Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận văn pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.65 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ LEN

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


ĐỖ THỊ LEN

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: CH22B112

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ LAN ANH


HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời biết ơn chân thành tới TS Vũ Thị Lan Anh. Nhờ sự giúp
đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của cô em đã có được những kiến thức quý báu về
cách thức nghiên cứu vấn đề cũng như nội dung của đề tài, từ đó em có thể
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.


Em cũng xin chân thành cảm ơn tình cảm và sự truyền thụ kiến thức
của các thầy cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội trong suốt quá trình em học
tập và nghiên cứu.
Chính sự giúp đỡ đó đã giúp em nắm bắt được những kiến thức sâu hơn
về pháp luật cũng như cuộc sống.
Qua đây, em xin kính chúc các thầy cô luôn thành đạt trên các cương vị
công tác của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về hợp
đồng thương mại vô hiệu ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, không sao chép của bất cứ ai.


Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !
Tác giả luận văn


Đỗ Thị Len

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1.

BLDS

: Bộ luật dân sự


2. BLHS

: Bộ luật hình sự

3. CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

4. CP

: Cổ phần

5. LDN

: Luật doanh nghiệp


6. LTM

: Luật thương mại

7. TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

8. TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

9. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


6

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU
6
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại
6
1.1.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ hợp đồng bằng pháp luật
6
1.1.2. Khái niệm hợp đồng thương mại

8
1.1.3. Những đặc trưng của hợp đồng thương mại
9
1.1.4. Phân loại hợp đồng thương mại
11
1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại vô hiệu
14
1.2.1. Khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu
14
1.2.2. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu
15
1.2.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu
18
1.3. Khái quát về pháp luật hợp đồng thương mại vô hiệu
21
1.3.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
21
1.3.2. Cấu trúc pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
22
1.3.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
24
1.3.4. Kinh nghiệm pháp luật một số nước trên thế giới về hợp đồng
thương mại vô hiệu
26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI VÔ HIỆU VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
30
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ở Việt

Nam
30
2.1.1. Quy định pháp luật về các trường hợp hợp đồng thương mại vô
hiệu
30
2.1.2. Quy định pháp luật về vấn đề xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng
thương mại vô hiệu
48
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ở Việt Nam
hiện nay
55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2:
64
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
66


7

3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô
hiệu
66
3.1.1. Các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu cần được đặt trong mối
quan hệ với các quy định về hợp đồng vô hiệu của Bộ luật dân sự
66
3.1.2. Sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành theo hướng
xây dựng hoàn thiện các quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự và
các luật chuyên ngành trong lĩnh vực thương mại.
67

3.1.3. Đảm bảo thể chế hóa đường lối đổi mới chính sách kinh tế của
Đảng và Nhà nước đồng thời tạo ra sự tương thích với pháp luật quốc tế
về hợp đồng vô hiệu trong điều kiện hội nhập
69
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
71
3.2.1. Hoàn thiện khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu
71
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
71
3.2.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về các trường hơp hợp đồng thương
mại vô hiệu
73
3.2.4. Hoàn thiện quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng
thương mại vô hiệu
78
KẾT LUẬN
81


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia
nào, chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng vào
bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Đã từ lâu pháp luật về
hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay

nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp
đồng.
Vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu là một trong những vấn đề nổi cộm
hiện nay của chế định hợp đồng. Đây là một vấn đề phức tạp, còn nhiều
vướng mắc cần được trả lời sớm nhằm tạo niệm tin cho các chủ thể kinh
doanh
Khi xây dựng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu, các nhà làm luật
đều quan tâm tới các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về xử lý
hợp đồng vô hiệu. Các quy định này có tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã
hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Do vậy, các quy định về hợp
đồng thương mại vô hiệu phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đảm bảo sự
hài hòa giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng, Nhà nước
nói chung.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu vẫn còn
nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc, chưa đầy đủ, có quy
định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống nhất. Ví dụ như: các căn
cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu còn có nhiều điểm chưa rõ ràng; hậu quả
pháp lý của hợp đồng vô hiệu còn quy định chung chung, khó áp dụng. Quyền
lợi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa đáng
khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.


