Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT học của PHƠRĂNGXÍT bêcơn và sự ẢNH HƯỞNG của nó đến nền văn MINH PHƯƠNG tây HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.23 KB, 35 trang )

 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------------------------TIỂU BAN TRIẾT HỌC

Đề tài tiểu luận:

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHƠRĂNGXÍT
BÊCƠN VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN
VĂN MINH PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

GVHD:

TS. Bùi Văn Mưa

SVTH :

Huỳnh Thị Nguyên Bình

Lớp:

CH K19 , đêm 1

 

TP. Hồ Chí Minh, 2010


 



Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

MỤC LỤC
Lời nói đầu

1

Phần 1: Sơ lược về triết học phương Tây thời Phục hưng – cận đại

2

1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển
1.1 Thời kỳ Phục Hưng

2
2

-

Về kinh tế

3

-

Về xã hội

4


-

Về văn hoá, tư tưởng

4

1.2. Thời kỳ cận đại

6

2. Những đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây thời Phục hưng –
cận đại

7

Phần 2: Tư tưởng triết học của Phơrăngxít Bêcơn

10

1. Các tư tưởng triết học thời Phục hưng

10

2. Các tư tưởng triết học thời cận đại

11

3. Phơrăngxít Bêcơn


11

a. Quan niệm của Ph.Bêcơn về bản chất, nhiệm vụ của khoa học và
triết học
12
b. Quan niệm về thế giới

15

c. Nhận thức luận và phương pháp luận

17

d. Quan niệm về chính trị - xã hội

25

e. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo

25

Phần 3: Những ảnh hưởng của tư tưởng Triết học Ph. Bêcơn

27

1. Thời bấy giờ

27

2. Ngày nay


29

 

Tài liệu tham khảo


 


 

LỜI NÓI ĐẦU
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng
nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)

Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về triết học. Nhưng dù hiểu
theo nghĩa nào thì từ thời cổ xưa, triết học đã là một bộ môn tổng hợp bao
gồm các lĩnh vực tri thức khác như cơ học, lý học, toán học,…. Nhưng do
sự phát triển của xã hội, đối tượng nghiên cứu của triết học dần thu hẹp lại
và cho đến ngày nay, triết học được định nghĩa là một hình thái ý thức xã
hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là
thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung
nhất cuảa tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu hai vấn đề cơ bản, đó là quan hệ giữa vật chất
và ý thức và khả năng nhận thức của con người về thế giới.
Với tính cách là một hệ thống tư duy lý luận, một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt, một hình thức nhận thức tổng quát cho phép con người hiểu

được thế giới và biết cách ứng xử trong thế giới, triết học mang lại những
giá trị lớn như: triết học vừa là cơ sở thế giới quan để con người tìm hiểu
bản chất thế giới, và vừa là cơ sở phương pháp luận phổ biến hướng dẫn
hành vi con người trong hoạt động thực tiễn và nhận thức.
Quá trình hình thành và phát triển triết học luôn gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển xã hội loài người. Vì vậy, triết học cũng trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, cụ thể có thể chia ra các thời kỳ như
sau:
Triết học Ấn Độ cổ đại

-

Triết học Trung Hoa cổ đại
 

-


 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

-

Triết học Hi Lạp cổ đại

-


Triết học Phương Tây trung đại

-

Triết học phương Tây thời Phục hưng – cận đại

-

Triết học phương Tây hiện đại
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta chỉ dừng lại xem xét
những quan điểm triết học phương Tây trong thời Phục hưng – cận đại,
đồng thời đi sâu vào nghiên cứu những tư tưởng triết học của triết gia
Phơrăngxít Bêcơn và những ảnh hưởng của nó đến xã hội thời đó và ngày
nay.
Nội dung đề tài được chia làm hai phần chính:

1. Những tư tưởng triết học của Ph. Bêcơn
2. Những ảnh hưởng của nó đến xã hội thời đó và ngày nay.

PHẦN 1 : SƠ LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC

PHƯƠNG TÂY THỜI PHỤC HƯNG –
CẬN ĐẠI
3. Hoàn cảnh ra đời và phát triển
3.1.

Thời kỳ Phục Hưng

Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh
của nền văn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước

chuyển dữ dội, chuyển sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những
giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La đã bị lãng quên trong nền chuyên chế
phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ

 

xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ


 


 

đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn
hoá tư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với
nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan
rã. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang
Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát
triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của
khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với
việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công
nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng
loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết
kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát
hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo

hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các
nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước
phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thi nhau xâm chiếm thuộc địa
để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá.
Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của phương
thức sản xuất TBCN. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng.
Người nông dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường
quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Các công trường thủ
công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội phong kiến. Các chủ thủ công
nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở
thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản; trong khi
người nông dân do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh
nhai bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân

 

của giai cấp vô sản sau này.


