Tải bản đầy đủ (.doc) (228 trang)

Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 228 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
------------------

TRẦN TRUNG DŨNG

QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
------------------

TRẦN TRUNG DŨNG

QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH


CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
Mã số

: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS ĐỖ THỊ PHI HOÀI
2. TS. NGUYỄN CHÍ TRANG


HÀ NỘI - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình
nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, kết quả
trình bày trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Trần Trung Dũng


ii
MỤC LỤC

Trang


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Giải nghĩa

AMA

Phương pháp đo lường hiện đại

CRO

Bộ phận quản lý rủi ro

EAR

Thu nhập chịu rủi ro

FTP

Định giá điều chuyển vốn nội bộ

GAP

Khe hơ

IRB


Hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ

MCO

Báo cáo dòng tiền ra tối đa

MIS

Hệ thống thông tin quản lý

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NII

Thu nhập lãi ròng

NIM

Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên

NLP

Trạng thái thanh khoản ròng


QLRR

Quản lý rủi ro

ROA

Tỷ suất sinh lời tài sản

ROE

Tỷ suất sinh lời vốn chủ sơ hữu

RRLS

Rủi ro lãi suất

RRTD

Rủi ro tín dụng

RRTK

Rủi ro thanh khoản

TPS

Hệ thống thông tin xử lý giao dịch

VAR


Giá trị chịu rủi ro


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang


v

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp vốn chủ yếu và đa
dạng các dịch vụ tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội. Với những đặc tính
riêng có trong hoạt động, Ngân hàng thương mại thường gặp phải nhiều rủi ro
nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính. Bơi vậy mà, Ngân hàng thương mại
cũng là tổ chức tài chính được các cơ quan chức năng nhà nước quản lý, giám
sát chặt chẽ nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính.
Rủi ro đạo đức là một trong những rủi ro cần được quan tâm đặc biệt trong
điều kiện ngày nay. Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang lại lợi nhuận luôn
đi cùng rủi ro.Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng thương mại không thể loại
bỏ hoàn toàn rủi ro và thay vào đó là kiểm soát, quản lý và hạn chế rủi ro. Vì vậy
Ngân hàng thương mại cần chấp nhận rủi ro trong một mức độ nhất định cho mục

tiêu lợi nhuận. Rủi ro đạo đức là một trong rất nhiều rủi ro mà Ngân hàng thương
mại có thể gặp phải. Rủi ro đạo đức xảy ra trong mọi hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp,
từ đó tác động tiêu cực đến tăng trương và phát triển của nền kinh tế.
Trong những năm qua, đóng góp của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt
Nam vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trương kinh tế, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Các Ngân hàng thương mại không chỉ tiếp
tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần
ổn định sức mua đồng tiền.
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các Ngân hàng thương mại
Việt Nam đã tăng nhanh, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống
tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển. Ngân hàng là ngành
kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, gắn chặt với tiền, và luôn đối mặt với nhiều rủi ro.
Trong các vấn đề rủi ro, dường như rủi ro đạo đức đang là nguy cơ ngày càng lớn
đối với ngân hàng.
Trong hoạt động của mình, các ngân hàng đều gặp vấn đề về quản trị và vấn
đề quan trọng nhất và khó kiểm soát nhất là chuyên môn và đạo đức của người làm


2

ngân hàng. Tại Việt Nam, đến thời điểm này có chuyên gia đã nhận định rằng: “Sự
an toàn của hệ thống hiện nay nằm ơ phạm trù đạo đức nhiều hơn là chuyên môn”.
Một chuyên gia từ Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đã nói: “Vấn đề rủi ro
đạo đức của khối ngân hàng đã đến mức cảnh báo”.
Ngân hàng hoạt động kinh doanh bằng đồng tiền của người khác, hoạt động
của ngân hàng liên quan trực tiếp đến tiền cho nên đạo đức của người làm ngân
hàng là phải có trách nhiệm bảo vệ đồng tiền của người dân gửi tại ngân hàng và
coi sự an toàn của đồng tiền đó trên cả mục tiêu lợi nhuận, tuyệt đối không được sử
dụng tiền đó một cách vô trách nhiệm. Mặc dù, rủi ro đạo đức “dễ hiểu” hơn là rủi

