Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc Cƣờng


HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kiều Anh


LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Luật Hà Nội và các thầy
cô giảng viên đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp em trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo Tiến sĩ Bùi
Ngọc Cường – người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành luận
văn này.

Nguyễn Thị Kiều Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

WTO

World Trade Organization, Tổ chức Thương mại Quốc tế

TPP

Trans-Pacific Partnership Agreement, Hiệp định đối tác
xuyên Thái bình dương

VMS-MobiFone

Vietnam Mobile Telecom Services Company, Công ty
Thông tin Di động Việt Nam

Bộ Thông tin và truyền thông

Bộ TT&TT

Cục quản lý cạnh tranh

Cục QLCT

Cạnh tranh không lành mạnh

CTKLM

3G

Third-generation technology, Công nghệ truyền thông thế
hệ thứ ba


4G

Fourth-generation, Công nghệ truyền thông không dây
thứ tư

Doanh nghiệp SMP

Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

Doanh nghiệp Non-SMP

Doanh nghiệp không thống lĩnh thị trường

VNPT

Vietnam Posts and Telecommunications Group, Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

VNPT-Vinaphone

Tổng công ty dịch vụ viễn thông

Viettel

Tập đoàn Viễn thông Quân đội

Gtel Mobie

Công ty cổ phần Viễn Thông Di Động Toàn Cầu


FPT

Công ty cổ phần FPT

CMC

Công ty cổ phần hạ tầng viễn thông CMC

NetNam

Công ty cổ phần NetNam

HTC

Công ty cổ phần HTC viễn thông quốc tế

SPT

Công ty cổ phần bưu chính viễn thông Sài Gòn

CCVN

Công ty cổ phần truyền thông quốc tế INCOM

GDS

Công ty cổ phần dịch vụ số liệu toàn cầu



DTS

Công ty cổ phần công nghệ truyền thông DTS

VTC

Công ty cổ phần viễn thông VTC

Thanh niên Net

Công ty cổ phần dịch vụ viễn thông Thanh niên Net

INCOM

Công ty cổ phần tư vấn và đầu tư viễn thông tin học

ODS

Công ty cổ phần dữ liệu trực tuyến ODS

Minh Tu

Công ty trách nhiệm hữu hạn viễn thông Minh Tú


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài .................................. 2
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài............................................ 3
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ............................................... 4
7. Cơ cấu luận văn ............................................................................................. 4
Chƣơng 1.TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ................................................................................. 5
1.1. Tổng quan về cạnh tranh không lành mạnh ............................................... 5
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh ............................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh ............................................ 9
1.1.3. Các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh ...................................... 11
1.2. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ............................................... 23
1.3. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật vể cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông .......................................... 25
1.4. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.............................. 28
Chƣơng 2.TỔNG QUAN THỊ TRƢỜNG VIỄN THÔNG VÀ THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM................... 33
2.1. Thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông..................................... 33
2.1.1. Đánh giá thị trường viễn thông ............................................................. 33
2.1.2. Tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông ở Việt
Nam. ................................................................................................................ 37
2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật chuyên ngành viễn thông về cạnh tranh
không lành mạnh. ............................................................................................ 43


2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
viễn thông ........................................................................................................ 46
2.3.1. Bù chéo gây cạnh tranh không lành mạnh. ........................................... 46
2.3.2. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá cước.......................... 50

