thì rất khó phát hiện chúng trong hai ba ngày đầu; tuy nhiên chúng
có tập tính phân bố ở nơi trên hướng gió, hoặc góc bờ. Dùng vợt bằng lưới mịn để thu và quan sát mẫu.
+ Quan sát mẫu: Ấu thể Artemia có màu trắng sữa hoặc trắng hồng, chúng bơi lội theo đường zig-zăg
nhưng đường di chuyển ngắn hơn của Copepod, có tập tính hướng quang dương (tập trung nơi có nhiều
ánh sáng).
+ Những dấu hiệu xấu cho ao nuôi: Với sự xuất hiện riêng lẻ hoặc kết hợp của các yếu tố sau đây:
fabrea, copepod, cá dữ, lab-lab, độ trong thấp, nhiệt độ cao, chim xuất hiện...các biện pháp khắc phục như
đã nêu trên.
6. Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi:
+ Cấp - tháo nước: Nhằm bù đắp sự thất thoát cột nước do thẩm lậu hoặc bốc hơi, mặt khác để cung
cấp tảo thức ăn (nước xanh), lượng nước cấp vào ao phải thoả mãn việc duy trì độ muối (90 đến 120 phần

ngàn) và độ đục (25 đến 35 cm) trong phạm vi tối hảo.
Tương tự, để đãm bảo chất lượng nước trong ao, thường thì sau một tháng rưỡi đến hai tháng tính từ lúc
xuống giống, nên tiến hành thay từ 30% đến 50% lượng nước trong ao.
+ Bón phân - cho ăn:
.bón phân (phân ga)ì 500 đến 1000 kg/ha/tháng
Uréa 50 đến 100 kg/ha/tháng
Phân gà (hữu cơ) được bón trực tiếp vào ao Artemia (chúng lọc các chất dinh dưỡng hoặc vi khuẩn có
trong phân) hoặc ao bón phân để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi; đối với Uréa (vô cơ)
chỉ nên bón ở ao bón phân. Để đơn giản trong việc đánh giá cơ ở thức ăn tự nhiên của ao bón phân và ao
nuôi, ngoài độ đục cần thiết như đã nêu trên, thang màu đề nghị dưới đây dùng để đánh giá thành phần
tảo trong ao:
Màu nước Thành phần tảo
Vàng nâu
Khuê tảo (Diatom) thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao
cho Artemia
Xanh lá cây
nhạt
Tảo lục (Chlorophyta) đặc biệt là Chlamydomonas,
không tốt cho Artemia
Xanh lá cây
đậm
Tảo lam (Cyanophyta), nhiều độc tố lại kích thước lớn
nên Artemia không thể sử dụng được
.Cho ăn: thỉnh thoảng cám gạo được bổ xung (từ 10 đến 20 kg/ha/ngày) khi ao nuôi thiếu thức ăn, tuy
nhiên hiệu quả sử dụng cám gạo của Artemia rất thấp (từ 10 đến 20%), nên phần lớn cám gạo kết lắng
xuống đáy gây ô nhiễm môi trường (có thể khắc phục bằng cách sàng lọc kỹ trước khi đưa xuống ao), vì
giá đắt nên việc dùng cám gạo không kinh tế lắm.
+ Chế độ bừa trục: Vừa có tác dụng đão trộn phân bón trong ao, vừa có tác dụng diệt các mầm rong
đáy (lab-lab), khi độ đục thích hợp có thể giãm chế độ bừa trục để hạ giá thành trong chi phí sản xuất.
+ Gia cố công trình: Hàng ngày bên cạnh các hoạt động nêu trên, trong quản lý ao cần phải thường

xuyên chăm sóc bờ bọng tránh rò gỉ thẩm lậu, kiểm tra lưới lọc để tránh sự xâm nhập của cá dữ...
7. Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm
Tuỳ theo yêu cầu mà sản phẩm thu hoạch từ ao Artemia có thể là trứng bào xác hoặc sinh khối.
+ Trứng bào xác (cyst): Tuỳ theo cách quản lý ao và tình hình phát triển của quần thể, thường sau 2
tuần hoặc hơn tính từ lúc xuống giống, con cái bắt đầu mang trứng: trứng trắng (đẻ con), hoặc trứng nâu
(trứng bào xác). Sau vài ngày ở ao có con cái mang trứng bào xác, ta có thể quan sát trứng nổi trên mặt
của góc ao cuối gió có màu vàng sậm đến vàng nâu.
Dùng vợt lưới mịn hoặc ca để vớt trứng, do trứng có lẩn rác bẩn nên cần tách trứng bằng các lưới có các
cở khác nhau:
- Lưới I: 1000 um (1mm)
- Lưới II: 400 um (0.4mm)
- Lưới III: 100 - 150 um (0.1-0.15mm)
Sau đó rữa sạch lại nhiều lần bằng nước trong ao, đoạn ngâm trứng trong nước muối bảo hoà (300 ppt =
25 đến 30 chữ), hàng ngày nên đảo trộn trứng và rút bỏ cặn dưới đáy vật chứa. Định kỳ hàng tuần nên
chuyển trứng cho sấy khô và bảo quản.
+ Sinh khối (biomass): Được dùng làm thức ăn phổ biến trong các trại giống và trại ương tôm cá. Để
duy trì quần thể Artemia, một phần sinh khối trong ao nuôi được thu hoạch theo định kỳ (hàng tuần hoặc
hàng tháng).
Sinh khối được thu bằng cách kéo lưới trực tiếp trong ao nuôi hoặc tháo một phần nước trong ao nuôi và
dùng lưới để chặn sinh khối lại.
Trong sử dụng có thể dùng sinh khối tươi trực tiếp hoặc chế biến hay đông lạnh để dùng dần về sau.
8. Một số hiện tượng thường gặp trong ao nuôi và cách phòng ngừa:
+ Địch hại: cá, tôm, copepoda, chim (xem thêm phần địch hại trong phần chuẩn bị ao)
+ Một số hiện tượng khác:
.Đốm đen (Leucotrix / black spots)
.Đốm trắng
.Đuôi dài ("thả diều" = long tail pellet)
.Chậm lớn: Môi trường sống không thích hợp (thiếu thức ăn, nhiệt độ, độ muối không phù hợp...)
.Không tham gia sinh sản (không đẻ hoặc túi ấp rổng): Thiếu ăn không đủ năng lượng cho tái phát dục
hoặc để phóng trứng.