9

Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp đồng,
những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều khó khăn,
lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới hợp đồng vô hiệu. Nói cách
khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan chức năng trong
việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên thực tế, cũng không ít

trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do một bên giao kết hợp đồng lợi
dụng các quy định của pháp luật để "bội ước", nhằm trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Với thực trạng đó, các quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu cần sớm
được hoàn thiện đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới sự bảo đảm an toàn
và lẽ công bằng cho các chủ thể, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường
kinh doanh. Một cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý
thông thoáng không những là yêu cầu chính đáng của người dân, của các
doanh nghiệp để họ thực hiện hoạt động kinh doanh và bảo vệ lợi ích hợp
pháp của mình mà còn là điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước giao. Hơn thế nữa, cần phải
khẳng định rằng việc nhận thức đúng về bản chất của hợp đồng vô hiệu và
việc xử lý chúng để từ đó xây dựng các quy định về hợp đồng vô hiệu một
cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cũng sẽ góp phần hoàn thiện chế định
hợp đồng trong hệ thống pháp luật của nước ta.
Từ những lý do trên, với mong muốn được góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ở Việt Nam” để làm luận văn
thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về hợp đồng vô hiệu, việc giải quyết hậu quả pháp lý của
hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
trong các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã
được đề cập tới trong Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại
học Quốc gia, Trường đại học Kiểm sát.


10

Các vấn đề liên quan còn được đề cập trong một số công trình nghiên cứu

như: Luận án tiến sĩ luật học với đề tài: “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả
pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của Lê Thị Bích Thọ năm 2009,
Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn
Cường: "Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu" năm 2004, khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh: “Xử lý hợp đồng vô
hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam” năm 2005, Trường đại học Luật Hà
Nội; Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Thùy Dương: "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về xử lý hợp đồng vô hiệu ở Việt Nam" năm 2004, Trường Đại học
Luật Hà Nội; …
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết của các tác giả như: Phạm Nguyễn
Linh (2008), Xử lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí luật
học số 11/2008; Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả hợp
đồng vô hiệu, Tạp chí Tòa án nhân dân số 21/2011; …
Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan thì
chúng tôi thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của Bộ
luật Dân sự 2005, nhất là việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp
trong thực tiễn, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về pháp luật hợp
đồng thương mại vô hiệu trong những năm gần đây, nhất là trong điều kiện
Bộ luật Dân sự 2015 đã được Quốc hội thông qua và sắp có hiệu lực.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định về hợp đồng vô
hiệu có ý nghĩa quan trọng. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế xã hội,
các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, vấn đề xử lý
hợp đồng vô hiệu cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi phải có sự sửa
đổi, bổ sung. Đó cũng là lý do để tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng
thương mại vô hiệu ở Việt Nam” làm đề tài luận văn cao học luật.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung vào các đối tượng nghiên cứu
như sau:



11

- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng thương mại vô
hiệu, mà cụ thể là tập trung vào các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu
trong Bộ luật dân sự năm 2005, 2015 và các văn bản hướng dẫn, đặt trong
tương quan một số quy định của Luật thuơng mại, Luật doanh nghiệp, … và
các công ước, văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh vấn đề này.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu.
Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn nghiên cứu đề tài cao học
luật, tác giả luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về
hợp đồng thương mại vô hiệu. Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá quy
định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu đồng thời xem xét thực tiễn
áp dụng các quy định nêu trên kể từ thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có
hiệu lực, luận văn này cũng đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
tại Việt Nam hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực
tiễn, từ đó đề ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng thương mại vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự và các Luật
chuyên ngành có liên quan.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn đuợc thực hiện dựa trên việc đặt ra một số câu hỏi mang tính
định hướng, xuyên suốt toàn bộ nội dung của vấn đề.
Câu hỏi thứ nhất đặt ra là: Pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu có
cơ sở lý luận như thế nào?
Câu hỏi thứ hai đặt ra là: Thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu hiện nay còn vấn đề gì
vướng mắc?

