Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 107 trang )

s

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH

VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội - 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH

VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Việt Nam học
Mã số: 8.31.06.30

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ MAI AN

Hà Nội - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Trinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ
TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........... 9
1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu ......................................................................... 9
1.1.2. Tiếp cận các lý thuyết về biến đổi văn hóa tộc người ................................ 14
1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hịa vang, thành
phố Đà Nẵng ........................................................................................................ 18
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 19
1.2.2. Lịch sử hình thành tộc người ..................................................................... 21
1.2.3. Đời sống kinh tế - xã hội ............................................................................ 23
Chương 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ TU
TẠI XÃ HÒA BẮC HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........ 27
2.1. Làng, nhà ở .................................................................................................... 27
2.2. Ẩm thực ......................................................................................................... 31
2.3. Trang phục .................................................................................................... 39
2.4. Phương tiện đi lại .......................................................................................... 44
2.5. Công cụ lao động sản xuất ............................................................................ 45
Chương 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VĂN HÓA

VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA
VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................................................... 48
3.1. Thực trạng biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 48
3.2. Nguyên nhân biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 56
3.3. Thực trạng và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hịa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ......................................................... 60
3.3.1. Thực trạng bảo tồn ..................................................................................... 60
3.3.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật chất của
người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. .................. 63
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 75


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
GĐ:

Giám đốc

Nxb:

Nhà xuất bản

TS:

Tiến sĩ

UBND:


Uỷ Ban Nhân Dân

VHTT:

Văn hóa - Thể thao


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Dân số trên toàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng ............ 20
Bảng 2.1: Một số đặc sản của đồng bào Cơ tu ................................................ 36
Bảng 2.2: Một số trang phục truyền thống cơ bản của người Cơ tu ............... 40
Bảng 3.1: Chuyển biến về cơng cụ sản xuất ................................................... 56

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Sơ đồ các thành tố văn hóa vật chất ................................................ 27
Hình 2.2: Bình đồ một làng truyền thống của người Cơ tu ........................... 28
Hình 2.3: Sơ đồ bố trí bàn ăn của người Cơ tu (trong nhà và ngoài sân) ....... 32

DANH MỤC HỘP SỐ
Hộp số 1: Phỏng vấn anh Đinh Văn Như - thơn Giàn Bí ............................... 33
Hộp số 2: Phỏng vấn già làng Bùi Văn Cầm - thơn Giàn Bí .......................... 34
Hộp số 3: Phỏng vấn chị Đinh Thị Hồng - thơn Giàn Bí................................ 35
Hộp số 4: Phỏng vấn anh Trương Như Huy - cán bộ Văn hóa xã .................. 50
Hộp số 5: Phỏng vấn chị Trần Thị Một tại nhà Gươl, thơn Giàn Bí. ............. 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Xuyên suốt trường kỳ lịch sử của đất
nước, văn hóa các dân tộc (tộc người) là một bộ phận không thể tách rời của nền văn

hóa chung của dân tộc Việt. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người
được các nhà khoa học thuộc Việt Nam học nói riêng và các ngành khác thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội rất chú trọng.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều không ngừng giao lưu gia tăng sự hội
nhập trên mọi khía cạnh đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa. Cùng với xu thế
đổi mới đó là sự kéo theo những biến đổi mang tính tất yếu của nhiều lĩnh vực, văn
hóa dân tộc Việt Nam nói chung và văn hóa các tộc người thiểu số nói riêng cũng
đang phải trải qua một quá trình đổi mới và hầu hết đều chịu các tác động nhiều chiều
qua lại của xu thế này. Trong thực tế ấy, quá trình tiếp thu và tiếp biến văn hóa để
phù hợp với Hồn cảnh mới sẽ có khả năng dẫn đến sự mai một văn hóa tộc người.
Đặc biệt, đối với dân tộc thiểu số, văn hóa của họ dễ bị biến đổi hơn do các yếu tố
tác động từ kinh tế thị trường, đơ thị hóa…; sự biến đổi này phụ thuộc vào mức độ
giao lưu giữa các tộc người, mức độ diễn tiến đô thị hóa, hiện đại hóa ở các khu vực;
trong đó dễ dàng nhận thấy là môi trường ở khu vực càng gần trung tâm thành phố
càng làm thúc đẩy sự biến đổi hơn. Tộc người Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng là một
trường hợp thực tế như vậy.
Đà Nẵng là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa. Hịa trong dịng chảy văn
hóa cùng với đất mẹ Quảng Nam, nơi đây mang trong mình nhiều giá trị văn hóa đặc
sắc, trong đó văn hóa đồng bào Cơ tu ở khu vực phía Tây thành phố là một ví dụ.
Với dân số hơn 1000 người, tập trung chủ yếu ở ba thơn trên hai xã thuộc huyện Hịa
Vang - một huyện ngoại thành của Đà Nẵng. Cộng đồng Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng
tuy có số lượng ít nhưng lại là một minh chứng cho thấy quá trình tộc người của dân
tộc này ở Việt Nam. Những giá trị văn hóa hiện có của cộng đồng đã góp phần làm
cho bản sắc văn hóa của thành phố Đà Nẵng thêm đa dạng, đặc sắc.