.Chết hàng loạt do chênh lệch độ muối hoặc nhiệt độ: Hiện tượng này dể thấy, đặc biệt khi cấy thả sinh
khối cở lớn vào ao mới.
.Hiện tượng co cụm (boiling effect): Quần thể khoẻ mạnh, đặc biệt là những ngày nắng nhiều.
.Nổi đầu vào sáng sớm: Khi ao bẩn, hoặc tảo phát triển dày đặc và ngày hôm trước có mây hậu quả làm
thiếu oxy về đêm nên Artemia nổi đầu vào sáng sớm hôm sau.
KỸ THUẬT NUÔI BÀO NGƯ
Ts. Trương Quốc Phú
Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ

Bào ngư là loài có giá trị kinh tế bởi vì hàm lượng dinh dưỡng trong thịt của chúng rất cao. Bào ngư có
khoảng gần 100 loài, tất cả đều thuộc giống Haliotis. Chùng có mặt ở nhiều vùng trên trái đất, một số loài
hiện nay đang được nuôi như Haliotis disversicolor, H. asinina, H. oliva...
Hình 1: Hình dạng của Bào ngư (Haliotis)
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC.
1. Phân bố.
Các loài Bào ngư phân bố rộng khắp thế giới nhưng chúng phát triển phong phú về số lượng ở vùng ôn
đới. Bào ngư thích sống ở vùng biển cạn, môi trường nước xáo động mạnh và hàm lượng oxy hòa tan
cao. Vì vậy, chúng thường phân bố ở nền đáy cứng, trên các mõm đá. Bào ngư không phân bố ở các vùng
cửa sông bởi vì cửa sông nồng độ muối thấp, có nhiều bùn, nhiệt độ cao và oxy hòa tan thấp. Bào ngư
thích nghi trong khoảng nhiệt độ từ 10-35
o
C và nồng độ muối từ 25-35%o.
Ở Việt Nam Bào ngư phân bố ở đảo Cô Tô, Hạ Long, các đảo ở Bắc và Trung Bộ. Ở Nam Bộ Bào ngư có
ở đảo Phú Quốc.
2. Phương thức sống.
Phương thức sống của Bào ngư có liên quan đến cấu tạo của chân. Bào ngư dùng chân để bò từ nơi này
đến nơi khác giống như những loài ốc khác. Nhưng chân của Bào ngư không thích hợp để bò hoặc bám
trên cát. Trên mặt cát chùng dể bi lật ngửa và dể bị địch hại tấn công. Vì vậy, chỉ thấy Bào ngư phân bố ở
vùng đáy đá.
Khi gặp kẻ thù, Bào ngư dùng chân bám chặt trên đá và hạ thấp vỏ xuống để che đậy phần cơ thể và

chân. Chân của bào ngư có thể bám chắc trên đá, khi chúng nhận thấy bị đe đọa thì chúng bám rất chắc
và khó có thể tách chúng ra khỏi mặt đá.
Bào ngư sợ ánh sáng nên chúng thường ẩn nấp trong các hốc đá vào ban ngày và ban đêm thì bò ra để
tìm mồi.
3. Thức ăn.
Bào ngư là loài ăn thực vật. Thức ăn của Bào ngư thay đổi theo giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn đầu
của chu kỳ sống thì ấu trùng của Bào ngư sống trôi nổi. Chúng dường như không ăn trong giai đoạn ấu
trùng. Ở Mỹ người ta đã thành công ương ấu trùng trong nước vô trùng (sterile water). Tuy nhiên, theo qui
trình truyền thống của Nhật Bản thì ấu trùng Bào Ngư được ương trong môi trường có cung cấp tảo sống
và cho kết quả tốt hơn. Một nghiên cứu khác cho rằng ấu trùng có thể hấp thu chất dinh dưỡng trực tiếp từ
môi trường ngoài cho hoạt động sống của chúng.
Khi kết thúc giai đoạn ấu trùng phù du chúng chuyển sang sống bám. Ấu trùng bám dùng lưỡi sừng để cạp
các tảo san hô (coralline) hoặc lớp chất nhầy trên bề mặt đá (slime) lấy thức ăn. Chất nhầy trên mặt đá
bao gồm các tảo đơn bào và vi khuẩn tạo thành.
Giai đoạn trưởng thành thức ăn của Bào ngư là rong biển (seaweed). Bào ngư thích ăn rong đỏ (red
algae), loại rong nâu (brown algae) và vài loại rong lục (green algae).
Nhiệt độ có ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của bào ngư. Ở 8
o
C bào ngư không bắt mồi, 12
o
C bào ngư
ăn với lượng thức ăn là 6% trọng lượng cơ thể, 20
o
C bào ngư ăn với lượng bằng 15% trọng lượng cơ thể.
Bào ngư ăn nhiều rong nâu Laminaria (53%), một ít rong lục (6% Ulva, 2% Porphyra). Bào ngư bắt mồi tích
cực về đêm, đặc biệt là lúc mặt trời sắp lặn và sắp mọc.
4. Sinh Trưởng
Bào ngư sinh trưởng tương đối chậm, bào ngư Vành tai (Haliotis asinina) đạt 3,5cm sau 6 tháng, 55cm
trong 1 năm và 7,5 cm trong 3 năm. Bào ngư Nhật (H. discus) đạt 3 cm trong năm đầu, 5,5 cm, 7,5 cm và
9,5 cm cho năm thứ 2, 3 và măm thứ 4.

Bào ngư sinh trưởng đều, không thay đổi tỉ lệ hình học theo thời gian (b=3). Các yếu tố di truyền, môi
trường, thức ăn... ảnh hưởng đến sinh trưởng của bào ngư.
5. Sinh sản.
Bào ngư phân tính đực, cái riêng biệt và chúng ta có thể phân biệt dựa vào màu sắc của chúng trong mùa
sinh sản. Con cái thường có màu xanh đen, con đực có màu vàng. Trứng của Bào ngư thụ tinh ngoài, cho
nên tỉ lệ thụ tinh rất thấp. Tuy nhiên Bào ngư cũng có một tập tính sinh sản đặc biệt nhằm làm tăng tối đa
khả năng gặp nhau giữa tinh trùng và trứng. Khi sinh sản chúng thường tập trung thành từng đàn trên
trong một nơi với mật độ cao, như vậy đảm bảo trứng có cơ hội thụ tinh cao.
Trong tự nhiên Bào ngư thường thành thục sinh dục ở một thời điểm nhất định trong năm. Thí dụ ở
Australia loài Bào ngư Haliotis rubra (blacklip abalone) thành thục vào cuối mùa hè đầu mùa thu, thời gian
còn lại trong năm thì không thành thục. Ở Việt nam Bào ngư thường thành thục từ tháng 4-8. Bào ngư
khoảng 2 tuổi có thể thành thục tham gia sinh sản lần đầu.
Bào ngư thường đẻ vào lúc chiều tối và rạng sáng, con đực thường phóng tinh trước sau đó con cái mới
đẻ trứng. Sản phẩm sinh dục cũng có vai trò kích thích các cá thể khác trong quần thể sinh sản.
Tế bào trứng có đường kính khoảng 150-180µm (H. asinina), trứng chưa chín khi đẻ ra sẽ không có màng
tế bào hay màng keo (không thụ tinh). Tinh trùng có đầu hình lưỡi mác, đuôi dài 8-50 µm và có khả năng
thụ tinh trong 2 giờ sai khi được phóng thích ra môi trường nước, trứng bắt dầu phân cắt 10 phút sau thụ
tinh. Trứng bào ngư phân cắt hoàn toàn không đều theo kiểu xoắn ốc.
II. KỸ THUẬT NUÔI.
Trong nghề nuôi Bào ngư giống được cung cấp chủ yếu từ hai nguồn, giống tự nhiên và giống nhân tạo:
1. Giống tự nhiên.
Bãi giống tự nhiên thường là những bãi đá có Bào ngư bố mẹ phân bố, trên nền đá thường có nhiều rong
biển phát triển. Cao trình của bãi từ tuyến triều thấp trở xuống và có nồng độ muối từ 25-35%o. Sau mùa
sinh sản, theo dõi trên bãi giống khi thấy có nhiếu Bào ngư con kích thước 0,5-1cm (ấu thể) thì có thể tiến
hành thu giống. Cách thu giống đơn giản là dùng tay và móc để bắt giống.
2. Giống nhân tạo.
Hiện nay có nhiều cách cho Bào ngư sinh sản nhân tạo. Dùng các kích thích bằng hóa chất hoặc vật lý để
kích thích Bào ngư sinh sản như: tia cực tím, oxy già, gây sốc nhiệt, sốc pH... Qui trình sản xuất giống của
Nhật và Trung Quốc tương đối đơn gian và dể áp dụng đó là dùng nước chảy để kích thích Bào ngư sinh
sản.

