Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn tội cưỡng đoạt tài sản trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.41 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ VĂN CHUNG

TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Cao Thị Oanh

HÀ NỘI - NĂM 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ VĂN CHUNG

TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng sự
Mã số: 60 38 01 04

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Cao Thị Oanh

HÀ NỘI - NĂM 2016


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Văn Chung

MỤC LỤC


4


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

5

CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH
SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC TA VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
12
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM.
12
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
15
1.2.1. Quy định của pháp luật về tội cưỡng đoạt tài sản giai đoạn từ tháng 8 năm 1945
đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
15
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội cưỡng đoạt tài sản
18
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội cưỡng đoạt tài sản
20
1.2.4. Quy định của pháp luật hình sự trong tình hình mới và sự ra đời của Bộ luật hình
sự 2015
25
CHƯƠNG 2 NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 2015

30
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TRƯỜNG HỢP PHẠM
TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN THUỘC CẤU THÀNH TỘI PHẠM CƠ BẢN
30
2.1.1. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản
30
2.1.2. Mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản
32
2.1.3. Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản
37
2.1.4. Mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản
38
2.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TRƯỜNG HỢP PHẠM
TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN THUỘC CẤU THÀNH TỘI PHẠM TĂNG NẶNG 41
2.2.1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự
1999
41
2.2.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 Bộ luật Hình sự 46
2.2.3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 Bộ luật Hình sự 48
2.3. PHÂN BIỆT TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.3.1. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp tài sản
2.3.2. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
2.3.3. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp giật tài sản

49
49
53
54



5

2.3.4. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
2.4. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN
2.4.1. Quy định mới của khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự 2015 so với khoản 2 Điều
135 Bộ luật hình sự 1999
2.4.2. Quy định mới của khoản 3 Điều 170 Bộ luật hình sự 2015 so với khoản 3 Điều
135 Bộ luật hình sự 1999
2.4.3. Quy định mới của khoản 4 Điều 170 Bộ luật hình sự 2015 so với khoản 4 Điều
135 Bộ luật hình sự 1999
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN
3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN Ở NƯỚC TA
3.1.1. Số liệu thống kê công tác xét xử tội cưỡng đoạt tài sản từ năm 2010 đến năm
2015.
3.1.2. Kết quả nghiên cứu cụ thể một số bản án xét xử về tội cưỡng đoạt tài sản

56
57
57
58
59

62
62
62
64


3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
77
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản
77
3.2.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của tội cưỡng đoạt tài
sản
82
KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
TNHS: Trách nhiệm hình sự

MỞ ĐẦU


7


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII vừa
qua đã đánh dấu những bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng đất
nước. “Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực
được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau
cao hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và
thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết
quả tích cực. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y
tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản
được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được
nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
được chú trọng và đạt kết quả quan trọng”1.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong xã hội vẫn tồn
tại và phát sinh những vấn đề tiêu cực, đe dọa sự ổn định về chính trị, kinh tế,
trật tự an toàn xã hội. Trên thực tế, các tội xâm phạm sở hữu luôn là vấn đề
nhức nhối, xảy ra với nhiều tình tiết phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại lớn
cho xã hội. Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, cưỡng đoạt tài sản là một
trong những hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội với diễn biến ngày
càng phức tạp về hình thức, thủ đoạn và mức độ hậu quả xảy ra gây tâm lý
hoang mang trong đại đa số bộ phận dân chúng, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật
1 Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XII


8


tự an toàn xã hội. Đối tượng của tội cưỡng đoạt tài sản quan hệ sở hữu và
nhân thân được pháp luật bảo vệ, người phạm tội thường là những đối tượng
côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật và đạo đức xã hội.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường với các quan hệ hợp đồng ngày càng
phát triển là môi trường thuận lợi cho tội cưỡng đoạt tài sản gia tăng cả số vụ,
số người phạm tội và tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm gây ra khó
khăn và thách thức không nhỏ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong việc phòng ngừa tội phạm và đấu tranh chống tội phạm,
bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội để góp
phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Mặc dù đã được các cơ quan có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục về
pháp luật, các Tòa án đã áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những
người có hành vi phạm tội để đấu tranh, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể
của các cơ quan có thẩm quyền, nên chưa được giải quyết một cách triệt để.
Thực tiễn xét xử cho thấy văn bản pháp luật để các Tòa án áp dụng trong việc
xét xử đối với loại tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây
ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra
truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh chống tội phạm,
gây ảnh hưởng đến việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm; gây tổn hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Còn có tình trạng giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng có cách hiểu khác nhau về việc định tội và định
khung hình phạt khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi cưỡng đoạt tài