2.3.3. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực khuyến mại..................... 55
2.3.4. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ....................... 62
2.4. Đánh giá ................................................................................................... 67
Chƣơng 3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẤY VÀ BẢO VỆ
CẠNH TRANH LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở
VIỆT NAM..................................................................................................... 73
3.1. Kiến nghị nhằm quản lý về quảng cáo trong lĩnh vực viễn thông ........... 73
3.2. Kiến nghị nhằm quản lý về khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông......... 74
3.2.1. Đề xuất quản lý khách hàng thường xuyên trong khuyến mại viễn thông
......................................................................................................................... 74
3.2.2. Phân biệt giữa khuyến mại viễn thông với tài trợ, các hoạt động từ thiện
tránh hành vi bù chéo trong doanh nghiệp viễn thông. ................................... 75
3.3. Kiến nghị nhằm quản lý về giá cước trong lĩnh vực viễn thông .............. 77
3.3.1. Quản lý giá cước đối với doanh nghiệp viễn thông không thuộc nhóm
doanh nghiệp thống lĩnh thị trường nhưng chiếm trên 15% thị phần. ............ 77
3.3.2. Đăng ký giá cước .................................................................................. 79
3.3.3. Đối với chương trình khuyến mại kết hợp nhiều hình thức khuyến mại
nhằm lách luật giảm giá cước. ........................................................................ 79
3.3.4. Tăng các hạn mức xử phạt giá cước tại Nghị định 174/2013/NĐ-CP .. 80
3.2. Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ viễn thông ở Việt Nam. ....................................................... 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển như vũ

bão của công nghệ thông tin, trong 10 năm trở lại đây ngành Viễn thông đã góp
phần không nhỏ vào sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Theo đánh giá của các
chuyên gia, hiện nay, Việt Nam là một trong những thị trường viễn thông có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới. Các dịch vụ viễn thông
không chỉ được phổ cập rộng rãi tới khắp mọi miền đất nước, mà còn thực sự tạo
điều kiện cho các ngành khác phát triển hơn. Tuy nhiên, cũng như hầu hết các
doanh nghiệp khác ở nước ta, mức độ sẵn sàng tham gia cạnh tranh và hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới của các doanh nghiệp viễn thông còn thấp.
Hiện nay, ngoài 2 doanh nghiệp viễn thông lớn trên thị trường là Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn viễn thông Quân đội (Viettel)
còn nhiều nhà khai thác viễn thông khác như: Gtel, Vishipel Telecom, Hanoi
Telecom.., đã tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ, khốc liệt. Chính sách tự do hóa
thị trường dịch vụ viễn thông đang đặt ra cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
viễn thông Việt Nam những thách thức to lớn - đó là cạnh tranh để tồn tại và phát
triển. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của viễn thông và tin học cho phép các
doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới vào khai thác nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu
ngày càng cao của xã hội. Điều đó làm cho yếu tố cạnh tranh trên thị trường dịch vụ
viễn thông càng thêm sôi động. Vấn đề cạnh tranh cần được các doanh nghiệp cùng
tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông coi trọng và hiểu rõ trong chiến lược phát
triển của mình.
Tuy nhiên, cũng như hầu hết các thị trường khác, do tính khốc liệt trong cạnh
tranh nhằm đảm bảo thị phần, doanh thu, thị trường viễn thông xuất hiện những
hành vi cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) ngày càng nhiều. Những
hành vi CTKLM giữa các doanh nghiệp đã xâm hại quyền tự do kinh doanh, gây
hậu quả xấu cho môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp khác và cho cả người tiêu
dùng.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển nhanh, mạnh mẽ của lĩnh vực
viễn thông, các quy định pháp lý của Nhà nước trở lên lạc hậu, mâu thuẫn và chồng
chéo với nhau, chưa bao quát được hết các vấn đề pháp sinh. Điều này gây khó
khăn cho cơ quan quản lý phát huy hết vai trò của mình trong việc chống lại các