Quy trình sản xuất giống của Nhật bản:
• Dụng cụ, thiết bị: dụng cụ để chứa Bào ngư bố mẹ khi sinh sản là một thuyền gổ dài khoảng 3,5m,
rộng 1m và chiều cao mực nước trong thuyền là 1,5m. Trên thuyền có chia nhiều ô, xung quanh có
nhiều lỗ bọc lưới để cho nước lưu thông nhưng ngăn không cho ấu trùng ra ngoài. Sau khi chuẩn
bị xong thì mang đến bãi biển nước sạch để bắt đầu cho sinh sản.
• Tuyển chọn bố mẹ và cho sinh sản: chọc các cá thể khoẻ mạnh, sinh trưởng nhanh, không bị dị tật
và tuyến sinh dục thành thục (dựa vào màu sắc). Lấy tế bào sinh dục kiển tra dưới kính hiển vi.
Trứng chín hình tròn rời rạc và có thể nhìn thấy nhân, tinh trùng vận động mạnh khi cho vào môi
trường nước. Sau khi tuyển chọn xong đưa bố mẹ vào các ô thuyền với tỉ lệ 2-3 cái/1 đực. Trong
các ô thuyền nước lưu thông và điều kiện môi trường nước sạch sẽ, có hàm lượng oxy hòa tan cao
sau một thời gian ngắn Bào ngư sẽ đẻ. Thường xuyên theo dõi nếu Bào ngư sinh sản xong chúng
ta vớt bố mẹ ra khỏi các ô thuyền sau đó chuyển thuyền đến nơi ương (điều kiện môi trường ổn
định và ít sóng gió hơn).
• Ương ấu trùng: theo dõi quá trình phát triển phôi, khi xuất hiện ấu trùng phù du chúng ta cần cung
cấp thêm các loài tảo Silic, tảo Giáp làm thức ăn cho ấu trùng. Khi xuất hiện ấu trùng diện bàn
chúng ta thả giá thể vào. Giá thể thường dùng là đá sỏi hoặc các loại giá thể khác, trước khi thả
giá thể vào giá thể nên được rửa sạch. Khi xuất hiện ấu trùng bò lê thì chúng ta cho rong mơ non
vào cho ấu trùng ăn
• Chăm sóc: trong quá trình ương thường xuyên theo dõi và duy trì nhiệt độ từ 28-30
o
C. Nồng độ
muối 30%o và pH là 7,5. Cần chú ý ở giai đoạn ấu trùng hình thành nắp vỏ phải giữ môi trường
ương thật ổn định, nếu không ấu trùng sẽ không trãi qua được giai đoạn mất nắp vỏ và ấu trùng sẽ
chết.
• Vận chuyển giống: dụng cụ dùng vận chuyển chủ yếu là thùng gổ với kích thước F=45-50cm, cao
30-40cm. Mật độ vận chuyển khoảng 100 con/thùng. Trong quá trình vận chuyển phải thay nước
và giữ cho Bào ngư không bị chồng lên nhau, nêu Bào ngư bám vào nhau sẽ làm bít lỗ hút nước
của con bên dưới, Bào ngư sẽ bị chết.
Quy trình sản xuất giống bào ngư Haliotis oliva tại Việt Nam (Theo Lê Đức Minh, 2002):
• Chuẩn bị bố mẹ: Bố mẹ cho sinh sản lấy từ 2 nguồn tự nhiên và nuôi vỗ. Bố mẹ tự nhiên được

chọn dựa vào màu sắc tuyến sinh dục và vận chuyển theo phương pháp giữ ẩm (5 giờ). Bố mẹ có
thể nuôi vỗ trong bể có các điều kiện sau:
Nhiệt độ nước: 27-29
o
C
Độ mặn: 30-34%o
pH: 7,6-8,4
Thức ăn: Rong Gracilaria, Ulva, Sargassum, Laminaria
Sục khí mạnh, thay nước 100%
Siphon đáy ( hút cặn)
Cung cấp vật bám làm nơi trú ẩn cho bào ngư
Kiểm tra thường xuyên quá trình phát triển của tuyến sinh dục để tiến hành cho sinh sản
• Kích thích sinh sản:
Kích thích bằng chiếu tia cực tím: dùng đèn có công suất 10W chiếu vào nước trong 10-20 phút
bào ngư sẽ đẻ, nêu không thì lặp lại vài lần
Kích thích nhiệt khô: bọc bào ngư trong một lớp gạc thầm nước đặt ngửa trên khay phơi trong 30-
60 phút,sau đó cho và bể nước trở lại sẽ kích thích bào ngư sinh sản
Kích thích nhiệt nước: Nâng nhiệt độ nước lên 4oC trong 4 giờ sau đó hạ nhiệt đột ngột bằng
nhiệt độ ban đầu, lặp lại vào lần bào ngư sẽ đẻ
Kích thích bằng oxy già: Bọc bào ngư trong tấm gạc thấm nước, đặt ngửa trên khai men phơi
trong 10 phút sau đó cho vào bể nước có chứa H
2
O
2
4 mM trong 30-60 phút, thay nước mới 30
phút sau thì bào ngư sẽ đẻ
Kích thích bằng cách kết hợp chiếu tia cực tím với kích thích nhiệt khô và nhiệt nước: Phơi bào
ngư 30-60 phút sau đó cho vào nước có chiếu tia cực tím, nâng nhiệt độ lên 4
o
C (từ 27 lên 31