 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công trào dâng
khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ
đòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại
trên con đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào
giáo hội La Mã, thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của

phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ,
bao gồm cả sự phát triển của triết học. Thế giới quan của giai cấp tư sản thể
hiện dưới hình thức duy vật và vô thần ngày càng rõ nét.
Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên
bắt đầu phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu
khoa học kỹ thuật như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim,
chế tạo vũ khí, in ấn, hàng hải… Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng
nước đã cho phép thay thế dần sức người và sức súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa
vững chắc cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ
nghĩa duy tâm.
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp,
trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt.
Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng
thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng
lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm
thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động
xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại
diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ
phong kiến đang suy tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội,
khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển
lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, Nicôlai

 

 

mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo



 

Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà khoa học - triết học như Nicôlai
Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-1519) - nhà
danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (15481600) người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia. Trong số những
thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về
thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich (14751543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã đứng trên
lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người
Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung
tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã
giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của
ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh
vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra.
Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của
thời cổ đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời
đại phục hưng đặc biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là
đối tượng nghiên cứu của triết học, những tư tưởng tốt đẹp về con người
của Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý luận cho ước mơ giải phóng
con người. Các giá trị toán học của Talet, hình học của Euclide, những yếu
tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng dược xem xét và ghi nhận thoả
đáng.
Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học
duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung
cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường
được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức
thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên
chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã
không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết
học duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của


 

triết học trong các thế kỷ tiếp theo.


 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Triết học thời phục hưng có những đặc diểm chính sau đây:
Thứ nhất, triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
Thứ hai, tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: vừa
có những tiến bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với
hình thức “phiếm thần luận” hay “tự nhiên thần luận”.
Thứ ba, triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát
vọng giải phóng con người.
Thứ tư, triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần
chủ nghĩa nhân văn.
1.2. Thời kỳ cận đại
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư
bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học,
nhưng với những đặc điểm mới.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các
nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính
trị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và

thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư
sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là
thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành
phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội
mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên,
trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa
học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng
ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự
trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói
 

đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên

 


 

nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy
móc siêu hình.
Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời
cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kì này:
Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ
nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến
trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về
lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy
tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử.

Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia,
điển hình như B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri,
Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô.
Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của
thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách
nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm
chủ quan của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli.
4. Những đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây thời Phục hưng –
cận đại
Trong điều kiện thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế - chính trị- xã hội và
gắn liền với những thành tựu khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ là sự hình thành
và phát triển một nền triết học mới – triết học Tây Âu thời Phục hưng – cận
đại. Mặc dù, nền triết học này được chia thành hai giai đoạn: triết học Tây
Âu thời Phục hưng( thế kỷ XV-XVI) và triết học Tây Âu thời cận đại ( thế
kỷ XVII –đầu XIX), ứng với hai giai đoạn hình thành và khẳng định của

 

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng thống nhất với nhau.


 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Triết học Tây Âu thời cận đại tiếp nối triết học Tây Âu thời Phục hưng,
phản ánh sự thay đổi lớn trong đời sống kinh tế - chính trị - tư tưởng của xã
hội Tây Âu thời bấy giờ. Dù tồn tại trong sự phát triển đan xen giữa các tư

tưởng, trường phái triết học khác nhau, nhưng nhìn chung, nó có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, về mặt thế giới quan, triết học thời phục hưng – cận đại thể hiện
rõ thế giới quan máy móc bên cạnh quan điểm tự nhiên thần luận của giai
cấp tư sản- giai cấp đang vươn lên lãnh đạo xã hội. Sự xung đột giữa chủ
nghĩa duy vật và khoa học với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo rất quyết liệt.
Chủ nghĩa duy vật đã trở thành thế giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ và
cách mạng; còn khoa học đã trở thành sức mạnh của họ trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp phong kiến và Nhà thờ nhằm xác lập một trật tự
xgiai cấp phong kiến và Nhà thờ nhằm xác lập một trật tự xã hội mới. Các
quan điểm duy vật đã tìm được cơ sở khoa học cụ thể cho chính mình. Còn
quan niệm khoa học, mà trước hết là cơ học, đã được mở rộng thành chủ
nghĩa cơ giới ( máy móc ). Mặc dù các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc
biệt là cơ học, được áp dụng rộng rãi trong tthực tiễn cuộc sống và trong
nhận thức; nhưng những niềm tin tôn giáo vẫn chưa bị đẩy lùi. Những giá
trị của Thượng đế được thừa nhận trước đây, bây giờ được coi là những giá
trị của giới tự nhiên. Giới tự nhiên được gán ghép cho nhữg tính siêu nhiên
thần thánh. Do đó, màu sắc tự nhiên thần luận là một nét đặc sắc của chủ
nghĩa duy vật máy móc lúc bấy giờ.
Thứ hai, về mặt nhận thức – phương pháp luận, triết học thời phục hưng –
cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thức mới để khắc phục triệt để
phương pháp kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học và một khoa
học mới có liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây dựng tri thức. Tuy
nhiên, sự đối lập giữa cảm tính và lý tính rất gay gắt kéo theo sự đối lập
giữa phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, giữa tư duy tổng hợp
và tư duy phân tích đã sản sinh ra sự đối lập của chủ nghĩa kinh nghiệm –
 