ro chuyên môn, nhưng các nhà quản trị ngân hàng đều nhận định trong các loại rủi
ro mà ngân hàng phải đối mặt thì rủi ro đạo đức là khó quản trị nhất.
Những năm gần đây, trong hoạt động kinh doanh các Ngân hàng thương
mại Việt Nam luôn đối mặt với các rủi ro về tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro
tác nghiệp - rủi ro chịu nhiều tác động của đạo đức con người… Trong đó, rủi
ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng là loại rủi ro khó nhận biết, khó đo
lường, nhưng lại để lại hậu quả nặng nề.
Không như những loại rủi ro khác, rủi ro đạo đức không chỉ cá biệt xảy ra ơ
một ngân hàng mà nó còn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM,
càng có cơ hội phát triển đồng loạt tại nhiều NHTM và các định chế tài chính cùng
một lúc khi có điều kiện phát sinh như có sự nới lỏng trong việc quản lý, sự xuất
hiện của các bong bóng thị trường tạo cơ hội dễ dàng cho hoạt động đầu tư rủi ro...
Do đó, hậu quả của rủi ro đạo đức gây ra sẽ không dừng lại ơ mức độ hoạt động của
một NHTM mà có tính lan truyền rộng khắp. Nếu rủi ro đạo đức không được kiểm
soát phù hợp, thì người đại lý (là các NHTM hoặc người sử dụng vốn của NHTM)
sẽ thực hiện đầu tư mạo hiểm với hậu quả do người ủy thác gánh vác. Và do tính
lây lan mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, việc mất khả năng thanh toán của một
hệ thống ngân hàng sẽ liên quan tới những khoản chi phí khổng lồ mà các ngân
hàng, khách hàng và chính phủ đều phải chịu tổn thất. Sự thất bại của ngân hàng có
thể dẫn tới việc phá hủy những mối quan hệ kinh tế đã được thiết lập lâu dài giữa
ngân hàng và khách hàng. Sự đổ vỡ trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và của
hệ thống thanh toán này cũng có thể làm giảm các hoạt động đầu tư và các hoạt


3

động kinh tế khác. Hơn nữa, người gửi tiền sẽ bị tổn thất tài chính lớn hơn từ sự sụp
đổ của các NHTM. Và chính phủ sẽ phải chịu những khoản chi phí khổng lồ nhằm
cứu giúp cho hệ thống tài chính ngân hàng thoát khỏi sự sụp đổ hoặc phục hồi hệ
thống tài chính ngân hàng. Các khoản chi phí này của chính phủ không chỉ phải chi