o
C),
tiếp đến hạ nhiệt độ đột ngột bằng nhiệt độ ban đầu
Kích thích bằng cách thay đổi chu kỳ ánh sáng: Che tối bể đẻ bằng vải bạt đen vào ban ngày và
chiếu sáng bằng đèn neon 40W vào ban đêm trong vòng 27-20 ngày bào ngư sẽ sinh sản
• Ương ấu trùng: 5-7 giờ sau thụ tinh có thể thu ấu trùng vào bể ương. Giai đoạn này ấu trùng
không ăn thức ăn ngoài nên chủ yếu là quản lý chất lượng nước tốt. Giữ nhiệt độ khoảng 27-30
o
C,
độ mặn >30%o và oxy > 4 mg/L. Giai đoạn ấu trùng bám bào ngư ăn tảo khuê sống bám như
Nitzschia, Navicula nên cần phài nuôi tảo cung cấp cho ấu trùng. Dùng các tầm nhựa mỏng làm
vật bám đặt trong môi trường có bón phân để nuôi tảo bám sau đó chuyển vào bể ương ấu trùng
để cho ăn. Sau 1 tháng ương ấu trùng đạt cỡ 2mm thì chuyển sang ương giống, giai đoạn này có
bổ sung thêm thức ăn lá rong tươi băm nhỏ (Rong có kích thước lớn). Khi ấu trùng đạt 10-15 mm
thì chuyển ra lồng để nuôi thịt
3. Nuôi lớn.
Bãi nuôi lớn được chọn ở tuyến triều thấp, có nồng độ muối 25-35%o và có nhiều rong đỏ, rong nâu. Dùng
đá làm giá thể xếp sao cho trên bãi có nhiều hốc đá cho Bào ngư ẩn nấp. Khi nước triều đứng (không có
dòng chảy) mang giống Bào ngư đến và rải đều trên bãi. Nên rải nơi cạn vì sau khi rải Bào ngư có khuynh
hướng di chuyển xuống sâu. Mật độ thả từ 5-10 con/m
2
. Trong quá trình nuôi nên thường xuyên sắp xếp
lại các giá thể và thả thêm rong bổ sung thức ăn cho Bào ngư. Sau 2-3 năm nuôi thì Bào ngư có thể đạt
kích cỡ thương phẩm có thể tiến hành thu hoạch.
KỸ THUẬT NUÔI CÁ BỐNG TƯỢNG
(Oxyeleotris marmoratus Bleeker)
Ts. Dương Nhựt Long
Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ

I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHÂN LOẠI VÀ PHÂN BỐ

1. Đặc điểm hình thái cấu tạo và phân loại
• Lớp Osteichthyes
• Lớp phụ Artinopterygii
• Bộ Perciformes
• Họ Eleotridae
• Loài: Oxyeleotris marmoratus Bleeker.
Các vi và tia vi
• Tia vi A I,9 (vi hậu môn)
• Tia vi ID VI (vi lưng)
• Tia vi IID I,9-10 (vi lưng)
• Tia vi P 17-19 (vi ngực)
• Tia vi V I,5 (vi bụng)
Hình 1: Hình dạng bên ngoài của cá Bống tượng
2. Đặc điểm về hình thái
Cá Bống tượng là loài có kích thước lớn nhất trong các loài thuộc họ cá bống. Thịt cá thơm ngon, ít xương
và có giá trị kinh tế cao. Cá có thân hình khỏe, dẹp bên về phía sau, đầu rộng và dẹp, mõm bằng. Miệng
hướng lên trên chẻ rộng và sâu, môi dưới lồi. Cá có mắt rộng nằm ở lưng bên. Vẩy cá rất nhỏ, vây lưng có
hai phần, vây ngực rất phát triển và nằm cao, vây bụng cũng rất phát triển và nằm ở mặt dưới của thân và
trước vây ngực, vây đuôi dài và tròn. Lúc tươi, thân cá có màu nâu đến màu gạch, đỉnh đầu đen. Mặt bụng
nhạt, lưng và hai bên có chấm đen, các vảy có màu nâu nhạt và các chấm đen không đều. (Nguyễn Anh
Tuấn, 1994).
3. Phân bố
Cá Bống tượng là loài đặc trưng cho vùng nhiệt đới. Chúng phân bố rộng rãi các nước thuộc Đông Nam
Châu Á như Campuchia, Lào, Thái lan, Indonesia, Malaysia và Việt nam. Ở Việt nam, cá được tìm thấy ở
các lưu vực thuộc hệ thống sông Cửu Long, sông Vàm cỏ và sông Đồng nai (Nguyễn Mạnh Hùng, 1995).
Cá Bống tượng có tập tính sống đáy, hoạt động nhiều về đêm, ban ngày thường vùi mình xuống bùn, đặc
biệt khi gặp nguy hiểm chúng có thể chúi xuống sâu đến 1m ở lớp bùn đáy và có thể sống ở đó hàng chục
giờ. Trong ao, cá ưa sống ẩn ở ven bờ, những nơi có hang hốc, rong cỏ và thực vật thủy sinh thượng
đẳng làm giá đỡ. Ở Việt nam, cá thường được khai thác, đánh bắt tự nhiên. Sản lượng khai thác tự nhiên
hàng năm khá lớn. Theo thống kê, sản lượng khai thác ở các tỉnh Nam bộ, Nam trung bộ và Tây nguyên