duy giác và chủ nghĩa duy lý – tự biện. Sự đối lập này đã sản sinh ra hai


10 
 


 

phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức khoa học: phương pháp kinh
nghiệm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên thực nghiệm và phương pháp tư
duy tự biện trong nghiên cứu khoa học tự nhiên lý thuyết. Do khoa học thực
nghiệm chiếm ưu thế nên phương pháp siêu hình kinh nghiệm được đề cao.
Và do cơ học vươn lên vai trò hàng đầu trong các ngành khoa học tự nhiên
nên chủ nghĩa cơ giới (máy móc) xuất hiện và xâm nhập trở lại các ngành
khoa học đó. Vì vậy, trào lưu triết học thống trị trong giai đoạn này là chủ
nghĩa duy vật siêu hình- máy móc lại bộc lộ những nhược điểm yếu kém
của mình trong quá trình phát triển tư duy lý luận, vì vậy, phép biện chứng
duy âm đã ra đời thay thế.
Thứ ba, về mặt nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thời Phục hưng
– cận đại thể hiện rõ tinh thần khai sang và chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Nó là
ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sảnđể tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn quần
chúng thực hiện những hành động cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới – chủ nghĩa tư bản. Khát vọng giải phóng con người ra
khỏi sự thống trị của giai cấp phong kiến – giáo hội nhà thờ, ra khỏi sự ngu
dốt, ra khỏi chi phối âm thầmcủa các lực lượng tự nhiên nhằm hướng đến
một cuộc sống tự do, hạnh phúc, công bằng, bác ái, sung túc cho con người
trên trần gian được đặt ra. Khát vọng này có sức cuốn hút mạnh mẽ quần
chúngđi đến một hành động cách mạng cụ thể để giái phóng mình và giải
phóng xã hội.
Lịch sử triết học Tây Âu thời Phục hưng – cận đại là một cuộc đấu tranh
của các trào lưu, khuynh hướng, trường phái triết học khác nhau trong bối
cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và tự khẳng định mình,

trong sự hiện thực hóa vai trò thống trị của giai cấp tư sản. Thế giới quan
duy vật máy móc, nhân sinh quan nhân đạo tư sản, và phương pháp luận
siêu hình thể hiện rất rõ trong các trường phái, trào lưu, khuynh hướng triết

 

học xung đột nhau lúc bấy giờ.

11 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

PHẦN 2 : TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
PHƠRĂNGXÍT BÊCƠN
4. Các tư tưởng triết học thời Phục hưng:
Nếu triết học Tây Âu trung đại bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm,
coi trọng lòng tin tôn giáo, đề cao vai trò của Thượng đế, coi thường lý
trí khoa học, hạ thấp vai trò của con người và giới tự nhiên…, là công cụ
tinh thần của nhà thờ và nhà nước phong kiến thống trị con người; thì
triết học Tây Âu thời Phục hưng đã bắt đầu coi trọng lý trí, đề cao con
người và giới tự nhiên. Thời kỳ này, sự phát triển của triết học gắn bó
chặt chẽ với sự phát triển của khoa học tự nhiên mà trước hết là thiên
văn học. Triết học và khoa học tự nhiên thống nhất chặt chẽ với nhau;
các nhà khoa học tự nhiên thường là các nhà triết học.Về cơ bản, triết
học Tây Âu thời Phục hưng là ngọn cờ lý luận của các lực lượng xã hội
tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhằm
thiết lập ý thức hệ mới – ý thức hệ tư sản.