Câu hỏi thứ ba đặt ra là: Phương hướng giải quyết các vấn đề vướng
mắc là gì?


12

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo sát …kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Dưới góc độ khoa học, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ
đề cập một cách có hệ thống, chi tiết quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hợp đồng thương mại vô hiệu; đưa ra những đánh giá nhận xét về
tính hợp lý, logic, độ phù hợp với thực tiễn của các quy định này và nêu quan
điểm về hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
thương mại vô hiệu ở nước ta hiện nay.
Dưới góc độ thực tiễn, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc
trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật, đồng thời có những kiến nghị giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện pháp luật về hợp đồng
thương mại vô hiệu tại Việt Nam, góp phần cải thiện, nâng cao ý thức pháp
luật nói chung, thích ứng với hội nhập quốc tế.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về hợp đồng thương mại vô hiệu và pháp luật về hợp
đồng thương mại vô hiệu
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu và thực

tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại
vô hiệu ở nước ta hiện nay.


13

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU VÀ PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại
1.1.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ hợp đồng bằng pháp luật
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau
những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng và là tất
yếu đối với đời sống xã hội. Song, việc chuyển giao các lợi ích này không
phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của của
chủ thể, như C. Mác đã từng nói: "Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị
trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau,
thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí
nằm trong các vật đó"1. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí
giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và
được gọi là hợp đồng.
Hợp đồng chưa xuất hiện trong xã hội nguyên thủy bởi vì khi ấy lực
lượng sản xuất còn kém phát triển, còn tồn tại hình thức sở hữu chung về tư
liệu sản xuất. Khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân công lao động trong xã
hội thì nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa con người đòi hỏi phải có sự thống
nhất ý chí của những người chủ hàng hóa ấy mà hình thức của nó là bản giao
kèo. Đây chính là hợp đồng hay khế ước. Vì vậy, có thể khẳng định những

điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra
đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức cơ bản của mối quan hệ trao đổi sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể pháp luật trong xã hội. Nhưng cùng
với sự phát triển của xã hội loài người thì hợp đồng không chỉ dừng lại ở hình
thức biểu đạt cho nhu cầu trao đổi sản phẩm mà nó còn phát triển vượt ra
1 C. Mác, Tư bản, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, H.1973, tr. 163


14

ngoài phạm vi của mối quan hệ này. Bản thân việc trao đổi sản phẩm giữa
những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng cũng
không còn mang tính ngẫu nhiên mà nó đã dần chuyển hóa thành một nghề
độc lập – nghề thương mại. Ban đầu, khi tiến hành các hoạt động thương mại,
giữa các thương nhân hình thành những quy tắc xử sự mang tính nghề nghiệp.
Qua thời gian, các quy tắc này được lưu truyền và dần dần hình thành tập
quán được các thương nhân thừa nhận rộng rãi, gọi là tập quán thương mại.
Các tập quán này lại dần được pháp điển hóa trong các bộ luật, đạo luật đơn
hành hoặc được cấu thành những phần riêng trong pháp luật dân sự. Những
văn bản pháp luật này lần lượt ra đời ở một số nước Châu Âu, những nước có
điều kiện kinh tế, địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và giao lưu buôn
bán như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ, …
Chế định hợp đồng từ chỗ chỉ là tập hợp những hợp đồng cụ thể trực
tiếp xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ đã dần dần trở thành một chế
định pháp lý thực sự với một khái niệm về hợp đồng tương đối chặt chẽ và
hoàn chỉnh. Từ thời La Mã, hợp đồng đã được định nghĩa là căn cứ làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng
không thể thiếu: thứ nhất, phải có sự thỏa thuận (convention, consensus); thứ
hai, phải có mục đích (căn cứ pháp lý) nhất định (causa) mà các bên hướng tới.
Pháp luật về hợp đồng ngày càng được khẳng định cùng với sự ra đời của các