khoảng 40 tấn/năm (Nguyễn Anh Tuấn và ctv, 1994).
Gần đây, do nhu cầu về cá cho xuất khẩu rất lớn đã kích thích nghề thu gom, dưỡng cá và nuôi cá bè.
Nghề nuôi cá bè trên các sông, kênh, hồ đã phát triển khắp các tỉnh ĐBSCL nhất là An Giang, Đồng Tháp,
Tiền Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và vùng hồ Trị An. Theo Sầm Hoàng Văn - Sở Nông nghiệp tỉnh Đồng
tháp, hiện tại tỉnh có hơn 500 bè nuôi cá bống tượng và khoảng 40-50 hộ nuôi cá trong ao. Ở Trị An, mặc
dù chỉ mới phát triển nhưng nghề nuôi cá Bống tượng trong bè đã phát triển rất nhanh. Chỉ riêng khu vực
tỉnh Đồng nai đã có hơn 500 bè, đặc biệt là ở khúc sông La Ngà có tới 400 bè (Nguyễn Mạnh Hùng,
1995).
Cá Bống tượng được chào hàng sang Hồng Kông, Singapore vào những năm 1980, sau đó do không có
thị trường, thiếu đầu tư khoa học kỹ thuật nên phong trào lắng xuống. Đến những năm 1991, 1992 thị
trường cá bống tượng lại mở ra khá hấp dẫn, giá cá loại I cao gấp hai lần tôm cùng loại. Vào thời điểm
1993, giá cá loại I (> 400 gam) thu mua tại An giang, Đồng tháp, Tiền giang là 80.000-100.000 đ/kg. Nhưng
đến thời điểm 5/1994 giá cá loại I từ 120.000 - 130.000 đ/kg. Đến 1995, do cá xuất khẩu bị chậm lại nên
giá cá loại I giảm xuống còn 60.000 - 80.000 đ/kg. Tuy nhiên, do thịt cá bống tượng thơm, ngon nên giá
trên thị trường ở Malaysia, Singapore vào khoảng 14 USD/kg.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Đặc điểm môi trường
Cá Bống tượng sống trong các thủy vực nước ngọt như: sông ngòi, kinh rạch, ao hồ. Cá có thể chịu đựng
được với môi trường nước phèn pH dao động từ 5-6 và có thể sống trong nước lợ có nồng độ muối 15
%o. Nhờ có cơ quan hô hấp phụ, cá có thể chịu được trong điều kiện oxy thấp và ngay cả chui rúc trong
bùn trong nhiều giờ. Cá có thể sống trong khoảng nhiệt độ 15-41,5
o
C. Nhiệt độ thích hợp nhất là từ 26-
32
o
C.
2. Đặc điểm về dinh dưỡng
Phân tích chiều dài ruột và chiều dài thân cho thấy tỉ lệ Li/L ( 0,5 nên mang đặc tính của cá ăn động vật
(Niconski, 1963). Đây là loài cá dữ điển hình, thức ăn chủ yếu là động vật như tôm, tép, cá nhỏ, cua, ốc...
Tuy nhiên, khác với cá lóc, cá Bống tượng không chủ động bắt mồi mà chỉ rình mồi. Ngoài ra khi nuôi

trong lồng, ao cá ăn được các thức ăn chế biến.
So với các loài cá khác, cá Bống tượng có độ tăng trưởng chậm, đặc biệt là ở giai đoạn dưới 100g, từ
100g trở lên tốc độ tăng trưởng của cá khá hơn. Ở giai đoạn từ cá bột đến cá giống, cá phải mất thời gian
là 2-3 tháng mới đạt được chiều dài khoảng 3-4 cm. Từ cá giống, để có thể đạt được kích cỡ 100 g/con
cho việc nuôi bè, cá cần 4-5 tháng nữa. Trong tự nhiên, những cá con còn sống sót sau khi nở phải cần
khoảng 1 năm để có thể đạt cỡ 100-300 g/con. Để có được cá thương phẩm tờ 400 g/con trở lên, cá giống
có trọng lượng 100 g/con cần thời gian nuôi trong từ 5 - 8 tháng, nuôi trong bè từ 5-6 tháng (Nguyễn Mạnh
Hùng, 1995).
Cá bống tượng thành thục sinh dục trên dưới một năm. Mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá từ tháng 4-11, tập
trung từ 5-8. Khi đến mùa sinh sản, cá cái tìm cá đực bắt cặp và tiến hành sinh sản. Cá đẻ trứng dính và
tập hợp trứng lại tạo thành hình tròn bám vào giá thể. Ngoài tụ nhiên, cá đẻ trứng dính vào các hang, hốc
đá, rể cây và các vật thể khác dưới nước. Sau khi đẻ, cá đực canh tổ và tham gia ấp cùng cá cái, cá cái
bơi quanh ổ trứng và dùng đuôi quạt nước tạo thành dòng chảy lưu thông để cung cấp oxygen cho trứng
phát triển và nở thành cá con.
Sức sinh sản của cá bống tượng khá cao 100.000-200.000 trứng/kg cá cái. Tuy sức sinh sản cao nhưng
trong điều kiện tự nhiên có nhiều địch hại nên cá bị hao hụt nhiều.
III. KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG CÁ BỐNG TƯỢNG
Trong vài năm gần đây, phong trào nuôi cá bống tượng phát triển mạnh nhưng phần lớn con giống đều bắt
từ tự nhiên. Một số nơi đã cho sinh sản và ương nuôi thành công góp phần cung cấp cá giống cho người
nuôi. Qui trình nuôi vổ cá bố mẹ được thực hiện như sau:
1. Chuẩn bị ao nuôi vỗ cá bố mẹ
Ao nuôi cá bố mẹ có diện tích dao động từ 500–1000 m
2
. Ao có dạng hình chữ nhật, chiều dài gấp 3-4 lần
chiều ngang, độ sâu của ao từ 1,2-1,5m. Ao phải có nguồn cấp, thoát nước chủ động. Nguồn nước phải
trong sạch, không bị ô nhiễm. Đất không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Trước khi thả cá, ao phải được tát
cạn, tẩy dọn sạch sẽ, vét hết bùn đáy, lấp và trét hết các hang hốc, lổ cua, lổ mọi, lổ chuột đào, đắp lại chổ
sạt lở, trang bằng đáy. Nếu ao không tát cạn được thì tiến hành thuốc cá bằng rễ dây thuốc cá với liều
lượng 0,5 kg/100 m
2

. Sau đó tiến hành bón vôi với liều lượng 7-10 kg/100m
2
, ở những vùng bị nhiễm phèn
lượng vôi có thể tăng lên gấp đôi. Sau khi bón vôi nên tiến hành phơi đáy ao 2-3 ngày trước khi thả cá.
Sau khi cải tạo xong thì tiến hành lấy nước vào ao. Cống phải bịt lưới hai đầu và kích thước mắt lưới nhỏ
để ngăn cá tạp và địch hại xâm nhập vào ao cũng như không cho cá thoát ra ngoài.
2. Cá bố mẹ
Cá bống tượng có thể nuôi vỗ thành thục dễ dàng trong ao đất. Khi chưa thành thục rất khó phân biệt đực,
cái. Khi cá đã thành thục thì phân biệt đực, cái dễ dàng.
• Cá cái: gai sinh dục dài gần đến gốc vi hậu môn, có màu đõ ửng và tươi, đầu gai sinh dục tròn,
bụng cá to tròn. Trong một số trường hợp cá thành thục sinh dục có thể thấy được buồng trứng
hai bên bụng.
• Cá đực: gai sinh dục ngắn, đầu mút nhọn có hình tam giác.
Việc chọn cá bố nuôi vỗ phải tốt, khỏe mạnh không dị tật, không xây xát và đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
• Cá trên 1 năm tuổi.
• Trọng lượng từ 0.25 - 1.5 kg.
• Kích cỡ cá đều, mập, khỏe.
Thời gian nuôi vỗ. Tùy từng điều kiện cụ thể mà thời gian nuôi vỗ thành thục sinh sản khác nhau. Thời gian
nuôi vỗ được trình bày qua bảng sau.
Bảng 1: Thời gian nuôi vỗ thành thục sinh dục của cá Bống tượng