1


Trong bối cảnh hội nhập, đơ thị hóa như hiện nay, văn hóa của người Cơ tu

thành phố Đà Nẵng không khỏi bị chịu những tác động tiêu cực của quá trình giao
lưu, biến đổi, đặc biệt là quá trình “Kinh hóa” đang được diễn ra trong đời sống đồng
bào. Các giá trị văn hóa truyền thống tộc người ít nhiều đã có sự biến đổi theo xu
hướng hịa nhập phát triển chung chứ khơng cịn được ngun vẹn những giá trị riêng
biệt như trước; rõ nét nhất là trong đời sống văn hóa vật chất như ăn, mặc, ở, phương
thức sản xuất và đi lại.
Để phát triển nền văn hóa đa dạng, mang đậm bản sắc của các tộc người thiểu
số ở Việt Nam nói chung, chúng ta thật sự rất cần những giải pháp toàn diện và sâu
sắc nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Với mục đích cung cấp cái nhìn
tổng qt về văn hóa truyền thống và sự biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất của
cộng đồng người Cơ tu ở Đà Nẵng trước những tác động của sự phát triển đô thị,
đồng thời đề xuất các giải pháp bảo tồn hướng đến sự phát triển bền vững tộc người,
chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu “Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở
xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ của mình.
Đề tài hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lưu các nét văn hóa
vật chất truyền thống của đồng bào, góp phần khẳng định các giá trị văn hóa riêng
của tộc người Cơ tu cũng như làm giàu hơn vốn văn hóa của thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề biến đổi văn hóa truyền thống là phần quan trọng trong đời sống của
bất cứ tộc người nào và là một trong các hướng quan tâm của ngành Việt Nam học,
đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về mặt lý luận chung cũng như thực tiễn
tại các địa bàn trên khắp mọi vùng miền của đất nước.
So với các dân tộc thiểu số trong cả nước (đặc biệt là trong đối sánh với các
dân tộc vùng miền núi phía Bắc Việt Nam), các cơng trình nghiên cứu (tác phẩm
sách) về người Cơ tu từ trước đến giờ dường như ít tập trung vào một đối tượng cụ
thể. Mỗi một cơng trình là sự tổng hợp của “mn mặt’ thành tố văn hóa trong đời
sống tộc người. Trong đó, tài liệu nhắc đến người Cơ tu ở Việt Nam sơ khai nhất là
của Dương Văn An, Lê Quý Đôn và trong các bộ sử của triều Nguyễn. Trong công


2


cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp ở Đông Dương, và thời kỳ đế quốc Mỹ xâm
lược, có khơng ít các độc giả nước ngoài (chủ yếu là Pháp) đã để tâm nghiên cứu và
cơng bố những cơng trình về người Cơ tu được nhiều người biết đến như Louis
Bezacier (1912) với tác phẩm "Interpretation du tatouage frontal des Moi (Ghi
chép về người mọi Katu); Le Pichon (1938) với Les chasseurs de sang (Những
người săn máu/Những kẻ săn đầu); Nancy A. Costello (1972) với Socially Approved
Homicide among the Katu...; hay các tác giả khác như Georges Coedes, J. Hoffet,
Janet Hoskins, Robert Mole... cũng có sự quan tâm đến cộng đồng này ở Việt Nam.
Các bài viết/tác phẩm trên chủ yếu đề cập đến các tiêu chí phân lập cư trú, nguồn gốc
tên tự gọi, ngơn ngữ, và tín ngưỡng tộc người... Đáng lưu ý là sự ảnh hưởng trong
bài viết của Le Pichon về tục xăm mình và tục săn đầu người của người Cơ tu đến
học giả và các đọc giả thời kỳ này như L. Bezacier (1951); M. Murphy và Marilou
Fromme (1967); A. Thomas Krish, 1973); Janet Hoskin (1996); R. Mole (1970); G.
Hickey (1993); Nancy Costello (2002)... Cách viết miêu tả một tục lệ đã bị loại bỏ của
đồng bào như một đặc trưng văn hóa đầy ấn tượng đã tạo nên cái nhìn “khơng mấy thiện
cảm” về tộc người Cơ tu, khiến dân tộc này từng bị xem là đối tượng quá hiếu chiến,
man rợ với hủ tục khát máu đầu người [48].
Trong bài viết Sơ lược giới thiệu dân tộc Ka-tu tác giả Ngọc Anh được đăng
trên tập san Dân Tộc 16 (năm 1960) đã cung cấp cái nhìn sơ lược nhưng bao quát
khắp các khía cạnh văn hóa tộc người Cơ tu. Từ việc giải thích nguồn gốc tộc người,
phương tiện cư trú, đặc điểm nhân chủng, ngôn ngữ, phương thức sản xuất, phân tầng
xã hội ba lớp người, vai trò của các nhân vật lãnh đạo trong làng, những phong tục
tập quán cho đến tinh thần mạnh mẽ chống đối thực dân xâm lược của tộc người.
Những phác thảo của bài viết trên tuy chỉ là sơ lược nhưng lại là khảo cứu đầu tiên
về người Cơ tu trên diễn đàn khoa học xã hội Việt Nam.
Từ sau năm 1975 đến nay, được sự khuyến khích bởi chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, việc nghiên cứu lịch sử-văn hóa các dân tộc trên đất nước ta được

mở rộng nhằm đắp ứng mục tiêu hiểu biết lẫn nhau, gìn giữ, bảo tồn và phát huy sức
mạnh văn hóa dân tộc. Các cơng trình nghiên cứu về các tộc người trong nước nói
chung và riêng người Cơ tu xuất hiện ngày càng nhiều. Trong đó đáng chú ý là cơng