Bộ dân luật. Trong pháp luật tư sản, chế định hợp đồng tồn tại trong lĩnh vực
công pháp và tư pháp, song đặc biệt phát triển trong lĩnh vực tư pháp. Điều
1101 Bộ luật Dân sự (BLDS) Napoleon quy định, hợp đồng là sự thoả thuận
giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người
khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó2
. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý, khoa học của khái niệm này, tại
Điều 1101 BLDS Pháp hiện hành cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy về
2 Điều 1101 Bộ luật Dân sự Napoleon quy định: Le contra est une convention par laquelle une ou plusieurs
personness, obligent, envers une ou plusieurs autres, à donnér, à fair ou ne pas fair quelque chose (Code civil,
Edition Dalloz 1990-1991, p.708).


15

hợp đồng. Theo quy định của Điều 1101 BLDS Pháp năm 1804 thì “Hợp đồng
là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay
không làm một công việc”. Hoặc theo quy định của Điều 420 BLDS Liên Bang
Nga năm 1994 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”…
Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng xuất hiện từ khi có các định nghĩa
khái quát về khế ước trong các Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ (năm 1883), Bộ
Dân luật Bắc Kỳ (năm 1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (năm 1936)3. Tuy
nhiên, khái niệm khế ước không để lại dấu ấn sâu đậm và không có ảnh
hướng lớn đến hệ thống pháp luật về hợp đồng sau này. Trong bối cảnh hiện
nay nhiều nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì quan hệ trao đổi
hàng hóa mà hình thức của nó là hợp đồng ngày càng phức tạp, có nhiều sắc
thái biến động khiến các chủ thể kinh doanh không thể lường trước được. Sự
ra đời của pháp luật về hợp đồng là kim chỉ nam, là công cụ hữu hiệu nhất
điều hòa mối quan hệ thương mại mang tính hai mặt này.4 Như vậy, các quy

phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại
nói riêng là điều rất cần thiết cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các
thương nhân, giữa thương nhân với chủ thể kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng thương mại
Khi nhắc đến hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên
nhằm mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên (Điều 388
BLDS Việt Nam năm 2005). Hợp đồng là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện
ý chí của các bên làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành
vi pháp lý cơ bản và thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan
trọng trong hợp đồng, khi sự thống nhất của các ý chí là thực chất và không
3 Tại Điều 680 Bộ Dân luật Trung Kỳ quy định khái quát: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay
nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”.
4 Bùi Thị Kim Thanh, Chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr5.


16

trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh các nghĩa vụ. Nghĩa vụ này ràng buộc
các bên như luật pháp. Nói cách khác hiệu lực của hợp đồng là tạo lập, biến
đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ.
Trong Luật thương mại Việt Nam không có khái niệm Hợp đồng
thương mại, nhưng có thể hiểu Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa
hai hay nhiều bên (trong đó, ít nhất một trong các bên phải là thương nhân)
nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc
thực hiện hoạt động thương mại.
Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo Luật thương mại
2005 (LTM 2005), cụ thể tại Điều 1 LTM 2005, theo đó bao gồm : hoạt động
thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam; hoạt động
thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa

thuận chọn áp dụng LTM hoặc Luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên
trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong
trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó áp
dụng luật này.
1.1.3. Những đặc trưng của hợp đồng thương mại
Có thể xem xét hợp đồng kinh doanh, thương mại trong mối liên hệ với
hợp đồng dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nhiều vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi
pháp luật không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp
đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu… Bên cạnh đó, xuất phát
từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp đồng trong kinh
doanh, thương mại được quy định trong pháp luật thương mại có tính chất là
sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng
(như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết
tranh chấp hợp đồng...). Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ thương
mại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có những đặc điểm nhất định để
nhận biết và phân biệt với các loại hợp đồng khác.