9

sản. Đặc biệt, với quy định của tội cưỡng đoạt tài sản hiện nay, ranh giới để
phân định với các tội xâm phạm sở hữu khác như tội cướp tài sản, tội cướp
giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản còn chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến có trường hợp còn nhầm lẫn trong việc
xác định tội danh, áp dụng không đúng pháp luật.
Với mục đích nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề lý
luận về CTTP tội cưỡng đoạt tài sản, cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét
xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản để làm căn cứ đề xuất, kiến nghị tiếp tục
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội này tôi lựa chọn viết luận văn thạc
sĩ Luật học với đề tài: "Tội cưỡng đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam" là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về tội cưỡng đoạt tài
sản đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các
cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội; Khoa Luật - Đại học
quốc gia Hà Nội; Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số
giáo trình, sách chuyên khảo: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Chương
XX - Các tội xâm phạm sở hữu trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), Nxb Công an nhân dân (2014); GS.TS Lê Cảm (chủ biên) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm 2003 và
2007); GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001);
Bên cạnh đó, các vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên
cứu trong một số công trình nghiên cứu khoa học của Ths. Đinh Văn Quế Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần các tội phạm, Tập II:


10


Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006;
TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm phạm
quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; PGS.TS Phùng Thế Vắc (chủ
biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;
TS. Cao Thị Oanh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) Chương IV: Các tội phạm sở hữu, Nxb Giáo dục, 2010; ThS. Đinh Thế Hưng
và ThS. Trần Văn Biên, Bình luận Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Chương XIV: Các tội
xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động, 2010; PGS.TS Cao Thị Oanh (chủ biên),
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, Nxb Tư pháp,
2015.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan
như: TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1998; TS. Trương Quang Vinh, Các tội
xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, Tạp chí luật học, số
4/2000...
Các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên đã phân tích, đánh giá tội
cưỡng đoạt tài sản dưới góc độ pháp luật hình sự một cách khá cơ bản và đầy
đủ. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào chỉ nghiên cứu về tội
cưỡng đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự từ năm 1945 đến
Bộ luật hình sự năm 1999 về tội cưỡng đoạt tài sản.


11

- Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định Bộ luật hình sự năm

1999 về tội cưỡng đoạt tài sản
Do Bộ luật tố tụng năm 2015 đã được ban hành và chuẩn bị có hiệu lực
pháp luật, nên ngoài việc phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999,
luận văn còn nghiên cứu một số nội dung liên quan trong Bộ luật hình sự năm
2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về tội cưỡng đoạt tài sản dưới góc độ của pháp
luật hình sự trong thời điểm từ năm 1945 đến nay . Theo đó, tác giả đi sâu
phân tích các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của tội phạm này, đồng thời, tác giả
cũng đi sâu và phân tích thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản, từ đó tác giả
kiến nghị hướng hoàn thiện quy định của BLHS về tội phạm này.
4. Mục tiêu và các vấn đề luận văn nghiên cứu để đạt mục tiêu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề
pháp lý cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam và làm sáng tỏ các vấn đề như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý,
trách nhiệm hình sự. Từ đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong
công tác xử lý, để đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt
Nam về xử lý loại tội phạm này.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận văn phải trả lời được các câu
hỏi sau đây
Quy định của tội cưỡng đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam
qua các thời kỳ?