3


trình Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên của Nguyễn Quốc Lộc và các cộng sự
xuất bản năm 1984. Đây là cơng trình khoa học cung cấp những tư liệu quý về mọi
mặt đời sống của các cộng đồng thiểu số Cơ tu, Tàôi, Bru - Vân Kiều ở miền Trung
Việt Nam. Tuy nhiên cũng chính vì đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều dân tộc trong
cùng một cuốn sách nên cơng trình này vẫn chưa thể đi sâu nghiên cứu những lĩnh
vực cụ thể của tộc người.
Đến năm 1998, tác giả Nguyễn Xuân Hồng đã cho ra mắt cơng trình nghiên
cứu về Hơn nhân - gia đình - ma chay của người Tàôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều. Tác
phẩm này chủ yếu đi sâu phân tích phong tục tập quán, các xu thế biến đổi trong hơn
nhân, gia đình, ma chay của 3 dân tộc ở vùng miền núi Trị Thiên.
Tiếp sau đó, các tác phẩm nghiên cứu thể hiện sự quan tâm sâu hơn về các
thành tố văn hóa cộng đồng Cơ tu nói riêng và các dân tộc thiểu số ở miền Trung
Việt Nam lần lược được các học giả công bố. Tác phẩm Luật tục của người Tàôi,
Cơ tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Mạnh chủ
biên vào năm 2001 là một cơng trình nghiên cứu tập thể khá toàn diện về các cộng
đồng dân tộc thiểu số ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trong cuốn sách này,
các tác giả tập trung phân tích luật tục/tập quán của các tộc người dưới nhiều lĩnh
vực, trong đó có đề cập đến các mơ hình sở hữu đất đai, quản lý làng bản thông qua
các quy tắc, quy định.
Năm 2002, tác giả Tạ Đức cho ra mắt tác phẩm Tìm hiểu văn hóa Katu, cuốn
sách này đã đặt ra 17 câu hỏi dạng chủ đề và lần lượt giải đáp nó như “Người Katu
là ai, nguồn gốc của họ thế nào?”, “Tên gọi Katu có nghĩa là gì?” … và 7 chủ đề như
“Cột tế Katu và truyền thuyết Ja rai”, … Cứ như vậy, cuốn sách giúp bạn đọc hiểu

hơn về văn hóa tộc người Cơ tu.
Những năm về sau 2004, 2005, 2006, 2007, những cơng trình nghiên cứu về
người Cơ tu càng rõ nét hơn, tiêu biểu phải kể đến cuốn Katu kẻ sống đầu ngọn
nước; Văn hóa làng miền núi Trung bộ Việt Nam: giá trị truyền thống và những
bước chuyển lịch sử (dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam) của tác giả Nguyễn Hữu
Thơng, Văn hóa người Cơ-tu của tác giả Lưu Hùng. Trong cuốn “Nhà Gươl của
người Cơ tu (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, năm 2006) tác giả Đinh Hồng

4


Hải, qua việc mô tả kiến trúc Gươl và các lễ hội văn hóa của người Cơ tu đã chỉ ra
những khía cạnh đời sống tinh thần của người Cơ tu ở Quảng Nam. Đây là 4 cơng
trình rất có giá trị miêu tả về toàn bộ hoạt động sinh hoạt văn hóa của tộc người. Nếu
như tác giả Nguyễn Hữu Thông mạnh về việc lý giải tên gọi/tộc danh, về việc đặt lại
sự hiện diện và diễn trình di trú, cũng như vai trị của nhóm Katuic và tộc người Katu
(chữ dùng trong sách của tác giả) trong lịch sử văn hóa của cư dân miền Trung, mổ
xẻ những cung bậc chuyển biến trong văn hóa làng của người Cơ tu thì nhà nghiên
cứu Lưu Hùng lại có thế mạnh về việc khảo tả các đặc trưng văn hóa phi vật thể và
văn hóa vật thể tộc người... Ngồi ra cịn có cơng trình luận án tiến sỹ “Nghề dệt và
trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu Quảng Nam” được bảo vệ năm 2009 tại
Viện nghiên cứu văn hóa của Trần Tấn Vịnh, tác giả đã tổng quan về người Cơ tu,
mô tả chi tiết về nghề dệt cổ truyền và trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu, nghệ
thuật trang trí và hệ biểu tượng trong trang trí hoa văn trên y phục người Cơ tu. Qua
đó tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy nghề dệt và trang
phục Cơ tu. Có thể nói rằng, trên đây là những cơng trình cơng phu và hồn chỉnh
bước đầu cung cấp một bức tranh tương đối toàn diện và sâu sắc về lịch sử, đời sống
và văn hóa của người Cơ tu: tộc người có vị trí cư trú quan trọng và vốn văn hóa
phong phú ở khu vực Trung và địa đầu Nam Trường Sơn.
Như vậy, với chiều dài của lịch sử nghiên cứu vấn đề, người Cơ tu ở Việt