ra trong những năm của cuộc khủng hoảng mà còn kéo dài nhiều năm sau đó vì chi
phí tổn thất của những cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng là rất lớn. Đơn cử là
trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay tại Mỹ (S&L), người gửi tiền và
người trả thuế bị tổn thất 150 tỷ đô la và chính phủ phải bỏ ra khoảng 350 tỷ đô la
trong vòng 30 năm nhằm khắc phục hậu quả. Vấn đề là trong các cuộc khủng hoảng
rộng khắp như vậy, nguồn tiền của các chính phủ bỏ ra lại chủ yếu là nguồn từ thu
thuế của những người trả thuế, nhằm phục vụ cho những thất bại thị trường do rủi
ro đạo đức gây ra.
Như vậy, nhằm bảo đảm cho một hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động
ổn định, bền vững, đồng thời với việc giảm thiểu nguy cơ sụp đổ hệ thống này và
giảm thiểu tổn thất tài chính nếu sự sụp đổ cuối cùng vẫn xảy ra, cần phải xây
dựng một mạng lưới an toàn tài chính nhằm đưa rủi ro đạo đức vào trong tầm
kiểm soát. Mạng lưới này bao gồm kết hợp sự quản lý của các cấp quản lý vĩ mô
và quản lý của từng định chế tài chính tham gia vào thị trường này. Các biện pháp
từ cấp quản lý vĩ mô bao gồm thiết lập hệ thống giám sát, các quy định của chính
phủ một cách chặt chẽ và nghiêm túc, một cơ chế bảo hiểm tiền gửi lành mạnh,
một sự can thiệp phù hợp và đúng lúc của ngân hàng trung ương như người cho
vay cuối cùng... Kết hợp với các biện pháp này là các biện pháp quản lý tại mỗi
NHTM như điều kiện cấp tín dụng và thực hiện đầu tư, yêu cầu về bảo đảm tiền
vay, quy định về thẩm định xét duyệt cho vay và giám sát vốn vay, các yêu cầu
quản lý thông tin.
Xuất phát từ nhận thức quan trọng về lý luận và thực tiễn đó, tôi quyết định
chọn đề tài “Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại Việt Nam” cho luận án tiến sỹ kinh tế, với mong muốn hoàn thiện lý
luận chuyên môn của bản thân, tiếp cận nghiên cứu thực trạng quản lý rủi ro đạo
đức và đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng


4


thương mại Việt Nam, góp phần đẩy mạnh sự phát triển hoạt động kinh doanh trong
điều kiện hội nhập.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến rủi ro đạo đức, quản
lý rủi ro đạo đức ơ nước ngoài về nhận diện quản lý rủi ro đạo đức, khung quản lý
rủi ro, công cụ đo lường, cảnh báo rủi ro, các biện pháp xử lý rủi ro, mối quan hệ
giữa rủi ro đạo đức với các loại rủi ro khác như:
(1) Bliss, Robert R. and Flannery, Mark J. (2002): [75] “Market Discipline
in the Governance of U.S. Bank Holding Companies: Monitoring versus Infuence”
Eropean Finance Review, đề cập đến những kỷ luật thị trường trong quản trị Ngân
hàng Hoa Kỳ Holding
(2) Blum, Jurg (2002): [76] “The Limits of Market Discipline in Reducing
Bank’s Risk Taking”, forthcoming Journal of Banking and Finance, đã nghiên cứu
về các hạn chế của kỷ luật thị trường trong việc giảm rủi ro trong đó có rủi ro đạo
đức của Ngân hàng thương mại
(3) Thomas F. Hellmann, Kevin C. Murdock and Joseph E.Stiglitz (2002):
[97]“Liberalization, Moral Hazard in Banking, and Prudential Regulation: Are
Capital Requirements Enough?”, American Economic Review đề cập đến tự do hóa,
nguy cơ rủi ro trong ngành ngân hàng và quy định thận trọng: Đủ yêu cầu về vốn?
(4) Beim&Calomiris, 2002 - David Beim and Charles Calomiris (2002) [73]
Emerging Financial Markets, McGraw Hill Custom Publishing. Đề cập đến những
vấn đề liên quan đến “Thị trường tài chính mới nổi, McGraw Hill Custom
Publishing” trong đó có những nghiên cứu về đạo đức, rủi ro, rủi ro đạo đức và
những cảnh báo về rủi ro đạo đức khi thị trường tài chính phát triển, đặc biệt với
những thị trường mới nổi.
(5) Dembe, Allard E. and Boden, Leslie I. (2000). “Moral Hazard: A
Question of Moraliity?” New Solutions, Vol. 10 [80]. Trong tài liệu này, tác giả
Dembe, Allard E. và Boden, Leslie I. (2000). “Moral Hazard: đã đề cập đến nội
dung “Một câu hỏi về đạo đức và các giải pháp mới? tác giả đề cập đến những rủi