12

Các khái niệm, các dấu hiện pháp lý đặc trưng của tội cưỡng đoạt tài

sản theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 là gì? So sánh với quy định của
Bộ luật hình sự 2015?
Thực tiễn xét xử về tội cưỡng đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 trên địa
bàn cả nước ra sao?
Những vấn đề cần kiến nghị để hoàn thiện quy định của BLHS về tội
cưỡng đoạt tài sản trong giai đoạn hiện nay?
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, các quy định của BLHS
năm 1999, các kết quả, các luận điểm khoa học trong các công trình nghiên
cứu khoa học về lĩnh vực hình sự, tác giả đã sử dụng các phương pháp khác
nhau như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, lịch sử, thống
kê… để từ đó giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành
vi cưỡng đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam; từ số liệu thực
tiễn xét xử sơ thẩm từ năm 2011 – 2015 và các bản án hình sự cụ thể của một
số Tòa án luận văn nghiên cứu, phân tích và chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập
trong các quy định của pháp luật hiện hành; các thiếu sót trong quá trình áp
dụng các quy định đó để đưa ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Kiến
nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng quy
định của BLHS ở cả góc độ lập pháp và áp dụng pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận chứng khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt


13


Nam liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản và khái quát lịch sử pháp
luật hình sự nước ta về tội cưỡng đoạt tài sản
Chương 2: Những quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật hình
sự năm 1999 và một số quy định mới của Bộ luật hình sự 2015
Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của bộ luật hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản.

Chương 1
KHÁI NIỆM TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC TA VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN


14

1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.

Theo Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 thì tội phạm được định nghĩa
như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của
tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác

của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 BLHS 1999, nó
mang đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm nói chung, nhưng cũng có các đặc
điểm chung của loại tội phạm xâm phạm quyền sở hữu. Tội cưỡng đoạt tài
sản xâm phạm đến hai loại khách thể được luật hình sự bảo vệ là quyền nhân
thân và quyền sở hữu. Tuy nhiên, quan hệ xã hội mà tội cưỡng đoạt tài sản
xâm hại chủ yếu là quan hệ sở hữu, quan hệ nhân thân bị xâm hại ở mức độ ít
nguy hiểm hơn so với các tội khác như cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản. Quan
hệ sở hữu là quan hệ xã hội được Nhà nước quan tâm bảo vệ và được quy
định rõ ràng, cụ thể tại Điều 32 Hiến pháp 2013:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì
lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước


15

trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân
theo giá thị trường”. 2
Để hiểu rõ khái niệm của tội cưỡng đoạt tài sản tác giả đã nghiên cứu,
tìm hiểu các thuật ngữ pháp lý có liên quan như “chiếm đoạt”, “quản lý”,
“cưỡng đoạt”.
Dưới góc độ pháp luật hình sự, "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý
chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành
tài sản của mình3. Khái niệm "quản lý" có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và
theo dõi việc gì"4, "chủ tài sản" được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc

người được giao quản lý tài sản đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo quy
định của pháp luật được giao nhiệm vụ quản lý tài sản).
"Cưỡng đoạt", theo từ điển Tiếng Việt thì "cưỡng" là "bắt ép người
khác làm điều người ta không muốn làm"; "cưỡng đoạt" là "chiếm đoạt bằng
lối cưỡng bức"5; "cưỡng bức" là "dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác
vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được" 6
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về cơ bản, hầu hết các tác giả
đều có quan điểm thống nhất khi xác định khái niệm cưỡng đoạt tài sản.
Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà
Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2010 thì tội Cưỡng đoạt
tài sản được định nghĩa như sau:"Tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ
dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm
đoạt tài sản" 7

2 Quốc hội (2013) Hiến pháp, Hà Nội, Điều 32.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2011, tr.11.
4 Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5 Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
6 Nguyễn Quốc Hùng (1975), Hán Việt tân từ điển, Nhà sách khai trí, Sài Gòn.
7 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2011, tr.23.