2

hành vi CTKLM. Do vậy, pháp luật cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật viễn
thông nói chung cần phải liên tục điều chỉnh, cập nhật cho phù hợp, hạn chế sự
chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, theo kịp với tiến trình pháp triển, đảm bảo được
sự bình đẳng trong kinh doanh, sự cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong
lĩnh vực viễn thông.
Chính vì vậy, đề tài "Áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu và làm luận văn tốt
nghiệp bậc học thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cạnh tranh trong lĩnh vực Viễn thông đang là vấn đề nóng bỏng và được dư
luận quan tâm. Đã có nhiều bài báo, cũng như công trình nghiên cứu về vấn đề nay
nhưng chủ yếu đề cập đến việc thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung, hoặc đề
cập đến từng vấn đề về cạnh tranh, độc quyền trong kinh doanh dịch vụ viễn thông,
nhiều bài viết về một số hiện tượng, hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực viễn
thông nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về nội dung
cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp Viễn thông thể hiện tại pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh lĩnh vực Viễn thông.
Cho đến nay, đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu "Áp dụng pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam”. Để hoàn thành
đề tài này, tôi đã sưu tầm, tìm hiểu nhiều sách, báo, các bài viết trên mạng Internet,
các báo cáo thường niên của Cục quản lý cạnh tranh, Cục Viễn thông...
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích các quy định của pháp
luật cạnh tranh không lành mạnh và việc cơ quan Nhà nước áp dụng các quy định
đó trong lĩnh vực cung cấp thông tin dịch vụ Viễn thông ở Việt Nam (không phân
tích việc áp dụng pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ viễn thông). Đề tài

tập trung phân tích hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá, khuyến
mại, khoảng cáo, và hành vi bù chéo trong kinh doanh.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận nền tảng của thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Mọi vấn đề nghiên cứu luôn phải xem xét trong trạng thái vận
động biến đổi không ngừng, luôn đặt trong quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa
hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác. Các hiện tượng luôn được xem xét
trong cả quá trình từ sự hình thành đến sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau.


3

Một số phương pháp tiếp cận cụ thể được áp dụng như: phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích và phương pháp so sánh.
 Phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ những cơ sở lý luận về cạnh
tranh nói chung và CTKLM nói riêng; đánh giá được thực trạng CTKLM và
sự điều chỉnh pháp luật đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vưc viễn thông ở
Việt Nam.
 Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu rõ hơn những quy định của
pháp luật CTKLM trong lĩnh vực viễn thông so với nhu cầu thực tế.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp luật hiện
tại và dự báo xu hướng vận động của các quy định pháp luật về CTKLM trong lĩnh
vực viễn thông. Từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm xử lý hành vi
CTKLM, thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt
Nam. Việc phân tích, dự báo xu hướng vận động các quy định pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực viễn thông và các đề xuất kiến nghị phải đảm bảo yêu cầu trung
thực, khách quan và toàn diện và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Với mục đích trên, luận văn thực hiện một
số nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến cạnh tranh, CTKLM để làm
cơ sở nghiên cứu các phần tiếp theo của luận văn. Để thực hiện được nhiệm vụ này,
luận văn đã xây dựng các khái niệm khoa học về cạnh tranh không lành mạnh, đặc
điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Qua đó phân tích những đặc điểm và tìm ra mối liên hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng pháp luật cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam, pháp luật viễn thông quy định các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Với nhiệm vụ này, luận văn phân tích thị trường viễn
thông, các quy định của Luật cạnh tranh, Luật Viễn thông 2009 và các văn bản
hướng dẫn để phân tích và đánh giá những ví dụ cụ thể trong thực tiễn, trên cơ sở
đó tìm ra những điểm bất cập và hạn chế của cơ quan chuyên ngành.
- Trên cơ sở phân tích, so sánh, đánh giá đưa ra một số kiến nghị, giải pháp
nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông để phần
nào đó giúp ích cho việc hoàn thiện hơn pháp luật về cạnh tranh lành mạnh nói


4

chung và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông
nói riêng.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống những vấn đề lý luận
và thực tiễn về căn cứ xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học.
Luận văn đánh giá những bất cập, khó khăn của cơ quan quản lý chuyên
ngành khi áp dụng pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật viễn thông vào
việc xử lý vi phạm.
Luận văn cũng đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật viễn thông điều chỉnh về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
giải pháp thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp viễn

thông. Những đề xuất và giải pháp được nêu ra được đặt trong giải pháp tổng thể
pháp luật trong lĩnh vực viễn thông, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh
Chương 2: Tổng quan thị trƣờng viễn thông và áp dụng pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành
mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam


5

Chƣơng 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Tổng quan về cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh
Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các hình thái
kinh tế xã hội. Đã có thời kỳ, thị trường, cạnh tranh và lợi nhuận được coi như là
mặt trái gắn liền với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra khỏi công cuộc xây dựng thể chế
kinh tế thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Kết quả của thời kỳ này là kinh tế chậm phát
triển, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thị trường mở cửa, bước vào
nền kinh tế chuyển đổi, nền kinh tế Việt Nam thay đổi đáng kể, ghi nhận ở bước
chuyển mình mới về kinh tế, văn hóa, đời sống, xã hội. Việt Nam thực sự thực thi
những nguyên lý của cơ chế thị trường chưa từng được biết đến trong nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một động lực mới của
sự phát triển là cạnh tranh. Cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã
hội một diện mạo mới, linh hoạt, đa dạng, phong phú và ngày càng phát triển, đồng
thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội mà trước đây người ta chỉ tìm thấy trong
sách vở, như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì
vậy, cạnh tranh được coi như là một động lực quan trọng cần thiết của sự phát triển.
Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, đến nay đã có 15.563.636
doanh nghiệp được thành lập, kinh doanh các ngành nghề đa dạng, trong các lĩnh
vực khác nhau. Vì vậy, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh cùng
loại lại vô cùng quyết liệt, nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, tranh
giành các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Áp lực về
cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp để nâng cao năng suất lao
động trong doanh nghiệp, đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng, giá cả hợp lý.
Tuy nhiên, cũng vì vậy mà các doanh nghiệp sử dụng những hành vi trái ngược với
đạo đức kinh doanh, gây ảnh hưởng quyền tự do kinh doanh trên thị trường.
Thuật ngữ cạnh tranh lành mạnh (CTLM) và cạnh tranh không lành mạnh
(CTKLM) là một trong những thuật ngữ được sử dụng để biểu thị tính cạnh tranh
trên thị trường ở khía cạnh đạo đức trong kinh doanh của chủ thể tham gia kinh
doanh trên thị trường. Do ra đời từ bản tính hám lợi và ganh đua của con người
trong kinh doanh, cạnh tranh luôn có tính hai mặt. Nếu cạnh tranh lành mạnh là biểu


6

hiện của mặt tích cực của cạnh tranh trong kinh doanh, thì cạnh tranh không lành
mạnh là biểu hiện mặt tiêu cực, mặt trái của cạnh tranh. Trong khoa học pháp lý,
người ta chưa có được bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh
không lành mạnh. Xuất phát từ mặt tích cực của cạnh tranh, các nhà khoa học cũng
đã có sự thống nhất khi đưa ra những đặc trưng của cạnh tranh lành mạnh như sau:
– Cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của doanh nghiệp;