Trải qua một quá trình xung đột gay gắt giữa các tư tưởng duy vật và
khoa học của các lực lượng tiến bộ trong xã hội với các tư tưởng duy
tâm và thần học thể hiện lợi ích của giai cấp phong kiến và nhà thờ, chủ
nghĩa duy vật từng bước được khôi phục lại. Tuy nhiên, do sự ảnh
hưởng rất lớn của thần học nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này không
triệt để, nó mang tính tự nhiên thần luận; nó chỉ chống lại nhà thờ nếu
nhà thờ xuyên tạc những lý tưởng xã hội cao đẹp, những quan niệm
khoa học đúng đắn; thậm chí, nó còn dựa vào thượng đế để chống lại
những biểu hiện phi nhân tính trong đời sống, phi khoa học trong nghiên
cứu.

sự phát triển tiếp theo của triết học Phương Tây là quan niệm mới về
12 
 

 

Các tư tưởng cơ bản của triết học thời phục hưng có ảnh hưởng lớn đến


 

con người và tự nhiên, - tư tưởng đề cao con người và sự nghiệp giải
phóng con người, thuyết nhật tâm; về khoa học và vai trò của nó trong
đời sống của nhân loại…
5. Các tư tưởng triết học thời cận đại
Tiếp nối những tư tưởng triết học thời phục hưng, triết học phương
Tây tiếp tục có những thành tựu đáng kể trong việc phát triển các trường
phái tư tưởng triết học lớn, như:
ƒ Trường phái duy vật kinh nghiệm – duy giác

ƒ Trường phái duy lý – tự biện
ƒ Trường phái duy tâm – bất khả tri
ƒ Triết học khai sang và chủ nghĩa duy vật Pháp
ƒ Triết học cổ điển Đức
Các trường phái triết học kể trên được gắn liền với các tên tuổi lớn, và
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, xin được phép đi sâu vào
những tư tưởng triết học của triết gia nổi tiếng Phơrăngxít Bêcơn.
6. PHƠRĂNGXÍT BÊCƠN
Phranxis Bêcơn (1561-1626) (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời
cận đại. C.Mác coi Ph.Bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa
học thực nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang
một

giai

đoạn

phát

triển

mới

với

những

màu

sắc


riêng.

Ph.Bêcơn sinh tại thành phố Luân Đôn, trong một gia đình quý tộc Anh.
Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm
trong ngành ngoại giao cho vương triều Xtiua. Ông từng làm việc tại sứ
quán Anh ở Pháp, sau đó được bầu vào Nghị viện, làm Thượng thư báo chí,
rồi Thủ tướng của nước Anh. Ông là đại biểu tư tưởng của tầng lớp quý tộc
Ph.Bêcơn là người nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm phát triển
13 
 

 

cấp tiến. Mặc dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư sản, nhưng


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

đất nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học và triết học. Những tác phẩm
lớn của ông là: Giải thích thiên nhiên, Phê bình triết học, Sợi chỉ của mê lộ,
Mô tả quả cầu tri thức, về các nguyên lý, Atlantis mới, Đại phục hồi các
khoa học (1605), Công cụ mới (1620)... Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học và
khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Ph.
Bêcơn.
Bêcơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học
không biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông
cho rằng con người cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó

có thực hiện được không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con
người. Bêcơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần
có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu nhằm biến
tự nhiên thành “giang sơn” của con người.
Bêcơn phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ
dựa vào những lập luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích
gì cho con người. Theo Bacơn, triết học phải giúp con người trở nên mạnh
hơn. Nhiệm vụ của triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ
phức tạp của nó.
a. Quan niệm của Ph.Bêcơn về bản chất, nhiệm vụ của khoa học và
triết học
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh,
Ph.Bêcơn đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học
và sự cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý
luận của công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một
phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công xã hội, xây dựng cuộc
sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng,
Ph.Bêcơn khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ
 

sở phát triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình

14 
 


 

lý tưởng. Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân
và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người

đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được.
Chịu ảnh hưởng của quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của
các khoa học, Ph.Bêcơn hiểu triết học theo hai nghĩa. Triết học theo nghĩa
rộng là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng đế (học thuyết
về Thượng đế), về giới tự nhiên (học thuyết về giới tự nhiên) và về bản thân
con người (học thuyết về con người); học thuyết về Thượng đế là thần học,
chỉ có bộ phận thần học tự nhiên (tức học thuyết lý giải Thượng đế dưới góc
độ nghiên cứu khoa học, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó) mới thuộc
về triết học, còn bộ phận thần học Thượng đế (tức xem xét Thượng đế dưới
góc độ tôn giáo) thì thuộc về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng...Học thuyết về
tự nhiên trong triết học được Ph.Bêcơn gần như đồng nhất với khoa học tự
nhiên, còn học thuyết về con người thì được coi là nhân bản học. Theo
Ph.Bêcơn, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật chỉ
đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người, triết học
và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học là tư duy
lý tính, mang tính trí tuệ cao nhất.
Theo nghĩa rộng, triết học hầu như đồng nhất với tất cả các khoa học,
bao chứa mọi khoa học khác. Theo nghĩa hẹp, triết học là bộ phận cơ bản
nhất trong tổng thể các khoa học. Đó là nền tảng và cơ sở của mọi khoa học
khác, đồng thời nó đã bao chứa toàn bộ các lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Ph.Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học,
nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó.
Ph.Bêcơn chỉ ra rằng khoa học mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại chứ
không riêng cho ai. Những quan niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như
là một nghề thủ công có lãi chỉ làm cho khoa học bị què quặt đi mà thôi.

 

Bằng khoa học, con người tiếp cận với thế giới.


15 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội,
Ph.Bêcơn khẳng định "tri thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một kết
luận mang tính cách mạng đối với người đương thời, coi "hiệu quả và sự
sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết
học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người cần phải nhận thức các quy
luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng.
Là một nhà tư tưởng cấp tiến có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý
tộc, Bêcơn đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Nhưng muốn vậy, cần phải
thống trị giới tự nhiên, nghĩa là biết sử dụng sức mạnh của nó và bắt nó
phục vụ lợi ích cho con người. Để làm được điều này cần phải phát triển
khoa học và triết học. nhưng muốn phát triển khoa học và triết học, thì
trước hết phải khắc phục tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận suông xa rời
thực tế cuộc sống của triết học và khoa học cũ, nghĩa là phải có quan điểm
thực tiễn. Chỉ khi dựa trên quan điểm thực tiễn, thì mới có thể xác định
đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của triết học và khoa học mới; và sử dụng
chúng một cách hiệu quả trong đời sống của con người.
Theo Bêcơn, triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi
khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa
học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục về
mọi lĩnh vực nghiên cứu như: Thượng đế, giới tự nhiên, con người, chứ
không phải là củng cố các đức tin mù quáng. Nhiệm vụ của triết học mới là
đại phục hồi cho khoa học hay xây dựng khoa học mới bằng cách cải tạo
toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả

tư duy khoa học để khám phá trật tự củ thế giới khách quan, tiến đến xây
dựng một hình ảnh về thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện
thực. Còn nhiệm vụ của khoa học mới là khám phá ra các quy luật của thế
giới, chứ không phải đi tìm nguyên nhân cuối cùng. Triết học và khoa học
mới phải xuất phát từ tinh thần “tri thức là sức mạnh” và lý luận thống nhất

 

với thực tiễn. Nhiệm vụ tối thượng của chúng là giúp tăng cường quyền lực

16 
 


 

tinh thần cho con người để con người thống trị, tức là làm chủ và cải tạo
giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho con người.
Với quan niệm thực tiễn như thế, Ph.Bêcơn đã xây dựng một hệ
thống triết học về khoa học của mình. Tư tưởng này còn thể hiện rất nhiều
trong các quan niệm được đề cập sau đây.
b. Quan niệm về thế giới
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Ph.Bêcơn cho rằng để
lý giải được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là
đủ. Để giải thích thế giới, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của
Arixtốt theo hướng duy vật. Ông cho rằng thế giới( giới tự nhiên) tồn tại
khách quan, đa dạng và thống nhất; con người là một sản phẩm của thế giới,
nó bao gồm thể xác và linh hồn mang tính vật chất. Ông xoá bỏ nguyên
nhân mục đích của các sự vật và cho rằng, mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại
từ ba nguyên nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với Arixtốt, ông

coi hình dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất
hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái gọi là "hình dạng của hình
dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên" phi hình dạng là không có
thực; mọi "hình dạng" đều chỉ là "hình dạng" của vật chất. Cả ba nguyên
nhân "hình dạng", "vật chất" và "vận động", thực chất đều là bản tính của
vật chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải
thụ động.
Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín,
nhận thức (cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học không thể
biết cái gì ngoài thế giới vật chất khách quan đó. Tính đa dạng của thế giới
chỉ có thể được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về
vật chất, về hình dạng, về vận động…

 

Vật chất là toàn thể các phần tử rất nhỏ với những tính chất khác nhau.