Địa điểm Thời gian nuôi vỗ
(ngày)
Tác giả Điều kiện ao
Long mỹ (Cần thơ) 74 Huỳnh Thị Mỹ Hương, 1986 Ao nước tĩnh
ĐH Cần thơ 65 Huỳnh Thị Mỹ Hương, 1986 Ao tĩnh thay nước
Cổ lịch 19 Huỳnh Văn Mừng, 1987 Ao thông rạch
Châu thành (Tiền giang) 42 Nguyễn Văn Vàng, 1988 Ao tĩnh bơm nước
Tân xuân (Đồng tháp) 32 Trần Thị Hồng An, 1994 Ao nước ra vào theo thủy triều
Bình Đức (An giang) 13 Lê Thành Nhân, 1995 Ao tĩnh thay nước

Thời điểm nuôi vỗ thích hợp là vào cuối tháng 12 hay đầu tháng giêng. Cá có thể đẻ tự nhiên trong ao với
tỉ lệ ghép 1 đực và 1 cái. Trong ao nuôi vỗ nên tách riêng đực cái vì cá có thể đẻ tự nhiên trong ao và
thuận lợi sau này có thể thu được nhiều cá thể và nhiều trứng cùng một lúc.
• Mật độ nuôi vỗ. Mật độ nuôi chung cá bố mẹ trong một ao là 0,2-0,3 kg/m
2
, nếu nuôi riêng đực là
0,5 kg/m
2
và cái là 0,2 kg/m
2
.
• Chế độ nuôi vỗ. Nuôi vỗ cá bống tượng bằng các loại thức ăn như: cá vụn, tép, ốc, cua... Mỗi ngày
cho ăn 2 lần vào buổi sáng hay buổi chiều. Lượng thức ăn chiếm 3–5 % trọng lượng cơ thể. Thức
ăn nên được đặt trong máng hoặc sàng và đặt nơi cố định trong ao. Hàng ngày nên kiểm tra sàn
ăn, nếu thừa thì loại bỏ thức ăn, còn nếu thiếu thì bổ sung thêm thức ăn (Trần Mạnh Hùng, 1995).
Một nghiên cứu khác của Panu Tavatmaneekul (1989) ở Thái lan thì lượng thức ăn nuôi vỗ hàng
ngày chiếm 5–10 % trọng lượng thân. Trong gian đoạn đầu, tỉ lệ các thành phần thức ăn trong hỗn
hợp là: cá tạp 95 %, cám 4 % và 1 % vitamin, khoáng.
Bảng 2: Ảnh hưởng của thức ăn nuôi vỗ lên sự thành thục cá bống tượng (Ngô Bá Thành và ctv, 1988)

Lô thí nghiệm Thức ăn nuôi vỗ Số cá thí nghiệm Số lần thành thục Tỉ lệ thành thục
I Giun đất 15 45 300%
II Cá, tép sống 13 35 269%
III Cá, tép chết 12 29 242%
Các thức ăn có nguồn gốc động vật đều cho kết quả thành thục tốt, điều này phù hợp với tính ăn của cá
trong tự nhiên. Cá bống tượng là loài đẻ nhiều lần trong năm, thời gian tái phát dục 3-4 lần/năm.
3. Sinh sản
Vật liệu cho đẻ. Cá bống tượng là loài đẻ trứng dính và có tập tính đẻ ở tầng đáy. Vì vậy khi cho cá đẻ ta
cần chuẩn bị tốt các giá thể. Giá thể thường là mê bồ hay gạch tàu. Nhược điểm của mê bồ là để lâu gây
thối nước ảnh hưởng đến trứng cá. Hiện nay giá thể thường sử dụng phổ biến là gạch tàu. Trước khi đặt

giá thể cần phải rửa sạch và đặt nghiêng một góc 45
o
hay song song với đáy và cách đáy 20-30 cm.
Kích thích sinh sản. Hiện nay, người ta thường cho cá bống tượng sinh sản theo 3 dạng cơ bản sau:
Cho đẻ tự nhiên trong ao. Mùa vụ cá đẻ tự nhiên từ tháng 3-11 dương lịch. Theo phương cách này, cần
kiểm tra độ thành thục sinh dục của cá để xác định thời điểm cá đẻ và đặt giá thể kịp thời.. Hàng ngày nên
kiểm tra giá thể khoảng 2-3 lần để vớt trứng tránh các loài cá tạp khác ăn trứng. Khi kiểm tra phải thao tác
nhẹ nhàng, tránh khuấy động ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của cá. Nhược điểm của phương thức này
là cá thường đẻ không đồng loạt và kéo dài thời gian.
Phương pháp sinh sản bán tự nhiên trong ao. Để cho cá đồng loạt đẻ trong ao, thu được nhiều trứng cùng
một lúc, ta có thể tiêm kích dục tố rồi cá bắt cặp đẻ tự nhiên trong ao. Kích dục tố có tác dụng làm chuyển
hóa buồng trứng và làm cho cá cái rụng trứng. Kích dục tố thường dùng cho cá bống tượng đẻ là HCG
(Human Chorionic Gonadotropin) và não thùy. Liều lượng sử dụng cho 1 kg cá cái là 1-2 mg đối với não
thùy và 250-300 UI/kg cá đối với HCG. Sau khi tiêm kích dục tố, ta thả cá vào ao đã đặt sẵn giá thể. Thông
thường sau 10-12 giờ là cá đẻ.
Phương pháp sinh sản nhân tạo. Giống như phương pháp trên nhưng đến thời điểm rụng trứng, ta tiến
hành vuốt trứng, vuốt tinh cá đực rồi tiến hành thụ tinh nhân tạo. Sau đó rãi đều trứng lên giá thể và đem
ương. Nếu có điều kiện, sau khi tiến hành thụ tinh thì khử dính trứng bằng dung dịch Tanin và ấp trứng
bằng bình Weys hay bể vòng.
III ƯƠNG ẤP TRỨNG VÀ CÁ CON
1. Ương ấp trứng
Sau khi vớt trứng lên hay sau khi thụ tinh xong thì tiến hành ấp trứng. Trong quá trình ương ấp trớng cần
đáp ứng đòi hỏi môi trường thuận lợi. Môi trường ương ấp cần có nhiệt độ thích hợp tờ 25–28
o
C, oxygen
hòa tan 5 mg/l, pH từ 7 - 7,5 và không có sinh vật hại trứng (động vật phù du nhóm Cyclops, bọ gạo...).
Thời gian nở của trứng từ 34-82 giờ. Nhìn chung nhiệt độ càng cao (trong giới hạn cho phép) thì thời gian
nở càng nhanh. Ngoài ra phương thức ấp trứng cũng ảnh hưởng đến thời gian nỡ. Thời gian nở của
phương pháp nước tĩnh bắt đầu từ 36 giờ và kéo dài đến 82 giờ trong khi thời gian nở theo phương pháp
nước chảy và nước tĩnh có sục khí cũng bắt đầu từ 36 giờ nhưng tập trung nhất vào khoảng 48-56 giờ