16

Theo tác giả Đinh Văn Quế: “Cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm
cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài
sản cho người phạm tội”. Như vậy, hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ
đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm

chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác
uy hiếp tinh thần người khác nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không
phải là tội cưỡng đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể mà người có
hành vi phạm các tội như: Bức tử quy định tại Điều 100 Bộ luật Hình sự;
Cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em quy định tại các Điều 113, 114 Bộ luật
Hình sự; cưỡng ép hôn nhân quy định tại Điều 146 Bộ luật Hình sự”8.
Theo giáo trình Luật hình sự (Phần chung) của Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội 2005 "Cưỡng đoạt tài sản là việc người phạm tội với mục đích
chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc
thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu người quản lý tài sản hoặc người
khác có liên quan" 9
Tóm lại, tuy có nhiều cách viết khác nhau nhưng cưỡng đoạt tài sản đều
được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh
thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có
hành vi uy hiếp tinh thần của chủ tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản
bằng những thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho
người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.
Từ những phân tích trên, tác giả luận văn tiếp thu những nhân tố hợp lý
trong các khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản và những điểm rút ra từ kinh
nghiệm thực tế áp dụng áp luật xin đóng góp một khái niệm về tội cưỡng đoạt
8 Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm tập II, các tội xâm phạm sở
hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.121.
9 Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2005), Giáo trình Luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, tr.248.


17

tài sản như sau: Tội cưỡng đoạt tài sản là tội phạm được thực hiện bằng hành

vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu,
người quản lý tài sản do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi
luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

1.2.1. Quy định của pháp luật về tội cưỡng đoạt tài sản giai đoạn từ
tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
Cách mạng tháng 8 năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nước
ta, cuộc cách mạng đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến, đưa nước ta bước
đầu trở thành một nhà nước dân chủ, nhiệm vụ của chính quyền mới thành lập
là quản lý đất nước, quản lý xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, chống lại đế
quốc và bè lũ tay sai. Do vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa xã chú trọng cải cách hệ thống pháp luật bằng
việc ban hành các Sắc lệnh về quản lý nhà nước nói chung và các Sắc lệnh xử
lý tội phạm nói riêng, trong đó có xử lý các tội phạm xâm phạm sở hữu như:
Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá hủy công
sản; Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù lạm, biển thủ
công quỹ; muộn hơn có Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ
tướng Chính phủ về việc hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm xâm
phạm sở hữu như trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín. Tuy nhiên, khái niệm
tội cưỡng đoạt tài sản trong thời kỳ này chưa được xác định một cách cụ thể.
Hành vi khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản được đề cập đến trong
Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những âm mưu hoạt động phá hoại tài sản của
Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách,
kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa với đường lối xử lý tương tự tội cướp


18


tài sản và tội cướp giật tài sản, tuy nhiên cho đến lúc này, tội cưỡng đoạt tài
sản vẫn chưa được quy định thành một tội phạm cụ thể.
Đến 21/10/1970, Tội cưỡng đoạt tài sản mới được quy định là một tội
phạm cụ thể theo quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định
cụ thể về tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 9), như sau:
1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp
tinh thần người có trách nhiệm về tài sản xã hội chủ nghĩa nhằm chiếm
đoạt tài sản đó thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5
năm đến 15 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc
biệt10.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định về tội cưỡng đoạt tài sản riêng của công dân (Điều 7) như sau:
1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp
tinh thần người công dân nhằm chiếm đoạt tài sản riêng của người đó
thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2
năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

10 Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà
Nội.



19

b) Chiếm đoạt một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác 11
Với nội dung khẳng định nguyên tắc Nhà nước kiên quyết bảo vệ tài
sản xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo hộ tài sản riêng của công dân, chống lại
mọi hành vi xâm hại đến tài sản của Nhà nước cũng như tài sản của công dân,
hai Pháp lệnh đã giải quyết kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này trong điều kiện kinh tế xã hội những năm 1970.
Do bản chất nhà nước ta theo Hiến pháp 1959 là Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa, tài sản xã hội chủ nghĩa luôn được coi trọng và bảo vệ hơn tài
sản của cá nhân nên mức hình phạt khi cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
nặng hơn cưỡng đoạt tài sản riêng của công dân. Tuy nhiên, các khái niệm “số
lượng lớn”, “tài sản có giá trị đặc biệt” hay gây hậu quả nghiêm trọng khác”
được nêu ra trong hai Pháp lệnh lại không được hướng dẫn cụ thể, dẫn đến
việc còn khó khăn, không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Để phân biệt rõ ràng hơn tội cưỡng đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở
hữu khác như cướp tài sản, cướp giật tài sản ... từ đó áp dụng đúng đắn các
quy định của hai Pháp lệnh nói trên, ngày 09/12/1970, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã ban hành Chỉ thị số 185-CT/TW về tăng cường bảo vệ tài sản xã hội
chủ nghĩa. Theo Chỉ thị này, tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa được
hiểu như sau:
Cưỡng đoạt tài sản thông thường được hiểu là dùng mọi cách uy
hiếp về tinh thần, dọa nạt sẽ làm hại đến quyền lợi của người giữ tài sản
về mặt nhân thân, danh dự, tài sản... (như đòi phải giao tài sản nếu
không sẽ dùng bạo lực, sẽ tung tin xấu, sẽ tố cáo một hành vi phạm