17 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Hình dạng là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do
đầy đủ để sự vật xuất hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là
quy luật chi phối sự vận động của chúng.
Vận động là bản năng, là sinh khí của sự vật vật chất. Vận động là thuộc
tính đầu tiên và quan trọng nhất của vật chất.
Ph.Bêcơn đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và

đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động,
giữa bản chất của sự vật và vận động của nó. Khẳng định vận động là đặc
tính của sự vật, Ph.Bêcơn cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động
của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét, Ph.Bêcơn đã hiểu "rằng
trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và
quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán học mà
hơn nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống của vật chất".
Ph.Bêcơn đã tìm cách phân loại các dạng vận động. Theo ông có 19
dạng vận động: 1) vận động xung đối; 2) vận động móc nối; 3) vận động
giải phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4) vận động,
trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) vận động liên
tục; 6) vận động có lợi; 7) vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) vận động
tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) vận động từ tính; 10) vận động sản sinh ra;
11) vận động chạy trốn; 12) vận động thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi
nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động theo xu hướng; 16) vận động
hùng tráng; 17) vận động tự quay; 18) vận động rung động; 19) đứng yên.
Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau. Nhận thức bản chất
của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, nghĩa là vạch ra các quy luật
vận động chi phối chúng.
Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo
cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của
vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức
 

vận động cơ học; không thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đã dẫn

18 
 



 

đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với
trình độ cấu trúc của vật chất. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận
động ở Ph.Bêcơn là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh
lịch sử hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất
của thế giới.
Đối với con người, Ph. Bêcơn cho rằng con người là một sản phẩm của thế
giới: khi coi con người bao gồm thể xác và linh hồn, ông khẳng định rằng,
không chỉ thể xác mà cả linh hồn của con người cũng đều là vật chất. Linh
hồn của con người giống như không khí hay lửa, biết cảm giác, tồn tại trong
bộ óc, vận động theo dây thần kinh và mạch màu trong cơ thể. Ngoài việc
thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác con người, Ph.
Bêcơn còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động
vật tồn tại trong cơ thể thực vật và động vật. khoa học nghiên cứu con
người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.
c. Nhận thức luận và phương pháp luận
Quan niệm về nhận thức: Ph. Bêcơn cho rằng : cảm giác, kinh
nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. mặc dù vẫn còn chịu ảnh
hưởng bởi quan niệm chân lý lưỡng tính – chân lý lòng tin của thần học tồn
tại cùng với chân lý lý trí của khoa học – và chưa khắc phục được tính thần
học trong quan niệm của mình, nhưng Ph. Bêcơn luôn cho rằng cảm giác,
kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Khoa học thực sự phải
biết sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp khoa học để khái
quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật,
bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học
như thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm. Và tri thức khoa học thật sự
phải luôn mang bản tính khách quan; chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào

 


tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người.

19 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Bêcơn là người ủng hộ nhiệt thành sự phát triển của khoa học. Ông nói:
"Mục đích của tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học mà không cần
phải tô vẽ và cường điệu, và làm rõ ý nghĩa và giá trị chân chính của nó."
Theo Bêcơn, quá trình nhận thức thế giới khách quan là quá trình
xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Quá trình này phải xuất phát
từ bản than thế giới khách quan, thong qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến
tư duy lý tính để xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Tuy nhiên,
quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi những yếu tố chủ
quan. Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách
quan, Bêcơn đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của
con người, những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và
nhất thời, mà là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con
người trong nhận thức. Ông gọi chúng là các “ngẫu tượng” (Idola theo tiếng
cổ Hi Lạp nghĩa là hình ảnh bị xuyên tạc) hay còn gọi là “ảo tưởng”. Để
nhận thức chân lí và khắc phục được các ngẫu tượng, thì phải vạch ra cơ
chế và bản chất của chúng. Do vậy, Bêcơn coi học thuyết về các ngẫu tượng
tựa như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp luận của mình.
Các ngẫu tượng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng
một phần có trong bản chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong
quá trình lịch sử nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lí và

nhân cách của mỗi người. Theo Bêcơn, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng
ngại vật và cạm bẫy cho mình”. Vì các ngẫu tượng thường xuyên ám ảnh
con người, tạo nên cho nó những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ
mặt thật của thế giới, nói tóm lại, cản trở con người xâm nhập vào thế giới
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu". Vì vậy, quá trình con người đấu tranh khắc
phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá trình con người đấu tranh vì
sự hoàn thiện bản thân mình.