17

Thứ nhất: về chủ thể thì hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu
giữa các chủ thể là thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 LTM 2005 “thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh”. Trong hợp đồng thương mại, có thể có những hợp đồng đòi hỏi các
bên đều phải là thương nhân như: hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp
đồng đại lý thương mại… hay có những hợp đồng chỉ đòi hỏi có ít nhất một
bên là thương nhân như: hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch

vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại…). Ngoài ra, các tổ
chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của
hợp đồng thương mại khi họ có hoạt động liên quan đến thương mại như ký
hợp đồng với thương nhân.
Thứ hai: về hình thức thì hợp đồng thương mại được thiết lập theo cách
thức mà hai bên thỏa thuận, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất
định, hợp đồng phải được thiết lập bằng văn bản như hợp đồng đại lý thương
mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ khuyến mại,
quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại… Điều 24 LTM 2005 đã quy định:
“Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà
pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy
định đó”. TLM 2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông
điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba: về đối tượng của hợp đồng thì đối tượng của hợp đồng thương
mại là hàng hóa và dịch vụ. Theo nghĩa thông thường, hàng hóa được hiểu là
những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của con người. Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia
thành nhiều loại khác nhau như bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài
sản vô hình, các quyền về tài sản… Tại Việt Nam, theo Khoản 3 Điều 5 LTM


18

1997, đối tượng được coi là hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông
trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán.
Trên thực tế, các hoạt động mua bán có tính chất thương mại ở Việt Nam

không chỉ dừng lại ở những loại hàng hóa này mà với cách liệt kê như LTM
1997 lại bó hàng hóa trong một phạm vi hẹp. Khắc phục bất cập trên, Khoản 2
Điều 3 LTM 2005 quy định:
“Hàng hóa bao gồm:
i) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
ii) Những vật gắn liền với đất đai”.
Như vậy, hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể là hàng hóa đang
tồn tại hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc
bất động sản được phép lưu thông trong thương mại.
Thứ tư: mục đích của hợp đồng thì mục đích của hợp đồng thương mại
là lợi nhuận. Xuất phát từ mục đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh
lợi nên khi các thương nhân tham gia ký kết một hợp đồng thương mại suy
cho cùng cũng đều vì lợi ích lợi nhuận. Theo Khoản 3 Điều 1 LTM 2005, đối
với những hợp đồng giữa thương nhân với chủ thể không phải là thương nhân
và không nhằm mục đích sinh lợi, việc có áp dụng Luật thương mại để điều
chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không là do bên không có mục đích lợi
nhuận quyết định.
1.1.4. Phân loại hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là một công cụ kinh doanh của các chủ thể kinh tế
bình đẳng với nhau. Với những tiêu chí khác nhau, hợp đồng thương mại có
thể phân chia theo các nhóm sau:
a) Theo tính chất quan hệ hợp đồng
- Hợp đồng mang tính chất đền bù: là loại hợp đồng mà quyền và nghĩa vụ
của các bên tương xứng với nhau trong trao đổi hàng hóa, thực hiện dịch vụ
hoặc sản xuất và thanh toán. Loại hợp đồng này được sử dụng trong các lĩnh
vực trao đổi hàng hóa, vận chuyên hàng hóa, xây dựng cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng tiến bộ khoa học và các lĩnh vực kinh doanh khác.