Nam là một dân tộc tương đối thống nhất về cả tên gọi, ngơn ngữ cũng như các mặt
văn hóa, xã hội. Hầu hết các cơng trình đã có nghiên cứu về họ không bàn luận về
một đối tượng cụ thể mà tổng hợp nhiều lĩnh vực văn hóa nhằm khái quát rõ hơn bức
tranh/sắc thái văn hóa tộc người. Tuy nhiên phải nói rằng chưa nghiên cứu nào tập
trung bàn sâu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng. Đây vẫn là một
khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa tộc người này ở Việt Nam.
Trên nền tảng thành quả nghiên cứu chung của các học giả về người Cơ tu nói
chung ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, đề tài của luận văn sẽ ít nhiều có những
tiếp cận thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành
phố Đà Nẵng.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa vật chất và nhận diện các đặc trưng
văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng;
- Đưa ra một số giải pháp tham khảo cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa vật chất đặc trưng phù hợp với sự phát triển hiện nay của đồng bào Cơ tu ở
xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát, tìm hiểu về văn hóa vật chất của đồng bào dân tộc Cơ tu ở xã Hòa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về văn hóa vật chất, các khái niệm về biến đổi văn
hóa tộc người, khái niệm đơ thị hóa, các cơ sở biến đổi văn hóa nói chung và văn hóa
vật chất tộc người nói riêng.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng biến đổi các thành tố văn hóa vật chất của
đồng bào dân tộc Cơ tu tại nơi cư trú của người dân. Qua đó thấy được mặt tích cực

và hạn chế của sự biến đổi văn hóa vật chất trong q trình hội nhập, phát triển đơ
thị hóa ở thành phố Đà Nẵng.
- Rút ra những vấn đề từ thực tế, nhằm đưa ra những giải pháp bảo tồn các giá
trị văn hóa vật chất truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng sao cho phù hợp với sự phát triển chung nhưng vẫn
giữ được những giá trị riêng của văn hóa tộc người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các khía cạnh của giá trị văn hóa vật chất: làng, nhà cửa, ẩm thực, trang phục,
phương tiện đi lại, công cụ lao động sản xuất… và sự biến đổi của nó của cộng đồng
người Cơ tu ở xã Hòa Bắc huyện Hòa Vang trong q trình phát triển hội nhập, đơ
thị hóa hiện nay.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến đời sống văn hóa vật chất của cộng đồng người
Cơ tu đang sinh sống ở thôn Tà Lang và Giàn Bí, xã Hịa Bắc, huyện Hịa Vang,
thành phố Đà Nẵng từ năm 1980 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trên nền tảng khu vực học: Đây là
phương pháp cơ bản để thực hiện nghiên cứu đối tượng trong một khơng gian văn
hóa, khơng gian phát triển. Có thể nói, với phương pháp nghiên cứu này có thể giúp
xác định luận văn là một cơng trình nghiên cứu thuộc mã ngành Việt Nam học.
- Phương pháp khảo sát, thu thập tư liệu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi chủ yếu dựa vào các nguồn tư liệu sau:
+ Tài liệu thành văn: Các sách chuyên ngành về Dân tộc học, Việt Nam học, các
bài hội thảo khoa học, các bài nghiên cứu của các tác giả trên báo, tạp chí khoa học về
lĩnh vực văn hóa - xã hội và các báo cáo, tư liệu khảo sát tại địa bàn nghiên cứu.

+ Tài liệu từ việc nghiên cứu phỏng vấn thực địa: Là nguồn tư liệu thu thập
từ quá trình tiếp xúc, phỏng vấn thực tế với cộng đồng người Cơ tu tại địa bàn nghiên
cứu, già làng, trưởng thôn, cán bộ quản lý tại địa phương.
Trong q trình nghiên cứu chúng tơi tiến hành thu thập nguồn tài liệu đa dạng
từ nguồn tài liệu thành văn.
- Phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn sâu
Thực hiện phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn hồi cố, ghi chép,
quay phim, chụp hình và quan sát, tham dự các hoạt động của cộng đồng dân tộc Cơ tu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về khoa học, đây là công trình bước đầu nghiên cứu hệ thống về các vấn đề
lý luận liên quan đến sự biến đổi văn hóa vật chất của cộng đồng dân tộc thiểu số nói
chung và cộng đồng người Cơ tu trên địa bàn xã Hịa Bắc, huyện Hịa Vang, thành
phố Đà Nẵng nói riêng.
- Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu từ đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm và tìm hiểu về cộng đồng dân tộc Cơ tu. Hơn thế nữa,
thành quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt văn

7


hóa có góc nhìn khách quan về sự biến đổi đời sống văn hóa vật chất của tộc người
này trên địa bàn Đà Nẵng; từ đó có định hướng phù hợp cho sự phát triển gắn với
công tác bảo tồn giá trị văn hóa vật chất truyền thống đậm bản sắc của tộc người trên
địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của đề tài chia
làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về cộng đồng người Cơ tu ở xã Hòa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Chương 2: Văn hóa vật chất truyền thống của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc,

huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Thực trạng biến đổi và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của
người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ TU Ở
XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu
- Khái niệm tộc người
Theo nghĩa hẹp, tộc người là một cộng đồng người có chung tiếng mẹ đẻ.
Hiểu như vậy, tộc người sẽ tương đương với nhóm ngơn ngữ hay với nhóm dân tộc
- ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa đó,
tộc người cũng là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau
và có chung các đặc điểm về văn hóa mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử
dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây đó trên
thế giới có cùng một ngơn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều mặt, như về
mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về
mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)… thì liệu họ có cùng một tộc người
không, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngơn ngữ, hoặc là một tộc
người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ…? Đây là vấn đề khó vẫn đang địi hỏi
các học giả cần quan tâm nghiên cứu, giải thích nhiều hơn.
Theo nghĩa rộng, tộc người là một cộng đồng người liên kết với nhau bởi một
phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngơn ngữ, chính trị… Sự kết hợp
các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn hóa chủ yếu
- một nền văn hóa riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một tập thể hay đúng
hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt.

Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển khơng đồng đều ở
mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng
không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình.
Như vậy, có thể thấy cách hiểu theo nghĩa rộng trên đây cho phép bao quát tốt
hơn các nhóm cộng đồng tộc người hiện đang tồn tại. Nhận thức này tuy có những
ranh giới khơng q rạch rịi, nhưng lại là cơ sở để nội hàm nghiên cứu các vấn đề
về một cộng đồng tộc người cụ thể trở nên phong phú hơn. Để phục vụ cho sự nghiên

9


cứu, luận văn này sẽ đồng nhất ở nghĩa rộng, xem tộc người là một cộng đồng người,
được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt.
- Khái niệm biến đổi
Biến đổi là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong những
năm gần đây trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Dưới nhiều góc độ nhận thức, khái
niệm biến đổi mang nhiều ý nghĩa về sự tích cực hoặc hạn chế nào đó.
Dưới góc độ nghiên cứu Việt Nam học, nhân học văn hóa hay văn hóa học,
khái niệm biến đổi được ra đời từ sớm theo cách hiểu là một quy luật có tính tất yếu
của cuộc sống. Từ những quan niệm trừu tượng của thuyết Khải Hoàn, xem mọi sự
biến đổi của nhân loại đều chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo (coi sự vận động của
thế giới là điều tất yếu để đi đến cái tốt đẹp), đến những lập luận mang tính khoa học
của thuyết Tiến hóa trong bước đầu giải thích mối quan hệ giữa tiến hóa của con
người và sinh vật (đó là sự biến đổi theo q trình, cái sau phát triển hơn cái khác);
hay là sự mô phỏng tính chu kỳ trong q trình sinh trưởng của mọi sự vật, có tiêu
vong, biến mất và sau đó cái mới lại xuất hiện (trong mơ hình của thuyết Chu kỳ);
hoặc những gợi mở về cơ sở biến đổi của thuyết kinh tế, thuyết tư tưởng, thuyết kỹ
thuật, thuyết xung đột, thuyết thích ứng trong thế kỷ XX... đều chủ yếu lý giải về nội
hàm của sự biến đổi; nhưng trên cơ bản, mọi thuyết đều nhấn mạnh đến tính tất yếu
của sự biến đổi, xem đó như một quy luật vận động khách quan của cuộc sống.

Có nhiều quan niệm về sự biến đổi văn hóa dựa trên nhiều khía cạnh, như ở
phạm vi rộng: đó là một sự biến đổi một phần hay hoàn toàn mới được so sánh với
một nếp sống hay một nền văn hóa tộc người đã được hình thành trước đó; hoặc trong
phạm vi hẹp: biến đổi trong văn hóa là sự thay đổi những giá trị văn hóa đặc trưng,
các thành tố văn hóa vật chất hoặc tinh thần của văn hóa tộc người đó, và sự biến đổi
này tạo nên sự ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các mặt đời sống của các thành viên
trong một xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng: Biến đổi văn hóa là một quá trình, biểu hiện thơng
qua nhiều phương diện: phát triển kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống,
hoạt động tôn giáo, phát triển truyền thông đại chúng, giao lưu văn hóa, qua đó những

10


khn mẫu trong phong tục, tập qn truyền thống có sự tiếp biến theo thời gian và
theo nhiều cấp độ khác nhau.
Và dù có các luận giải khác nhau về nguyên nhân biến đổi cũng như định
nghĩa của nó, có thể thống nhất đề cao mặt tích cực của sự biến đổi trong tình hình
phát triển chung của sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; nhưng cũng khơng xem
nhẹ các yếu tố tiêu cực, kém bền vững nảy sinh trong quá trình ấy vì vấn đề bảo tồn
các giá trị truyền thống đặc trưng là điều cơ bản cần thiết để phân biệt giữa các tộc
người. Cơ bản, biến đổi là sự vận động/ tự chuyển mình một cách tất yếu cho phù
hợp/ thích ứng với mọi điều kiện mới của xã hội, lịch sử.
- Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của con người, nhờ có văn hóa mà con người trở nên
độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới
động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến
khác nhau, do vậy cũng có nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách “Culture, a
critical review of concept and definitions” [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán

các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về
văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái
niệm “văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh
với tư cách một thành viên của xã hội” [58, tr.13]. Theo định nghĩa này thì văn hóa
và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con
người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định
nghĩa này mang tính “bách khoa tồn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của
con người. [14, tr.39]
F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và
những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người
vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên

11


của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính
các thành viên này với nhau” [7, tr.149]. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá
nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con
người.
Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa có rất nhiều định nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [38,
tr.431]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những gì do con người sáng
tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của
chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan

đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vơ cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, q trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới
từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng
và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh” [64, tr.22]. Theo định nghĩa
này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên
từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân
tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp
các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên
bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn
hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; cịn

12


hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi
phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù
riêng…” [35, tr.314].
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định
nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà
con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tơn giáo, đạo đức,
ngơn ngữ, đến âm nhạc, pháp luật… Cịn các định nghĩa của F. Boas, tổ chức

UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống
là văn hóa.
Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc
thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm
do con người tạo ra trong q trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
- Khái niệm văn hóa vật chất
Văn hóa là tất cả những sản phẩm của con người làm ra, bao gồm: văn hóa
phi vật chất và văn hóa vật chất. Ở đây, văn hóa vật chất ám chỉ tồn bộ những gì do
cơng nghệ sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, ăn, mặc, ở, đi lại, công cụ sản
xuất, phương tiện sản xuất… nói lên trình độ phát triển của con người trong lĩnh vực
sản xuất vật chất, thể hiện trình độ chiếm lĩnh và khai thác những vật thể trong tự
nhiên.
- Khái niệm đơ thị hóa
Nghiên cứu định hướng phát triển đô thị Việt Nam và tác động của nó đến
văn hóa, nhà nghiên cứu Mạc Đường định nghĩa: “Đơ thị hóa là một q trình kinh
tế - xã hội để biến một vùng dân cư khơng có cuộc sống đơ thị thành một vùng dân
cư thuộc tính của xã hội đơ thị. Đơ thị hóa cịn là một q trình biến đổi văn hóa và
ứng xử. Văn hóa và cách ứng xử đơ thị dần dần bao trùm lên và làm tan biến dần văn
hóa và ứng xử truyền thống nông thôn” [18, tr.115].
Cũng mang hàm nghĩa như khái niệm của Mạc Đường, Trần Cao Sơn đưa ra
khái niệm: “Đơ thị hóa là một q trình chuyển từ hoạt động nơng nghiệp phân tán
sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên địa bàn nhất định”. Đây thực chất là

13


quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, với các đặc trưng sau: Một là,
hình thành và mở rộng quy mô đô thị với hạ tầng kỹ thuật hiện đại, dẫn đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Hai là, tăng nhanh dân số đô thị trong tổng số dân cư, dẫn đến thay đổi cơ cấu giai

cấp, phân tầng xã hội. Ba là, chuyển đổi từ lối sống phân tán (mật độ dân cư thưa)
sang sống tập trung (mật độ dân cư rất cao). Bốn là, chuyển từ lối sống nông thôn
sang lối sống đô thị [42, tr.17].
Xem xét bản chất của đơ thị hóa, Kammeyer và cộng sự cho rằng: Đơ thị hóa
và cơng nghiệp hóa được nhìn nhận như là những trụ cột của hiện đại hóa. Đơ thị hóa
chỉ ra quá trình chuyển đổi của sức sản xuất, đặc biệt nó đưa đến sự chuyển đổi cơng
nghệ để thúc đẩy hoạt động sản xuất. Đơ thị hóa mặt khác liên quan tới quá trình tập
trung dân số ở những khu vực nhất định, các trung tâm đô thị, nơi có sự di dân ồ ạt
từ làng và các cộng đồng nông thôn, nơi tập trung các hoạt động kinh tế, tổ chức
quản lý và quyền lực chính trị [72, tr.671].
Dù tiếp cận dưới những chiều cạnh khác nhau, song sự tương đồng dễ dàng
nhận thấy giữa các nhà nghiên cứu khi bàn về đơ thị hóa là nói đến quá trình chuyển
đổi, rút ngắn khoảng cách giữa khu vực nông thôn với đô thị cùng các biểu hiện đặc
thù như: các khn mẫu văn hóa đơ thị ngày càng trở nên phổ biến, lấn át dần các
khuôn mẫu văn hóa nơng thơn truyền thống; sự chuyển dịch mạnh mẽ về lao động
nông thôn từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; sự di cư từ nông thôn vào thành
thị... và kéo theo đó là sự xáo trộn, biến chuyển trên hầu hết các phương diện của đời
sống kinh tế, xã hội cũng như văn hóa.
1.1.2. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa tộc người
Theo cách hiểu rộng, biến đổi văn hóa là một thay đổi so sánh với một tình
trạng văn hóa hay một nền văn hóa có trước dưới sự tác động của những nhân tố
khách quan hay chủ quan. Trong một phạm vi hẹp hơn, người ta cho rằng sự biến
đổi văn hóa được đề cập đến là sự biến đổi về cấu trúc của văn hóa, về các thành tố
của văn hóa và các giá trị văn hóa [6, tr.36]. Theo tác giả Nguyễn Duy Bắc, biến đổi
văn hóa là sự thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá các sản phẩm và
thay đổi các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở

14



những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại. Sự
biến đổi văn hóa thường là một bước tiến bộ trong sự phát triển dân tộc và nhân loại,
ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên của một xã hội.
Cũng trong quan điểm này, nhiều học giả cho rằng đó là điều tất yếu. Tác giả
Fredrik Barth, trong lời giới thiệu về cơng trình “Những ranh giới và sự biến đổi dân
tộc” [5, tr.24] đã chỉ ra rằng, đối với các tộc người thiểu số trước sự tác động một
cách phổ biến và tất yếu của xã hội hiện đại, sự mưu cầu tham gia vào các hệ thống
xã hội rộng hơn để duy trì những dạng thức mới các giá trị, sẽ xảy ra các trường hợp:
Thứ nhất, cố gắng vượt qua và được hợp nhất trong xã hội tiền cơng nghiệp và
nhóm văn hóa; Thứ hai, chấp nhận địa vị thiểu số, và có sự điều chỉnh thích hợp, tìm
kiếm cách thức làm giảm những tình trạng bất lực thiểu số của họ; Thứ ba, lựa chọn
cách làm nổi bật bản sắc dân tộc và sử dụng chúng để mở ra những địa vị và mơ hình
mới.
Tác giả Don Mccaskill, trong bài viết From Trial Peoples to Ethnic Minorities:
“The transformation of Indigenous Peoples” Old Societies and New States đã đưa ra
khái niệm “lưỡng văn hóa” và cho rằng “họ vừa tham gia vào xã hội rộng lớn
hơn, trong khi đó vẫn duy trì những khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa bản địa
của họ”. Don Mccaskill khẳng định, “thế giới quan bản địa, những niềm tin, các
giá trị và hành vi có thể cùng tồn tại bên cạnh các bản sắc văn hóa quốc gia. Điều
này là có thể bởi vì trên thực tế một cá nhân có thể có nhiều bản sắc” [66, tr.497].
Như vậy có thể thấy tuy có các điểm nghiên cứu khác nhau nhưng phần lớn các học
giả có quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người thiểu số trong bối cảnh hội nhập và
phát triển đều hết sức chú ý đến ý thức và tính chủ động của chính người dân trong
bối cảnh này, trước những thử thách của xã hội hiện đại, bởi điều này sẽ dẫn đến một
quá trình biến đổi có định hướng.
Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người được các ngành
khoa học xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm chú trọng. Từ thập niên 60 đến đầu
thập niên 80 của thế kỷ XIX, các nghiên cứu Văn hóa học, Việt Nam học tập trung
làm rõ các đặc điểm truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số vào nền văn hóa
chung của dân tộc Việt Nam.