 

Bêcơn phân loại các dạng ảo tưởng như sau:

20 
 


 

Dạng ảo tưởng loài: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên
nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai
cũng dễ dàng gán cho sự vật những đặc tính của riêng con người. Bêcơn
nói: "Các ngẫu tượng loài có cơ sở trong chính bản thân loài người, bởi vì
thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm tính của chúng ta là thước đo
sự vật. Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí tuệ đều được dựa trên sự
tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự tương đồng của thế
giới. Trí tuệ con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi nó pha trộn
bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới
dạng bị xuyên tạc, bóp méo".
Sở dĩ có loại ngẫu tượng này, theo Bêcơn, là do các giác quan cũng
như trí tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu

hiện của ngẫu tượng này là ở chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến
và suy nghĩ chủ quan của mình là thước đo tất thảy mọi vật. Ngẫu tượng
loài do vậy rất bền vững. Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ngẫu
tượng này bằng cách hoàn thiện các nhận thức của con người như thực
nghiệm v.v..
Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan
là hợp lý. Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý
chí trong hoạt động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn
toàn cái chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan
thuần tuý" của ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích
cực trong việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó,
vì sự tiến bộ của khoa học.
Để loại trừ ảo ảnh này, con người trong nhận thức phải tôn trọng tính
khách quan, không được duy ý chí, chủ quan áp đặt tư tưởng của mình cho
các đối tượng, thận trọng thăm dò, tăng cường quan sát, thực nghiệm,
thường xuyên kiểm tra các tài liệu do cảm tính mang lại, loại bỏ những sai

 

lầm về mặt logic…

21 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Dạng ảo tưởng hang động: xuất hiện trong quá trình nhận thức của
từng con người cụ thể. Ngoài những ngẫu tượng đối với cả loài người, thì

mỗi người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình
làm xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do
hoàn cảnh giáo dục của mỗi người cũng khác nhau. Thực chất ngẫu tượng
hang động chính là ngẫu tượng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở
mức độ và hình thức khác nhau. Sở dĩ gọi là ngẫu tượng hang động vì mượn
câu chuyện của Platôn về hang động, Ph.Bêcơn ví trí tuệ của con người như
hang động méo mó của Platôn, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự
kiện diễn ra bên ngoài.
Để hạn chế dạng ngẫu tượng này, mỗi người cần phải hoàn thiện
nhân cách của mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh
nghiệm tập thể v.v..
Dạng ảo tưởng thị trường: được hình thành khi con người không
xuất phát từ tình hình thực tế của bản than sự vật mà dựa vào thói quen, tập
quán, quan niệm, thuật ngữ mơ hồ không phản ánh đúng bản chất của sự vật
để nhận thức nó. Ảo tưởng này xuất hiện do thường xuyên sử dụng những
danh từ trống rỗng để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày (giống như ở
chợ). Đó còn do sự ngộ nhận sử dụng các thuật ngữ khoa học chưa thật
chính xác. Theo ông, nhiều từ ngữ đã trở nên cưỡng bức lý tính, làm đảo
lộn tất cả và cuối cùng, thì chỉ dẫn mọi người đến các cuộc cãi vả để diễn
giải những cái rỗng tuếch. Vì thế phải phải bỏ thói quen dựa vào các quan
niệm đang lưu hành và có thái độ phê phán đối với các thuật ngữ mơ hồ
không chính xác. Theo Bêcơn, điều kiện được gọi là tri thức phải là tính
chính xác của khái niệm.
Dạng ảo tưởng này xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái,
chạy theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm
phổ biến giáo điều, các tập quán truyền thống, trong đó bên cạnh nhiều yếu

 

tố tích cực, cũng chứa đựng không ít những điều lạc hậu. Các ngẫu tượng


22 
 


 

này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa học của chúng ta đôi chỗ còn chưa thật
chuẩn xác. Quan niệm trên của Ph.Bêcơn có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ.
Dạng ảo tưởng nhà hát: Sai lầm bắt nguồn do chúng ta quá tin vào
người xưa, diễn ra trước mắt người ta như diễn ra trên sân khấu. Quá khứ
chỉ là một thời kỳ ấu trĩ của loài người chứ không phải là một thời hoàng
kim; để đi đến chân lý không nên giáo điều, hoặc rơi vào chủ nghĩa hoài
nghi luận.
Dạng ảo tưởng này có nguồn gốc từ những quan niệm sai trái nhưng
được củng cố bởi các thế lực chính trị, tôn giáo…đang thống trị trong đời
sống xã hội. Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm
thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái cá
nhân của nhiều nhà khoa học thời đó, Ph.Bêcơn khẳng định "chân lý là con
gái của thời gian chứ không phải của uy tín". Để tìm ra chân lý chúng ta
không nên rơi vào chủ nghĩa hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo
điều trong nhận thức.
Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh là ở chỗ không chỉ chống lại các
suy luận vô căn cứ của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá
trình nhận thức. Đó là tôn trọng khách quan, phê phán và không giáo điều.
Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời Cận đại mà cho tất cả các thời đại. Ý
nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức.
Theo Ph. Bêcơn, để khắc phục những ảo tưởng này, chúng ta cần
phải khách quan hóa hoạt động nhận thức. Điều này được thực hiện bằng
cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên mà không thong qua uy tín, sách vở,