sau khi thụ tinh. Qua kinh nghiệm thực tiễn thì ấp trứng theo phương pháp nước tĩnh có sục khí là tốt nhất
vì kích thước cá bột rất nhỏ và rất yếu dể mẫn cảm với điều kiện môi trường (Ngô Bá Thành, 1988).
Phát triển phôi cá bống tượng
• Cá mới nở: có chiều dài 2,40-2,85 mm. Mắt chưa có sắc tố, cá nằm dưới đáy, bơi co giật một
đoạn ngắn
• Ngày thứ I bắt đầu xuất hiện bóng hơi, cá bơi một đoạn dài hơn.
• Ngày thứ II chiều dài 2,65-3 mm. Cá bơi lên mặt nước rồi chìm xuống đáy theo chiều thẳng đứng.
Noãn hoàng còn to.
• Ngày thứ III cá bắt đầu bơi ngang một đoạn ngắn, tim và mao quản thấy có màu hồng đỏ. Mắt có
sắc tố.
• Ngày thứ IV chiều dài cá 3-3,2 mm. Cá bắt đầu mở miệng hớp mồi, thấy xuất biện những mấu
răng bên trong hàm, một vài sắc tố xuất hiện trên đuôi cá bột.
• Ngày thứ V vi ngực bắt đầu hơi nhú noãn hoàng tiêu hết.
• Ngày thứ VI chiều dài cá 3,2-3,6 mm. Cá bơi lưng chừng mặt nước, miệng mở rộng.
• Ngày thứ VII. Cá chết nhiều nếu không có thức ăn thích hợp.
• Ngày thứ VIII. chiều dài 3,9-4,2 mm. Đốt sống cuối cùng cong ngược lên phía lưng.
• Ngày thứ X. chiều dài 5-7mm. Các vi hình thành với đầy đủ các tia vi, sắc tố đen xuất hiện ngang
hông với các vi hậu môn. Cá bơi nhanh nhẹn.
• Ngày thứ XX. Cá có chiều dài 10-11 mm. Cá hình thành đầy đủ các cơ quan và có hình dáng như
cá trưởng thành. Cá có tập tính nằm sát đáy, ít di chuyển.
2. Ương nuôi cá bột
Có hai cách ương cá bột bống tượng là ương trong ao đất và uơng trong bể xi măng.
a. Ương trong ao đất
Ao ương:
• Ao ương có thể là ao tự nhiên sẳn có, nếu đào mới, ao nên có hình chử nhật, xuôi chiều gió, chiều
dài bằng 2-3 lần chiều rộng.
• Diện tích ao dao động 250-1000 m
2
, tốt nhất 400-500 m
2

.
• Ao phải sâu để giử mức nước trong thời gian ương 0,6-0,8m và mặt bờ cao hơn mực nước lũ tối
đa là 0,4m.
• Ao nghiêng về cống thoát để thu hoạch được dễ dàng.
Chuẩn bị ao ương:
• Tát cạn ao ương, nếu không cạn thì tiến hành thuốc cá bằng rễ dây thuốc cá với lượng 0,5
kg/100m
2
ao có mực nước sâu 20-30 cm.
• Sên vét lớp bùn đáy ao, bùn đáy ao không quá 5 cm.
• Phơi khô đáy ao và cày bừa lớp đất mặt để tăng quá trình oxy hóa và khoáng hóa lớp đất này.
• Nếu không thể phơi khô được thì dùng vôi xử lý với lượng 8-12 kg/100 m
2
đối với ao bình thường
hay 30-40 kg/100m
2
nếu ao mới đào, ao không thể tát cạn hay ao đã ương nhiều vụ.
• Đưa nước vào ao qua lưới lọc mịn (0,5 - 0,7 mm)
Mật độ ương tùy từng điều kiện cụ thể mà mật độ ương cá khác nhau, thông thường là từ 500-1000
con/m
2

Kỹ thuật ương: ao ương cá bống tượng không cần bón phân trước nhưng cần có một ao gây nuôi tảo và
trùng bánh xe riêng biệt. Trong giai đoạn này, cho cá ăn 50-70 g bột đậu nành và 10 lòng đỏ trứng bóp
nhuyễn cho 100.000 cá bột. Thức ăn được hòa với nước rãi đều khắp ao. Hàng ngày nên cho ăn 4-5 lần.
Lượng thức ăn mỗi ngày tăng dần lên 5 - 10 %. Thêm vào đó, mỗi ngày vớt tảo và trùng bánh xe cho cá
ăn. Sau 20 ngày tuổi, cá ăn được thức ăn tự nhiên có kích thước lớn như giáp xác chân chèo, giáp xác râu
ngành. Lúc này cần quan sát màu nước ao. Nếu ao không lên màu thì tiến hành bón phân với liều lượng
25-30 kg/100m
2

đối với phân hữu cơ và 3-4 g phân DAP.
b. Ương trong bể xi măng
Mật độ ương trên bể xi măng thường là 1000-2000 con/m
2
giai đoạn đầu và 150-250 con/m
2
ở giai đoạn
sau
Kỹ thuật ương. Có thể ương cá thành 2 giai đoạn: từ 3-10 ngày tuổi và 10-60 ngày tuổi.
Cá bột từ 3-10 ngày tuổi được ương trong bể xi măng với các loại thức ăn khác nhau như lòng đỏ trứng (1
trứng/2 vạn cá), bột đậu nành xay nhuyễn (1 muỗng cà phê/5000 cá) và thức ăn tự nhiên với thành phần
chủ yếu là nguyên sinh động vật - Protozoa, trùng bánh xe - Rotifera, tảo đơn bào Chlorella.
Sau 10 ngày ương, cá có thể ăn được các loại sinh vật thức ăn có kích thước thấy được bằng mắt thường
như giáp xác chân chèo, giáp xác râu ngành. Trong giai đoạn này, cá được cho ăn thêm Moina và lòng đỏ
trứng trộn với đậu nành số lượng giảm đi một nữa. Khi cá được 15 ngày tuổi thì không cần cung cấp trứng
và bột đậu nành. Sau 25 ngày cá đã hình thành đầy đủ sắc tố và bám vào thành bể bằng vi bụng hay nằm
ở đáy bể. Sau 30 ngày tuổi cá có thể ăn ấu trùng muổi, giáp xác nhỏ... Sau 60 ngày cá đạt 3-4 cm thì tiến
hành đem nuôi thịt.
IV. KỸ THUẬT NUÔI CÁ THỊT
1. Nuôi trong ao đất
a. Chuẩn bị ao nuôi.
Ngoài các tiêu chuẩn kỹ thuật như ương, nuôi vỗ, ao nuôi cá bống tượng thịt nên chọn thông qua các tiêu
chuẩn sau:
• Hệ thống nuôi phải gần nguồn cung cấp nước, nước ra vô thường xuyên, điều kiện thay nước
cũng được thực hiện dễ dàng. Độ đục < 80 mg/l.
• Chất lượng nước tốt, không bị nhiễm phèn, nhiễm bẩn từ các nguồn nước sinh hoạt, nước thải từ
các khu công nghiệp.
• Ao nên chọn những nơi có thành phần cơ giới nặng như đất sét, thịt pha sét.
• Đối với ao đã nuôi rồi, nên vét hết lớp bùn đáy ao, trước khi thả nuôi tiếp.
• Ao ở nơi thoáng mát, gần nhà để tiện chăm sóc và bảo vệ.