15


Là một trong số các đối tượng nghiên cứu quan trọng của Việt Nam học, biến
đổi văn hóa được xem như kết quả của quá trình vận động xã hội. Khái niệm biến
đổi văn hóa chỉ sự thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa cho trước,
được đặc trưng bởi sự thay đổi nội hàm thành tố văn hóa cụ thể.
Biến đổi văn hóa được các nhà khoa học khởi xướng thuyết Tiến hóa luận như
Edward B. Taylor hay L. Morgan đề cập đến từ thế kỷ XIX khi họ phân chia xã hội
theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội cũng như biến đổi
văn hóa. E. Taylor cho rằng: “Sự phát triển tiến bộ tiến hóa của các nền văn hóa là
xu hướng chính trong lịch sử lồi người. Xu hướng phát triển này là rất hiển nhiên,
vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác
định, mà không thể làm ngược lại” [8, tr.53]. Theo các nhà tiến hóa luận, biến đổi
văn hóa có một mơ hình chung, đó là ở những nền văn hóa ngồi phương Tây được
nhìn nhận “kém văn minh”, sự biến đổi văn hóa diễn ra chậm chạp, đối ngược với
văn hóa phương Tây năng động và biến đổi nhanh. Các giai đoạn hiện tại của văn
hóa đã tiến hóa lên từ các giai đoạn sớm hơn. Mơ hình tiến hóa đơn tuyến về sự phát
triển và biến đổi văn hóa này đã bị phản đối rộng khắp trong giới khoa học và là tiền
đề dẫn đến sự ra đời và phát triển của khá nhiều lý thuyết mới cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, thuyết Truyền bá văn hóa ra đời và phát triển phổ biến ở các
nước Âu - Mỹ. Các đại biểu của xu hướng này như G. Elliot Smith, W. Rivers... cho
rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc truyền bá/khuếch
tán các đặc trưng văn hóa từ một xã hội này sang một xã hội khác [39]. Cũng trong
khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện một số lý thuyết khác
có liên quan đến biến đổi văn hóa như: Thuyết tương đối văn hóa (đại diện là Franz
Boas) phản đối thuyết Tiến hóa văn hóa khi cho rằng q trình lịch sử loài người và
hướng chung của sự biến đổi văn hóa ngày càng trở nên khơng cịn là một vấn đề về

sự phát triển tiến bộ mà là một sản phẩm của sự tình cờ lịch sử nhiều hơn [29]. Thuyết
Vùng văn hóa (đại diện là C.L. Wissler, A.L. Kroeber...) đưa ra quan điểm về sự biến đổi
đa chiều và nhiều cấp độ của văn hóa tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay
ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, mơi trường và sự chun mơn hóa của cộng đồng đó là gì

16


[29]. Thuyết tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfield, Broom...) lại ám chỉ những biến đổi
văn hóa diễn ra qua quá trình tiếp xúc lâu dài giữa các xã hội phương Tây và ngoài phương
Tây, nhất là những ảnh hưởng mà các xã hội thống trị gây ra cho các tộc người bản địa
[65, tr.12].
Trong suốt nửa sau thế kỷ XX và phổ biến cho đến nay có một khuynh hướng
nghiên cứu hấp dẫn các nhà khoa học, đó là nghiên cứu sự biến đổi văn hóa trong
q trình tồn cầu hóa, đặc biệt ở những xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông
nghiệp sang công nghiệp, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Dù biến đổi
văn hóa trong q trình hiện đại hóa là một thực tế không thể đảo ngược, song các
tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị truyền thống và nó sẽ chi phối sự
lựa chọn của từng xã hội cụ thể đến chiều hướng, quy mô, dạng thức biến đổi của
văn hóa [68], [73], [69], [70].
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây đã xuất hiện những cơng trình nghiên
cứu về biến đổi văn hóa nổi bật như: Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đơ thị
hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (1999) của Tơn Nữ Quỳnh Trân; Ảnh hưởng đơ thị
hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội: Thực trạng và giải pháp (2002) của Lê Du
Phong; Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đơ Hà Nội
trong thời kỳ Đổi mới của (2007) Ngô Văn Giá; Văn hóa làng xã trước sự thách thức
của đơ thị hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (2007) của Nguyễn Thanh Tuấn; Tác động
của đơ thị hóa - cơng nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổi văn hóa - xã hội ở
tỉnh Vĩnh Phúc (2009) của Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường, Trần Hồng Thu;
Biến đổi văn hóa ở các làng quê Việt Nam hiện nay (Trường hợp làng Đồng Kỵ,

Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (2009) của Nguyễn Thị
Phương Châm [53], [41], [20], [57], [46], [11],… Cơng trình Sự biến đổi các giá trị văn
hóa trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (2008) của Nguyễn Duy
Bắc. Đáng chú ý trong cơng trình của Nguyễn Duy Bắc, ơng cho rằng: “Biến đổi văn
hóa chính là quá trình thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá... các sản
phẩm và các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở
những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại” [6,
tr.36]. Cơng trình này nhận định bốn nhân tố tác động đến biến đổi văn hóa bao gồm: sự

17


vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; nhân tố tư tưởng, chính trị; kỹ thuật
và cơng nghệ mới; giao lưu văn hóa.
Các lý thuyết, quan điểm khác nhau được minh hoạ ở trên có đã cho chúng tôi
những cách tiếp cận/luận giải không giống nhau về tác nhân biến đổi, đòi hỏi phải
xem xét từ nhiều góc độ để có câu trả lời thấu đáo về tính đa diện của hiện tượng/q
trình biến đổi văn hóa. Thiết nghĩ, sự vận động và biến đổi văn hóa của một xã hội
là do các nhân tố cơ bản sau:
(1) Những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thể hiện qua những chính
sách đầu tư phát triển, về môi trường sống, về phương pháp, cách thức sản xuất, về
nhu cầu nhận thức, giáo dục của con người nhằm đáp ứng địi hỏi của trình độ phát
triển xã hội.
(2) Điều kiện về kỹ thuật và công nghệ mới. Đây là một tác nhân cơ bản dẫn
đến biến đổi văn hóa. Trong cuộc sống, kỹ thuật cơng nghệ mới góp phần làm thay
đổi trình độ nhận thức, tạo sự phát triển của sản xuất vật chất, có ảnh hưởng trực tiếp
đến tính chất hoạt động của xã hội.
(3) Sự giao lưu văn hóa: Khi một cộng đồng tiếp xúc với một cộng đồng khác,
có thể diễn ra, hai q trình đó là truyền bá văn hóa và tiếp biến văn hóa. Truyền bá
văn hóa là quá trình mà các yếu tố văn hóa được vay mượn từ một xã hội khác hội

nhập với văn hóa của cộng đồng tiếp nhận được gọi là truyền bá văn hóa. Cịn tiếp
biến văn hóa là một q trình tiếp xúc văn hóa mang tính bất bình đẳng giữa hai xã
hội. Trong tiếp biến văn hóa, khơng loại trừ trường hợp hai chủ thể cùng “vay mượn”
lẫn nhau nhưng phổ biến hơn là chủ thể yếu tiếp nhận các giá trị văn hóa từ chủ thể
mạnh.
Để tiếp cận quan điểm lý thuyết trong các luận giải về văn hóa của các tác giả
và cơng trình tiếp cận ở trên, luận văn này sẽ cố gắng tiếp cận sự biến đổi văn hóa
Cơ tu tại điểm nghiên cứu dưới nhiều mặt như: thực trạng, nguyên nhân, hệ quả và
xu hướng diễn ra. Đồng thời, áp dụng các luận điểm giải thích nguyên nhân biến đổi
văn hóa ở trên, luận văn chỉ ra các tác nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi văn hóa
vật chất của cộng đồng Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
trong q trình đơ thị hóa hiện nay. Đó là sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ về

18


khoa học - kỹ thuật và những chính sách có liên quan đến vùng cư trú dân tộc thiểu
số của Nhà nước nói chung, chính quyền thành phố Đà Nẵng nói riêng.
1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Thành phố Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước, bắc giáp tỉnh Thừa
Thiên Huế, tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, đông giáp biển Đông, cách Thủ
đô Hà Nội 764 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía nam.
Khơng những nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường
biển và đường hàng khơng, Đà Nẵng cịn là trung điểm của các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể thế giới bao gồm Quần thể di tích cố đơ Huế, Nhã nhạc cung đình
Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và di sản thiên nhiên thế giới - Vườn quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng
là một trong những cửa ngõ quan trọng hướng ra biển của Tây Nguyên và các nước

Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành
lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa. Nhờ biết tận dụng vị
trí thuận lợi này, Đà Nẵng đã sớm có những bước đơ thị hóa nhanh chóng, vượt bậc.
Trong những năm gần đây, q trình đơ thị hóa ở Đà Nẵng đã lan rộng ra
các huyện ngoại thành, đặc biệt là huyện Hòa Vang, một huyện ngoại thành duy nhất
nằm trên vùng đất liền của thành phố được nối bởi một hệ thống giao thông tương
đối thuận lợi. Nhiều con đường liên xã, liên huyện và liên tỉnh đã được mở rộng như
quốc lộ 1A, đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam chạy từ Cầu Đỏ qua các xã
Hòa Châu và Hòa Phước; quốc lộ 14B chạy qua các xã Hòa Khương, Hòa Phong,
Hòa Nhơn nối Quảng Nam với Đà Nẵng; tuyến đường tránh Nam Hải Vân đi qua
các xã Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Nhơn; các tuyến đường ĐT 601, 602, 604, 605 do
thành phố quản lý và hệ thống các tuyến đường giao thông liên huyện và liên xã.
Xã Hịa Bắc được thành lập năm 1981, nằm ở phía tây bắc huyện Hịa
Vang, có vị trí địa lý hành chính giáp với xã Hịa Liên, huyện Hịa Vang ở phía
nam, giáp với quận Liên Chiểu ở phía đơng. Ngồi ra, Hịa Bắc cịn tiếp giáp hai
huyện Nam Đơng và Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên Huế) ở phía bắc và huyện Hiên

19


×