5

ro tiềm ẩn, trong đó nhấn mạnh yếu tố đạo đức và rủi ro đạo đức của con người
trong kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.
(6) ErlendNier and Ursel Baumann 1, (2003), “Market discipline, disclosure
and moral hazard in banking” Cordella, Tito and Eduardo Levy Yeyati, (1998):
“Public Disclosure and Bank Failures”, CEPR Discussion Paper No. 1886 [82]
Trong tài liệu “Kỷ luật thị trường, tiết lộ và nguy hiểm về mặt đạo đức trong ngân
hàng” của tác giả ErlendNier và Ursel Baumann 1, (2003) và tài liệu “Tiết lộ công
khai và thất bại ngân hàng” của tác giả Cordella, Tito và Eduardo Levy Yeyati,
(1998) đã nghiên cứu về hoạt động của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những nguy cơ và tổn
thất khi rủi ro đạo đức xảy ra đối với các Ngân hàng thương mại.
(7) J.P.Niinimaki (2007), “Does collateral fuel moral hazard in banking?”
Discussion Paper, No 181, Helsinki center of economic research, August 2007,
ISSn 1795-0562. [91] Bài thảo luận, số 181 tại trung tâm nghiên cứu kinh tế
Helsinki, tháng 8 năm 2007, ISSN tác giả J.P.Niinimaki (2007) với bài viết “Tài sản
thế chấp có gây nguy hiểm về mặt đạo đức trong ngân hàng không?” đã đề cập đến
những quy định về tài sản bảo đảm, những rủi ro xảy ra đối với các Ngân hàng
thương mại khi bảo đảm tiền vay bằng hình thức thế chấp tài sản, tác giả phân tích
sâu yếu tố đạo đức và những nguy hiểm, những tổn thất đối với các Ngân hàng
thương mại và những khuyến nghị nhằm phòng ngừa rủi ro đạo đức.
(8) Lewis, Holden (18 April 2007). “Moral hazard’ helps shape mortagemortages/
20070418_subprime_mortage_morality_a1.Asp?caret=3c).Bankrate.com. [94] Tác
giả Lewis, Holden (18 tháng 4 năm 2007) với bài viết “Nguy hiểm về đạo đức”
giúp định hình mortagemortages / 2007 đã đề cập đến rủi ro đạo đức và những tổn
thất khôn lường khi xảy ra rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Tại Việt Nam có một số công trình khoa học nghiên cứu cả về mặt thực tiễn
và lý luận về quản lý rủi ro, quản trị rủi ro, rủi ro đạo đức... Các đề tài có liên quan
tới đo lường và phương pháp quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng thương mại có thể kể đến như:


6

(9) ThS Lê Nam Thắng (2011), Vấn đề rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân
hàng Việt Nam, thực trạng và giải pháp quản lý [64]. Đề tài cấp ngành Ngân hàng
Nhà nước 2011. Đề tài này nhóm tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản
về rủi ro đạo đức, thực tiễn rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng ơ Việt Nam
đến năm 2011.
(10) PGS.TS Hà Minh Sơn (2014), Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân
hàng - Thực trạng và khuyến nghị [56]. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện
Tài chính, nhóm nghiên cứu đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro xảy ra trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro đạo đức và thực trạng rủi ro đạo đức
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại ơ Việt Nam giai đoạn
2010 đến 2014, từ đó đã đề xuất một số khuyến nghị về chính sách đối với Ngân
hàng nhà nước và các cấp quản trị của các Ngân hàng thương mại nhằm phòng
ngừa rủi ro đạo đức và hạn chế những tổn thất trong hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam.
(11) TS Nghiêm Văn Bảy (2017), Tổng hợp những bài học quản trị rủi
ro trong hoạt động Ngân hàng thương mại qua một số vụ án hình sự đã được
xét xử [4]. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính, Hà Nội. Đề tài đã
nghiên cứu về 50 vụ án kinh tế xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng đã được xét xử
trong giai đoạn 2010 - 2015. Trong đề tài này nhóm nghiên cứu đã chỉ rõ những rủi
ro đạo đức xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, những thủ đoạn, những kẽ hơ và bài
học rút ra cho các nhà quản trị ngân hàng.