11 Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Hà
Nội.



20

pháp nào đó...), khiến người này vì sợ một điều gì hay sẽ xảy ra cho
mình mà phải miễn cưỡng để cho lấy tài sản.
Mức uy hiếp cao nhất là "đe dọa dùng bạo lực" với đặc điểm
khác so với tội cướp là ở chỗ tinh chất ít mãnh liệt hơn nhiều vì kẻ
phạm tội không có ý định thực hiện ngay tức khắc lời đe dọa này:
người bị hại biết rằng có thể không đưa ngay tài sản mà không nguy hại
trực tiếp ngay đến tính mạng, sức khỏe của mình.
Trường hợp kẻ phạm tội dùng uy thế uy quyền thực sự của chức
vụ trong quan hệ đối với người giữ tài sản xã hội chủ nghĩa để đe dọa
mà chiếm đoạt tài sản là tình tiết tăng nặng chuyển khung (khoản 2
điểm b)12.
Như vậy, tội cưỡng đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước ta từ khá sớm, điều này thể
hiện phần nào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cưỡng đoạt tài sản so
với một số tội xâm phạm sở hữu khác được quy định sau.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội cưỡng đoạt tài
sản
Trong công tác phòng, chống tội phạm những văn bản quy phạm pháp
luật cũ đã không đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Việc pháp điển
hóa toàn bộ hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự là vấn đề cấp
bách được đặt ra để đảm bảo yêu cầu quản lý xã hội. Đảng và Nhà nước nhận
thức rõ chỉ có quản lý xã hội bằng pháp luật một cách thống nhất, đầy đủ,
toàn diện mới có thể đưa đất nước đi vào ổn định từ đó bảo vệ và từng bước
xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.

12 Đảng Lao động Việt Nam (1970), Chỉ thị số 185-CT/TW ngày 09/12/1970 của Ban Bí thư Trung ương về

tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.


21

Bộ luật hình sự năm 1985 được thông qua vào ngày 27/6/1985 tại kỳ
họp thứ IX, Quốc hội khóa VII và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 là lần pháp
điển hóa đầu tiên của pháp luật hình sự của nước ta. Bộ luật hình sự năm 1985
kế thừa và phát triển nội dung của các Sắc lệnh, Thông tư ... trước đó, đánh
dấu một bước tiến mới trong hoạt động lập pháp của nước ta. Đối với các tội
xâm phạm sở hữu, hầu hết các quy định của hai Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản riêng của công dân được Bộ luật hình sự 1985 kế thừa để xử lý các tội
xâm phạm sở hữu. Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 130 – Tội
cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và Điều 153 – Tội cưỡng đoạt tài sản của
công dân.
Điều 130 BLHS năm 1985 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa, như sau:
1- Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản xã hội chủ nghĩa nhằm
chiếm đoạt tài sản đó thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
từ ba năm đến mười hai năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm13
Điều 153 BLHS năm 1985 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản riêng của
công dân, như sau:


13 Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội, Điều 130


22

1- Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
từ hai năm đến mười năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác;
b) Tái phạm nguy hiểm. 14
Quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ khác quy định của hai
Pháp lệnh năm 1970 về mức hình phạt của tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa.
Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung vào 12/8/1991, ngày
22/12/1992 và ngày 10/5/1997 nhưng nội dung của tội cưỡng đoạt tài sản
không bị sửa đổi, bổ sung, điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng
và Nhà nước trong đường lối xử lý tội cưỡng đoạt tài sản trong thời kỳ này.
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội cưỡng đoạt tài
sản
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi
mới ở đất nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện
những thiếu sót sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động
trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và
vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Trên cơ sở Nghị quyết của

Đại hội, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới mọi mặt của đời sống xã
hội, đặc biệt là việc bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
14 Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội, Điều 153


23

hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, xóa bỏ nền kinh tế tập trung, bao
cấp và phương thức quản lý quan liêu, cào bằng, để từ đó làm cơ sở phấn đấu
xây dựng một đất nước công nghiệp, hiện đại và hội nhập.
Bên cạnh những lợi ích to lớn của việc chuyển đổi cơ chế, tình hình xã
hội lại nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp do ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế
thị trường. Bộ luật hình sự 1985 để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm
đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần nhưng vẫn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế như
kết cấu một số Chương, Điều chưa phù hợp, khung hình phạt quá rộng.... Do
vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 cần phải bổ sung, hoàn thiện một cách toàn
diện để phục vụ tốt hơn yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
trong tình hình mới.
Trong nền kinh tế thị trường với sự đa dạng các thành phần kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế đều tự do kinh doanh, cạnh tranh công bằng và bình
đẳng trước pháp luật. Chính vì vậy, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng Cộng sản và đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 ra đời khẳng định
chính sách phát triển kinh tế của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thể hiện quan điểm mới về cách thức quản lý nhà nước về kinh tế cũng như
quan điểm mới về vấn đề sở hữu tài sản. Theo đó, việc phân chia giữa tài sản
xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân của công dân phải được loại bỏ. Thêm
nữa, khi quy định nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều
hình thức đầu tư, góp vốn kinh doanh khi áp dụng quy định của Bộ luật hình
sự năm 1985 trong nhiều trường hợp rất khó xác định được chính xác quy
định cần áp dụng bởi không phải lúc nào có thể xác định được tài sản thuộc sở

hữu Nhà nước hay cá nhân.
Với những nguyên nhân trên, Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành
thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 vào ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ VI,
Quốc hội khóa X và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000. Bộ luật hình sự


24

năm 1999 đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan điểm đấu tranh, xử lý tội
phạm của nước ta, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của Đảng và nhân dân,
lần đầu tiên trong chính sách pháp luật của mình Nhà nước ta xóa bỏ ranh giới
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu công dân, thể hiện rõ ràng hơn quan điểm
của Hiến pháp 1992 là mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật,
mọi tài sản hợp pháp đều được Nhà nước công nhận và bảo vệ.
Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 BLHS năm 1999
1. Người nào thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có
thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản,
nếu bị kết án về tội cưỡng đoạt tài sản thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới
hai trăm triệu đồng;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới

năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười năm đến hai mươi năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;


25

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến
một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản 15
Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định khác Bộ luật hình sự năm
1985 về nội dung và cấu thành cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản, tuy nhiên về
hình phạt, Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 so với tội phạm quy định tại
Điều 130 Bộ luật hình sự 1985 là như nhau nhưng so với Điều 153 Bộ luật
hình sự 1985 thì nặng hơn (mức cao nhất là hai mươi năm tù, trong khi đó
Điều 153 là mười năm tù). Về cơ cấu điều luật, tội cưỡng đoạt tài sản theo
Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu thành 05 khoản (Điều 130 và
153 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 03 và 02 khoản)
Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 được hình thành trên cơ sở ghép lại
từ Điều 130 và 153 của Bộ luật hình sự năm 1985 và quy định cụ thể hơn về
các tình tiết định khung hình phạt đã giúp các cơ quan có thẩm quyền áp dụng
pháp luật dễ áp dụng hơn và đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Khác với các Pháp lệnh năm 1970 đã nêu ở phần trên, các tình tiết định
khung tăng nặng mang tính định tính như “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” đã
được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp

dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ
luật hình sự năm 1999.
Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001
15 Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội, Điều 135


×