• Trước khi nuôi nên diệt cá tạp, bón vôi, bón phân gây màu, có thể nói đây là yêu cầu kỹ thuật rất
quan trọng trong công nghệ nuôi cá bống tượng trong ao đất.
b. Chọn và thả giống
Nguồn giống hiện nay ta có thể mua giống từ hai nguồn là các cơ sở sản xuất giống và từ tự nhiên qua các
điểm thu gom. Đặc tính của hai nguồn giống
Giống tự nhiên Giống nhân tạo
Số lượng hạn chế nên thời gian thả kéo dài Cung cấp đủ giống với số lượng lớn một lần
Cá lớn nhưng kích cỡ không đều, cá dễ bị phân đàn Cá nhỏ nhưng kích cỡ đều, cá nuôi ít phân đàn
Cá dễ bị xay xát do đánh bắt Cá ít bị xay xát
Giá rẻ Giá thành cao
Thả giống. Giống thường được vận chuyển vào lúc trời mát, trước khi thả cá vào hệ thống nuôi, cần phải
ngâm bao cá trong nước khỏang 15 phút để tránh cá bị sốc nhiệt do chênh lệch nhiệt độ giữa bao đựng cá
và môi trường nước ao nuôi. Mật độ cá thường là 5-7 con/m
2
. Trong điều kiện chủ động thức ăn, đặc biệt
là thức ăn tươi sống cùng khả năng kiểm soát môi trường ao nuôi, người nuôi có thể thả tăng mật độ từ 8–
12 con/m
2
.
Chăm sóc, quản lý. Thức ăn chủ yếu cho cá là tép, cá nhỏ, cua, ốc, trùn... Tùy điều kiện từng nơi, thức ăn
có thể mua ở chợ hay tự tìm kiếm từ các thủy vực tự nhiên, nhưng cần phải đảm bảo thức ăn còn tươi.
Lượng thức ăn cung cấp cho cá nuôi hàng ngày dao động bình quân từ 5–7 % trọng lượng thân. Sau 8-10
tháng nuôi, khi cá đạt trọng lượng dao động từ 600–800 g/con thì thu hoạch. Năng suất thường đạt từ 15-
20 tấn/ha/vụ.
2. Nuôi trong lồng, bè
a. Chọn vị trí nuôi
Vị trí lý tưởng cho việc nuôi cá lồng, bè cần phải đặt những nơi kênh, rạch, sông, hồ có dòng nước chảy
nhẹ, thoáng, sạch và độ trong cao (độ đục < 80 mg/l). Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Nên
chọn những nơi nước sâu để đảm bảo lượng nước ngập trong lồng bè dao động từ 1,4-1,6 m. Đối với việc
nuôi cá bống tượng trong lồng bè nhỏ, phải khẳng định rằng khâu chọn điểm là yêu cầu kỹ thuật cực kỳ

quan trọng, quyết định đến sự thành công của hệ thống nuôi.
b. Bè và cách đóng bè
Vật liệu: Bè có thể làm bằng tre, gổ hay tre, gổ kết hợp. Để giữ cho bè nổi lên trên mặt nước, người ta
dùng hệ thống phao. Phao thường được làm bằng thùng phuy (Hình 2A), thùng nhựa hay bằng tre (Hình
2B). Số lượng thùng phuy sử dụng tùy thuộc vào kích thước bè. Trung bình cớ 8-9 thùng cho bè 15m
3
. Đối
với bè nhỏ người ta có thể sử dụng phao làm bằng tre. Tre, nứa nguyên cây đem phơi khô sau đó bó lại
thành bó 10-15 cây cặp hai bên bè.
Thiết kế bè. Bè thường có hình hộp chử nhật với kích thước khác nhau. Kích thước một số bè như sau 3 x
2 x 1.5 m hay 4 x 3 x 1,75 m. Bè nên đặt có một phần nổi trên mặt nước cách mặt nước 0,2-0,5 m. Hiện
nay bè nuôi cá Bống tượng có hai dạng chính là bè cố định và bè nổi. Ngoài ra một số nơi như Đồng tháp,
người ta đào ven kênh, rạch rồi dùng cây, ván bao xung quanh và nuôi cá trong đó. Bè nên đặt cách nhau
2 m đủ để một xuồng nhỏ qua lại và gió có thể thông được bè.
Hình 2. Thiết kế lồng bè nhỏ nuôi cá bống tượng
c. Thả giống
Nuôi cá trong bè tốt nhất nên chọn đều cở, trọng lượng từ 10-12 con/kg. Cá phải khỏe mạnh
nhiều nhớt, không bị xây xát, đuôi xòe rộng. Nếu phát hiện thấy cá có vết lở loét hoặc ghẻ lở
nên loại bỏ. Còn nếu thấy có trùng mỏ neo, rận... thì có thể tắm nước muối 2-3 ‰ trong 5-7
phút. Mật độ cá thả 20-30 con/m
3
.
d. Chăm sóc và quản lý
Hàng ngày nên cho ăn vào lúc chiều mát hay buổi sáng. Thời gian đầu cho cá ăn tép,
trùng, cá nhỏ: lòng tong, cá cơm, linh, bống trứng... Bên cạnh thức ăn là mồi
sống, thức ăn động vật có thể thả trực tiếp vào trong sàn với lượng thức ăn
chiếm từ 5–7 % trọng lượng thân/ngày. Với kích cỡ ban đầu 100 g/con thì sau
thời gian 7 tháng nuôi, trọng lượng cá có thể đạt từ 400-600 g/con. Nếu kích cỡ
cá giống thả nhỏ hơn 100 g/con thì thời gian nuôi đến khi thu hoạch có khả
năng chậm hơn (8–10 tháng). Điểm cần lưu tâm trong quá trình quản lí hệ

thống nuôi là phải giữ môi trường nuôi luôn ổn định, trong sạch, độ đục < 80 mg/l.
-->