(12) Xuân Anh (2015), Cảnh báo rủi ro đạo đức cán bộ ngân hàng, Báo Sài
Gòn đầu tư, ngày 09/07/2015 [3], trong bài báo này tác giả nghiên cứu về những
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro đạo đức trong
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, các nguyên nhân và biện
pháp phòng ngừa
(13) Vân Giang (2016), Rủi ro đạo đức: dễ mắc, khó gỡ, Báo Việt ngày
11/11/2016 [14], trong bài viết này tác giả nghiên cứu khá chi tiết về rủi ro đạo đức
và những tổn thất do rủi ro đạo đức gây ra đối với các Ngân hàng thương mại, từ


7

việc phân tích những nguyên nhân, tác giả nhận định những nguy cơ xảy ra rủi ro
đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
(14) ThS Vũ Thị Thanh Hà (2012), Mối quan hệ giữa rủi ro đạo đức trong
hoạt động ngân hàng và tự do hóa tài chính, Tạp chí ngân hàng số 12 tháng 6/2012
[16]. Từ những nghiên cứu về tự do hóa tài chính, những nguyên nhân dấn đến rủi
ro đạo đức trong bối cảnh tự do hóa tài chính và những hệ lụy của rủi ro đạo đức
gây ra.
(15) Các giáo trình sử dụng trong giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng
như: PGS. TS. Đinh Xuân Hạng, ThS Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2012), “Giáo
trình Quản trị tín dụng Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Tài chính. 2012
[17]; Phan Thị Thu Hà (2009). Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Giao thông
vận tải, Hà Nội [15]; Peter Rose, Giáo trình quản trị Ngân hàng thương mại, NXB
Tài Chính, năm 2004 [51]; PGS.TS Nguyễn Đăng Đờn (2009), Quản trị NHTM
hiện đại, Nhà xuất bản Phương đông [12]; TS Nguyễn Minh Kiều, Giáo trình
nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, năm 2006 [23]; Tiền tệ - Ngân
hàng và Thị trường Tài chính (1993) của Frederic S.Mishkin (NXB Khoa học và kỹ
thuật)… đều đề cập tới quy trình và phương pháp quản trị rủi ro trong hoạt động hệ
thống ngân hàng.

Tóm lại, các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro đạo đức trong hoạt động
ngân hàng đã được đề cập tới trong các công trình nghiên cứu về hoạt động của
ngân hàng trong và ngoài nước, tuy nhiên chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu về cả
cơ sơ lý luận, thực tiễn quy trình và phương pháp quản lý rủi ro đạo đức.
2.3. Khoảng trống nghiên cứu
Các nghiên cứu ơ trên đã góp phần quan trọng đưa ra những lí luận cơ bản
về quản lý rủi ro đạo đức trong thời gian qua. Song vẫn còn những “khoảng trống”
trong nghiên cứu về quản lý rủi ro đạo đức mà điển hình là quản lý rủi ro đạo đức
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2011 - 2017.
Các “khoảng trống” trong nghiên cứu lí luận về rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro
đạo đức và thực trạng rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam:


8

- Cơ sơ lí luận chưa có tính hệ thống và cập nhật về rủi ro đạo đức, quản lý
rủi ro đạo đức trong giai đoạn hiện nay, khi mà việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đang thực thi lộ trình quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel II. Bên cạnh đó, Việt Nam
đã có sự phát triển và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với kinh tế các quốc gia
trong khu vực và quốc tế.
- Các nghiên cứu về rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức hầu hết chỉ đưa ra
giải pháp trong từng khía cạnh quản lý rủi ro đạo đức như các giải pháp nhằm
“ngăn ngừa” rủi ro, “hạn chế” rủi ro hay “kiểm soát” rủi ro chứ không đi vào “quản
lý” rủi ro đạo đức một cách tổng thể, hệ thống.
- Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về rủi ro đạo đức và quản lý
rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2017
cũng như đưa ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân
hàng thương mại Việt Nam.

Vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại Việt Nam” được phát triển nhằm bổ sung phần nghiên cứu
về cơ sơ lí luận và vận dụng trong điều kiện thực tiễn quản lý rủi ro đạo đức tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2017, từ đó đề xuất các giải
pháp tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
đến năm 2030.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân
hàng thương mại Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, luận án đặt ra những câu hỏi cần phải trả
lời, đó là:
- Thế nào là rủi ro đạo đức? thế nào là quản lý rủi ro đạo đức? nội dung, ý
nghĩa, mô hình và quy trình quản lý rủi ro đạo đức như thế nào?
- Thực trạng quản lý rủi ro đạo đức của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
ra sao?
- Giải pháp nào để tăng cường quản lý rủi ro đạo đức của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam trong thời gian tới?


9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ sự cần thiết của vấn đề cần nghiên cứu, trên cơ sơ yêu cầu và
với khả năng nghiên cứu, luận án lựa chọn đối tượng nghiên cứu chính là “Rủi ro
đạo đức”, “Quản lý rủi ro đạo đức” và “Quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quản lý rủi ro đạo đức tiếp cận
theo các chuẩn mực quốc tế.

- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu quản lý rủi ro đạo đức trong
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam với hai chủ thể
quản lý rủi ro đạo đức là Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại.
- Về thời gian: Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý rủi ro đạo đức tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017. Giải pháp thực hiện theo lộ
trình đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
đảm bảo việc nhận thức về quản lý rủi ro đạo đức theo chuẩn mực quốc tế tại Ngân
hàng thương mại Việt Nam, luôn đảm bảo tính logic giữa nhận thức trực quan đến
tư duy và thực tiễn, trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận trong cùng hệ
thống, giữa hệ thống với môi trường xung quanh và phù hợp với các qui luật vận
động vốn có của nó.
Trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
để có các phân tích, đánh giá, lập luận có căn cứ khoa học về đề tài nghiên cứu,
NCS sử dụng các phương pháp:
Các phương pháp tư duy khoa học: Qui nạp, diễn dịch, ngoại suy, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các dữ liệu NCS đã thu
thập được để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro đạo đức tại
Ngân hàng thương mại và thực trạng quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam.


10

Phương pháp thống kê: Thu thập dữ liệu sơ cấp, thứ cấp liên quan đến quản
lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam theo chuỗi thời gian từ
các báo cáo nội bộ, báo cáo của các cơ quan quản lý Nhà nước và xuống quan sát
trực tiếp ơ Sơ giao dịch, một số chi nhánh để thu thập thông tin và số liệu phục vụ
cho nghiên cứu của luận án.

Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn, xin ý kiến các chuyên gia, các cán bộ
nghiệp vụ và cán bộ quản lý tại một số chi nhánh của các Ngân hàng thương mại
Việt Nam (trực tiếp, qua thư điện tử) để có thêm các thông tin cần thiết, hữu ích
phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: Phát phiếu khảo sát thực trạng quản
lý rủi ro đạo đức tại trụ sơ và chi nhánh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
như: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… để có thêm thông tin cho việc
đánh giá kiểm soát rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Các
Ngân hàng thương mại được NCS chọn khảo sát đảm bảo tính đại diện: Có chi
nhánh thành phố lớn, chi nhánh khu vực nông thôn, chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu cao,
chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu thấp. Do các mô hình lượng hóa, các công thức đo lường
vốn, đo lường, đánh giá rủi ro đã được đề cập và thừa nhận tính chính xác và khoa
học ơ các công trình nghiên cứu liên quan trước đó. Vì vậy, khi đề cập đến việc đo
lường, đánh giá, lượng hóa rủi ro, NCS không đi sâu vào nghiên cứu các kỹ thuật
tính toán mà sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình liên quan.
Phương pháp, so sánh, phân tích, tổng hợp: Trên cơ sơ số liệu các báo cáo
thống kê của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, NCS tiến hành tổng hợp, so
sánh, phân tích, nhằm đánh giá thực trạng rủi ro đạo đức và quản lý rủi ro đạo đức
tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017.
Phương pháp suy luận logic: Từ những cơ sơ lý luận và cơ sơ thực tiễn,
đặc biệt từ những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân tại các Ngân hàng thương
mại Việt Nam về quản lý rủi ro đạo đức, NCS suy luận logic để đề xuất các giải
pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam.