19


- Hợp đồng mang tính chất tổ chức: là loại hợp đồng mà trên cơ sở được
sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể kinh doanh có
thể thỏa thuận với nhau lập ra một cơ sở kinh tế – kỹ thuật mới để thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh.
b) Theo thời hạn của hợp dồng
Theo thời hạn, hợp đồng thương mại có thể gồm 2 loại là ngắn hạn và dài hạn.
Hợp đồng thương mại ngắn hạn là hợp đồng thương mại có xác định trước
một khoảng thời gian nhất định để hai bên thực hiện hợp đồng, trong đó
khoảng thời gian này thường không kéo dài được xác định trước, có khi chỉ
vài ngày.
Hợp đồng thương mại dài hạn là hợp đồng thương mại mà khi giao kết các
bên không xác định thời gian thực hiện hợp đồng hoặc điều khoản về thời
gian thực hiện hợp đồng được xác lập trong một khoảng thời gian dài (có thể
là nhiều năm).
c) Theo nội dung của hợp đồng
Theo nội dung, hợp đồng có thể gồm các loại như hợp đồng mua bán hàng
hóa, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, hợp
đồng dịch vụ, hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng khoa học – kỹ thuật, hợp
đồng úy thác xuất – nhập khẩu… Chúng được xếp vào hai nhóm chủ yếu, đó
là: hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng dịch vụ.
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa:
Đặc trưng của hợp đồng mua bán là có sự chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng
mua bán hàng hóa trong kinh doanh – thương mại là một dạng của hợp đồng
mua bán tài sản. Theo Điều 428 – Bộ luật dân sự 2005, “Hợp đồng mua bán
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản
cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền
cho bên bán”. Hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm những hợp đồng mua
bán hàng hóa giữa các thương nhân diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam và những
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp

dụng cho các phương thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập khẩu, tái xuất, tạm


20

xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Những hợp đồng mua bạn hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa có một số quy định riêng trong Luật Thương mại.
Hai là, hợp đồng dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ trong thương mại là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch
vụ cho bên sử dụng dịch vụ (khách hàng), còn bên sử dụng dịch vụ phải thanh
toán cho bên cung ứng dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ trong thương mại là hình
thức pháp lý của quan hệ cung ứng dịch vụ trong thương mại, nó gắn liền với
hoạt động thương mai là hoạt động cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa
(hợp đồng trong các hoạt động xúc tiến thương mại, trung gian thương mại,
các hoạt động thương mại cụ thể khác); các hợp đồng cung ứng dịch vụ
chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo, du
lịch...).
d) Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ của các bên
Hợp đồng trong thương mại được chia thành hợp đồng ưng thuận và hợp
đồng thực tế.
Hợp đồng ưng thuận là hợp đồng mà thời điểm phát sinh hiệu lực là thời
điểm giao kết hợp đồng, ví dụ, hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ, … Hợp
đồng thực tế là hợp đồng mà hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm các
bên chuyển giao cho nhau đối tượng hợp đồng, ví dụ, hợp đồng gửi giữ tài
sản, mượn tài sản, …
e) Căn cứ vào sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng
Hợp đồng trong thương mại được chia thành hợp đồng song vụ và hợp
đồng đơn vụ.

Hợp đồng song vụ là loại hợp đồng mà tất cả các bên trong hợp đồng đều
có nghĩa vụ và được hưởng quyền. Như vậy, mỗi bên tham gia hợp đồng đều
được hưởng quyền và phải thực hiện nghĩa vụ; quyền của bên này là nghĩa vụ
của bên kia và ngược lại.


21

Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng chỉ có một bên có nghĩa vụ như hợp đồng
tặng cho tài sản, theo đó, chỉ bên tặng có nghĩa vụ mà không được hưởng
quyền, còn bên nhận không có nghĩa vụ mà chỉ có quyền. Tuy nhiên, pháp
luật một số nước không cho phép chủ thể kinh doanh được kí hợp đồng tặng
cho với tư cách thương nhân (ví dụ, Liên Bang Nga)5.
f) Căn cứ vào hình thức của hợp đồng
Hợp đồng thương mại được chia thành hợp đồng bằng văn bản, hợp đồng
bằng lời nói, hợp đồng bằng hành vi.
Hợp đồng bằng văn bản là hợp đồng được các bên xác lập dưới hình thức
văn bản hợp đồng, công văn, tài liệu giao dịch. Hợp đồng bằng lời nói là hợp
đồng được hình thành bằng cách các bên trực tiếp dùng lời nói để thỏa thuận
và thống nhất nội dung hợp đồng. Hợp đồng bằng hành vi là hợp đồng được
ký kết bằng các hành vi cụ thể.
g) Căn cứ vào tính phụ thuộc lẫn nhau
Hợp đồng thương mại được chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực của nó không phụ thuộc vào các
hợp đồng khác. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của nó phụ thuộc vào
hợp đồng khác (hợp đồng chính). Ví dụ, trong quan hệ thế chấp tài sản để bảo
đảm cho khoản vay ngân hàng thì hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ còn hợp
đồng tín dụng là hợp đồng chính.
1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại vô hiệu
1.2.1. Khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu

Vấn đề hợp đồng thương mại vô hiệu là một vấn đề còn nhiều vướng
mắc, cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, hiểu thế nào là hợp đồng thương mại
vô hiệu và việc vận dụng cho nhất quán theo quy định của pháp luật về vấn đề
này còn là một điều không dễ dàng.

5 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại và
kỹ năng đàm phán, soạn thảo, NXB Công an nhân dân, tr18.


22

Ở mức độ khái quát có thể hiểu hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị
pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Pháp luật cho phép các chủ thể của hợp đồng thương mại có quyền tự
do ký kết hợp đồng, tự do thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, nhưng thỏa
thuận đó không được trái với quy định của pháp luật. Các chủ thể khi ký kết
hợp đồng phải tuân thủ những quy định của việc ký kết hợp đồng, các thỏa
thuận phải phù hợp với pháp luật và không được xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, của xã hội. Hợp đồng thương mại trái với nguyên tắc này sẽ không
được pháp luật công nhận, quyền lợi của các bên không được bảo vệ và thu
nhập phát sinh (nếu có) phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Đồng thời phát
sinh nhiệm vụ đối với các chủ thể cũng như người ký kết hợp đồng thương
mại bị coi là vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 127 BLDS, giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS thì vô hiệu. Các điều
kiện đó bao gồm: (1) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
(2) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội; (3) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch

trong trường hợp pháp luật có quy định.
Là một dạng của hợp đồng dân sự nói chung, hợp đồng trong hoạt động
thương mại cũng sẽ bị vô hiệu khi không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, các điều kiện có hiệu lực ở đây không chỉ
được quy định trong pháp luật dân sự mà còn được quy định tại các văn bản
pháp luật có liên quan tới hoạt động kinh doanh, thương mại như Luật
Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng…
1.2.2. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu
Phân loại là hoạt động cần thiết trong khoa học nghiên cứu nói chung,
nghiên cứu về hợp đồng thương mại nói riêng. Mỗi phương pháp phân loại


23

dựa trên những tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào mục đích của việc phân loại.
Có bốn cách phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu như sau:
Một là, căn cứ vào tính chất trái pháp luật của giao dịch, hợp đồng thương
mại vô hiệu được chia thành hai loại: hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu
tương đối. Đây là cách phân loại mang tính truyền thống và được áp dụng phổ
biến ở nhiều nước.
Các loại hợp đồng bị vô hiệu tuyệt đối:
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội (Điều 128 BLDS 2005);
- Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 129
BLDS 2005);
- Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo qui định bắt buộc của
pháp luật (Điều 134 BLDS 2005);
- Khi hợp đồng được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân sự

(Điều 130 BLDS 2005).
Các loại hợp đồng vô hiệu tương đối:
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 130 BLDS 2005)
- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 131 BLDS 2005)
- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132 BLDS 2005)
- Hợp đồng vô hiệu do người xác lập đủ năng lực hành vi dân sự nhưng
đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình (Điều 133 BLDS 2005)
Hai là, căn cứ vào mức độ của sự vô hiệu, hợp đồng vô hiệu được chia
thành hai loại: hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần. Đây
là cách phân loại phổ biến trong các chế định hợp đồng ở Việt Nam. Cách
phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định mức độ của hợp đồng khi bị
tuyên bố vô hiệu, khả năng khắc phục các khiếm khuyết của hợp đồng và
trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng. Tuy vậy, cách phân loại này cũng