lòng tin, tín điều,…; ra sức hoàn thiện phương tiện, công cụ nhận thức và
nhân cách, cá tính cá nhân của mỗi người, đặc biệt phải biết làm thí nghiệm,
biết sử dụng phép quy nạp khoa học, biết tổng hợp và khái quát hóa một
cách đúng đắn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính riêng lẻ để xây dựng chuẩn
xác các khái niệm, nguyên lý chung phản ánh đúng đắn, chính xác bản chất,
 

quy luật của sự vật tồn tại trong hiện thực khách quan.

23 
 


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
 

Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ngẫu
tượng của Ph.Bêcơn còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh
nhận thức luận, vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ngẫu
tượng một cách hợp lý. Công lao của ông trong học tuyết về ngẫu tượng là
ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận thức; ở chỗ
khẳng định quá trình nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét
với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không giáo điều. Những tư tưởng đó
có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông mà còn đối với cả hiện
nay.
Ph.Bêcơn là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế
của tam đoạn luận và của lôgic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn
được coi là phương pháp nhận thức vạn năng, đồng thời ông là một trong
những người khởi xướng ra tư tưởng lôgic mới.
Ph.Bêcơn liệt kê, phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản

đang được sử dụng phổ biến để từ đó đưa ra một phương pháp nhận thức
mới cao hơn.
Theo Ph.Bêcơn, từ trước đến bấy giờ, tư duy giáo điều và đầu óc
nông cạn,

người ta chỉ chủ yếu dùng hai phương pháp nhận thức là

"phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến".
Phương pháp con nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng
và cứ liệu vụn vặt người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một
cách vô căn cứ về bản chất của sự vật. Phương pháp này được các nhà giáo
điều sự dụng để rút ra các công thức phi nội dung. Phương pháp đó chẳng
khác gì con nhện chăng tơ, chỉ trong khoảnh khắc đã xong nhưng không
chắc chắn và bất chấp mọi tài liệu, thực tế sinh động bên ngoài đang tồn tại,
thay đổi ra sao. Đây chỉ là những lý luận suông.
Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng ít dữ
đúng đắn trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương pháp này chỉ cho ta hiểu
24 
 

 

kiện về sự vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận


 

những nét bề ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích
thực của sự vật. Đây là phương pháp thục tiễn mù quáng, thường được các
nhà kinh nghiệm tầm thường sử dụng.

Để khắc phục những hạn chế nói trên, Ph.Bêcơn đưa ra "phương
pháp con ong". Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức
do cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật
ong, rút ra những tri thức mới bằng tư duy lý tính. “Con ong chọn phương
thức hành động trung gian, nó khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng
đồng nhưng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chỉ định của
mình. Công việc đích thực của triết học cũng không khác gì công việc đó”.
Về vai trò của phương pháp, Bacơn cho rằng “người què chạy đúng hướng
sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp giống như ngọn
đèn soi đường cho lữ khách trong đêm đông”.
Đương thời, Ph. Bêcơn đưa ra phương pháp 3 bảng ( bảng có mặt,
bảng vắng mặt, bảng trình độ), sau này Milơ đã hệ thống hóa thành 4
phương pháp Milơ để khám phá ra mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật
chi phối các sự vật, hiện tượng khách quan, đa dạng và thống nhất trong thế
giới vật chất.
Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Ph.Bêcơn, là phương pháp quy
nạp. Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học. Đây là
phương pháp cơ bản mang lại nhiều phát minh nổi tiếng của khoa học thực
nghiệm trước đây. Nó dẫn dắt tư duy khoa học xuất phát từ những sự kiện
khoa học riêng lẻ ( cái riêng) để đi đến những nguyên lý, quy luật tổng quát
(cái chung) khi dựa trên mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật giữa
chúng đã được phát hiện ra, mà không nhất thiết phải dựa trên số lượng lớn
các sự kiện riêng lẻ được khảo sát. Theo Ph. Bêcơn, quá trình nghiên cứu –

 

nhận thức đúng đắn cần phải trải qua 3 bước như sau:

25 
 



×