11

6. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý luận:

+ Rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
Dựa trên lý thuyết về rủi ro nói chung và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại, NCS suy luận một cách logic, biện chứng những vấn đề
cơ bản về rủi ro đạo đức: các hình thức biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của rủi
ro đạo đức là phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường. Đây là một thành công trong nghiên cứu lý luận
cơ bản.
+ Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại. Do rủi ro đạo đức ảnh hương trong phạm vi rộng, với mức độ lan tỏa nhanh
những tác hại đến nhiều tổ chức, cơ quan và khách hàng, nên NCS dựa vào cơ chế
quản lý tổng thể để nghiên cứu về quản lý rủi ro đạo đức là rất khoa học. Từ việc
nghiên cứu khái niệm, chủ thể quản lý, công cụ quản lý, nội dung quản lý đến các
biện pháp quản lý rủi ro đạo đức. Các vấn đề đó được kế thừa những nguyên lý về
quản lý rủi ro, những quy định của Hiệp ước Basel II và gắn kết với đặc điểm kinh
doanh của Ngân hàng thương mại. Bơi vậy, có thể coi đó là những lý luận cơ bản về
quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại khá
hoàn chỉnh.
- Về thực tiễn:
+ Nội dung và phương pháp đánh giá thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Luận án đánh giá trên 3 nội dung: thực trạng cơ cấu quản lý, thực trạng quản
lý rủi ro đạo đức của cơ quan quản lý và thực trạng quản lý rủi ro đạo đức của các
Ngân hàng thương mại. Với các nội dung đó, luận án đánh giá khá đầy đủ, toàn
diện công tác quản lý rủi ro đạo đức từ phía cơ quan quản lý và từ phía các Ngân
hàng thương mại, mà chưa có một luận án, đề tài khoa học nào có thể làm được.
+ Đề xuất các giải pháp mới:
*

Tiếp cận chuẩn mực quốc tế trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng


*

Đổi mới mô hình tổ chức quản lý ngân hàng

*

Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ gắn liền với quản lý rủi ro


12

Ba giải pháp mới này dựa trên cơ sơ khoa học lý luận và thực tiễn đầy đủ, có
tác động mạnh đến việc tăng cường quản lý rủi ro đạo đức cả trên phương diện vĩ
mô (Ngân hàng Nhà nước) và vi mô (Ngân hàng thương mại), nên có tính khả thi
cao so với các công trình về đề tài này đã công bố.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mơ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam


13

Chương 1
QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm
trung gian trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành
một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều, góp phần kích thích sản xuất. Xã hội ngày
càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát huy, đồng thời các nhu
cầu về tiền tệ cũng bắt đầu nảy sinh và ngày càng trơ nên đa dạng, chính điều này
đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của một loại hình trung gian tài chính chuyên
kinh doanh về tiền tệ, đó là các ngân hàng.
NHTM là một trong những loại hình ngân hàng trung gian lâu đời nhất. Sự
ra đời của NHTM là kết quả tất yếu khách quan của quá trình sản xuất, trao đổi
hàng hóa và phân công lao động xã hội. NHTM là một sản phẩm độc đáo của sản
xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt
trong nền kinh tế: Là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức
khác nhau của khách hàng, trên cơ sơ nguồn vốn huy động này và vốn chủ sơ hữu
của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời
thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các
chủ thể trong nền kinh tế.
Tóm lại, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi của Khách hàng; sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết



14

khấu và thực hiện các dịch vụ cho Khách hàng trong nền Kinh tế
quốc dân.
1.1.1.2. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Vai trò to lớn của ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ
chính đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng. NHTM giống như các tổ
chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích lợi nhuận song lại ơ lĩnh vực kinh
doanh đặc biệt: kinh doanh tiền tệ, một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm trong nền kinh tế
và có tác động tới mọi hoạt động khác. Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị
trường, các ngân hàng không ngừng tăng cường mơ rộng các danh mục các sản
phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn
vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta có thể sắp xếp
các hoạt động đó vào một trong ba nhóm sau:
- Hoạt động huy động vốn
- Hoạt động sử dụng vốn
- Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính
Ba hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau và có vai trò quan
trọng quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn
Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM tạo nên sự
khác biệt so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực phi tài chính là
hoạt động huy động vốn, một nghiệp vụ kinh doanh hết sức quan trọng của NHTM.
NHTM sử dụng uy tín và điều kiện sẵn có của mình để tiến hành huy động vốn.
Hoạt động này tạo nguồn vốn cho NHTM, vì thế đóng vai trò quan trọng, ảnh
hương tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Mặc dù bị giới hạn về mức huy
động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn
lợi của ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao.

Qua đó ngân hàng có thể mơ rộng được vốn và mơ rộng qui mô hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Kết cấu nguồn vốn bao gồm: Vốn chủ sơ hữu, vốn huy động,
vốn vay và các nguồn vốn khác.


15

Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của NHTM vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán cũng như tìm
kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ này được thể hiện thông qua nhiều nghiệp vụ cụ thể
như: cho vay, đầu tư, hoạt động ngân quỹ... Trong đó, cho vay là nghiệp vụ cơ bản
nhất trong sử dụng và khai thác nguồn vốn của NHTM.
* Nghiệp vụ cho vay: Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng
sinh lời cao cho ngân hàng. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng
vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, chứng khoán trên thị
trường, đầu tư bất động sản, đầu tư thị trường vàng... với mục đích kiếm lời, phân
tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh.
* Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của
ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ
bắt buộc do NHNN đề ra.
Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính
Là nghiệp vụ của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông
qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Các hoạt động trung
gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại
nguồn thu lớn cho ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ này càng mơ
rộng, bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán, chuyển tiền: Tiến hành chuyển tiền cho khách, thanh

toán hộ khách hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi
hộ khách hàng bằng hình thức séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng…
- Dịch vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết của họ đối với đối tác.
- Dịch vụ kinh doanh ngoại hối: Tiến hành đồng thời mua một loại tiền tệ
này và bán một loại tiền tệ khác.


16

- Dịch vụ chứng khoán: Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán
(cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ …) cho khách hàng.
- Dịch vụ ngân hàng điện tử: Hiểu theo nghĩa trực quan đó là một loại dịch
vụ ngân hàng được khách hàng thực hiện nhưng không phải đến quầy giao dịch gặp
nhân viên ngân hàng. Hiểu theo nghĩa rộng hơn đây là sự kết hợp giữa một số hoạt
động dịch vụ ngân hàng truyền thống với công nghệ thông tin và điện tử viễn thông.
E-Banking là một dạng của thương mại điện tử (electronic commerce hay ecommerce) ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Cũng có thể hiểu cụ
thể hơn, E-Banking là một hệ thống phần mềm tin học cho phép khách hàng có thể
tìm hiểu thông tin hay thực hiện một số giao dịch ngân hàng thông qua phương tiện
điện tử (công nghệ thông tin, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây,
quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự).
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ, NHTM đã chứng tỏ được sự
cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, là đòn
bẩy của nền kinh tế.
1.1.1.3. Đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh tiền

tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ơ
nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách
hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
Thứ nhất, NHTM là tổ chức trung gian trong nền kinh tế nhằm mục đích
kiếm lời: Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ
sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công
việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí
dịch vụ hoặc hoa hồng.
Thứ hai, hoạt động NHTM phải tuân thủ theo quy định của pháp luật: nghĩa
là chỉ khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật qui định


×