24

có những điểm hạn chế, đó là, dù đều là vô hiệu toàn bộ hay từng phần song
về bản chất, mỗi trường hợp vi phạm là khác nhau nên việc đưa ra cách giải
quyết giống nhau đối với mỗi loại hợp đồng vô hiệu theo cách phân loại này
là chưa thuyết phục.
Trường hợp hợp đồng vô hiệu toàn phần do vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội; do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; do giả
tạo; do bị lừa dối, đe dọa; do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình. Trường hợp này toàn bộ nội dung của hợp đồng bị vô hiệu.
Trường hợp hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

Thứ ba, căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Dựa vào dấu hiệu
này có thể chia hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau:
- Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực
hành vi dân sự;
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội;
- Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể;
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức, nếu pháp luật có quy định về
hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc.
Thứ tư, căn cứ vào mức độ vượt quá phạm vi đại diện của người đại diện có:
- Hợp đồng vô hiệu do người đại diện xác lập vượt quá phạm vi đại diện.
Thường thì đây là hợp đồng được xác lập bởi người đại diện hợp pháp, nhưng
do người đại diện đã xác lập hợp đồng trên thực tế vượt quá phạm vi đại diện.
Người trực tiếp tham gia hợp đồng tuy có tư cách đại diện hợp pháp nhưng
nội dung hợp đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi vượt
quá giới hạn được ghi trong hợp đồng ủy quyền hoặc được quy định trong
loại đại diện tương ứng.
Hợp đồng được xác lập vượt quá phạm vi đại diện thì phần vượt quá phạm
vi đại diện đó bị vô hiệu, trừ trường hợp người được đại diện biết mà không
phản đối.


25

- Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền đại diện. Hợp
đồng vô hiệu do người trực tiếp giao kết không có tư cách đại diện hoặc tuy
có tư cách đại diện nhưng đã giao kết, thực hiện hợp đồng không thuộc công
việc mà họ được phép đại diện cũng bị xem là không có tư cách đại diện nếu
người đại diện đưa ra những tuyên bố ý chí trái với ý chí của người được đại
diện, làm những việc không thuộc đối tượng của quan hệ đại diện.
1.2.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu

a/ Khái niệm
Trong khoa học pháp lý cũng như luật thực định, thuật ngữ hậu quả pháp
lý được sử dụng rất rộng rãi. Tuy nhiên, định nghĩa của nó thì dường như
chưa được làm rõ. Khái niệm hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu đã
được sử dụng trong BLDS ở nước ta. LTM lại có cách tiếp cận khác, đó là
không sử dụng khái niệm hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu
mà quy định cụ thể các phương thức xử lý đối với hợp đồng thương mại vô
hiệu. Cách tiếp cận như trên của LTM dễ đưa đến một nhầm lẫn đó là coi các
khái niệm hậu quả pháp lý và xử lí hợp đồng thương mại vô hiệu là một. Vì
vậy, cách tiếp cận vấn đề này của BLDS là hợp lý hơn cả.6
Hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu có thể được hiểu là hệ
quả phát sinh theo quy định của pháp luật trong trường hợp hợp đồng thương
mại vô hiệu, mà theo đó xác định:
- Tình trạng pháp lý của các bên trong trường hợp này;
- Các chế tài pháp lý có thể được áp dụng;
- Phương thức xử lý giữa các bên và từ phía Nhà nước
Những hệ quả pháp lý này, phát sinh có thể do hành vi lừa dối, đe dọa đối
tác, không tuân theo những yêu cầu về hình thức, nội dung vi phạm điều cẩm
của pháp luật… Hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các
chủ thể tham gia giao kết, ảnh hưởng xấu trực tiếp đến xã hội.
6 Lê Thị Bích Thọ (2009), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu, Luận
án tiến sĩ luật học, Truờng đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr70.


×