– Có mục đích thu hút khách hàng;
– Không trái pháp luật và tập quán kinh doanh lành mạnh
Do vậy, cạnh tranh lành mạnh đem lại cho người tiêu dùng chất lượng sản
phẩm ngày càng cao, sự đa dạng sản phẩm theo nhu cầu, giá cả hợp lý; đem lại cho
đời sống kinh tế -xã hội những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật, sự hợp lý
trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế như: vốn, lao động, nguyên liệu. Đối với
doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh sẽ là trọng tài công bằng để lựa chọn những
nhà kinh doanh có đủ năng lực, đủ bản lĩnh để tồn tại và kinh doanh hiệu quả.
Xuất phát từ góc độ tích cực cạnh tranh đem lại các lợi ích cho xã hội, cho
người tiêu dùng, cho doanh nghiệp. Song, ở chừng mực nào đó, khi nhu cầu lợi
nhuận thúc giục và cám dỗ con người đến với những thủ đoạn thái quá trong cạnh
tranh, thì các hành vi cạnh tranh ấy trở thành nên tiêu cực, mù quáng, là nỗi ám ảnh
và có thể gây ra nhiều hậu quả bất lợi cho sự phát triển, xâm hại lợi ích chính đáng
của các doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng. Những vụ việc thực tế, cạnh tranh
không lành mạnh đều thể hiện bản chất chung theo đó doanh nghiệp toan tính đạt
được thành công trên thị trường không dựa trên nỗ lực của bản thân cải thiện chất
lượng, giá cả của sản phẩm, mà bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm
người khác hoặc tác động sai trái lên khách hàng.
Có thể nói hành vi CTKLM là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục
đích cạnh tranh của chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ
không phải là bất hợp pháp) mà mục tiêu của nó là gây cho một hay các đối thủ
cạnh tranh sự bất lợi hay thiệt hại trong hoạt động kinh doanh.
Ngày nay, khi đời sống nhân dân phát triển, nhu cầu tiêu dùng tăng cao thì
mức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng lớn. Trên thị trường, các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh diễn ra càng nhiều với mức độ, tính chất, hình thức ngày
càng đa dạng và tinh vi. Do vậy, một mặt, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo
ra môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp; Mặt khác, còn cần ngăn
chặn việc các doanh nghiệp tạo lợi thế cho mình một cách không chính đáng trước



7

các đối thủ bằng bất kỳ thủ đoạn nào. Để đảm bảo những lợi ích tích cực, hoạt động
cạnh tranh cần được duy trì trong khuôn khổ lành mạnh và tuân theo những nguyên
tắc nhất định.
Định nghĩa CTKLM được thừa nhận rỗng rãi nhất hiện nay quy định tại Điều
10 Bis : “bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với các hoạt động thực tiễn, không
trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh”.
Theo định nghĩa này, có thể thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính
lành mạnh hoặc không lành mạnh của hành vi cạnh tranh là: “các thông lệ trung
thực và thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại”1. Đây là tiêu chí mở, ở
mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội và lịch sử của quốc gia đó. Trong mỗi ngành sản xuất, mỗi loại hình kinh doanh,
mỗi thị trường sản phẩm, mỗi giai đoạn phát triển, cũng có thể có những thông lệ
khác nhau có thẻ được coi là trung thực, thiện chí. Thực tiễn lập pháp ở nhiều quốc
gia đặt ra nguyên tắc đánh giá tính lành mạnh hoặc không lành mạnh của hành vi
cạnh tranh, tại Bỉ và Luxembourg là “thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ba
Nha và Thụy Sỹ là “nguyên tác ngay tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng
đắn”, tại Đức, huy lạp và Ba Lan là “ đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ được
xác định từ nguồn án lệ là “nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc
“đạo đức thị trường”.
Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật các nước đều không thể đưa ra được khái
niệm cạnh tranh không lành mạnh có thể bao quát được mọi biểu hiện trên thực tế.
Do đó, nếu có đưa ra khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật của các
nước cũng phải kèm theo các quy định liệt kê từng hành vi cụ thể. Như tại Khoản 3
Điều 10 Bis Công ước Paris nêu ra danh sách không đầy đủ bao gồm ba hình thức
cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như sau:
“- Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ
sở, hàng hos hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh.

- Những nguyên tắc sai trái trong công việc kinh doanh nhằm mất uy tín của
cơ sở, hàng hóa hay hoạt động kinh doanh thương mại của đối thủ cạnh
tranh

1

Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb Công An Nhân Dân, 2014, tr.288


8

- Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lựa
dối công chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục
đích hoặc số lượng của hàng hóa”.
Lý giải về điều này, Phó Giáo sư Nguyễn Như Phát cho rằng: “sức sáng tạo
bất tận của các nhà kinh doanh đã làm cho phạm vi của hành vi không lành mạnh
luôn thay đổi bằng sự xuất hiện của những thủ đoạn bất chính mới”. Do đó, pháp
luật với tính ổn định tương đối sẽ mau trở thành lỗi thời trước thực tế sinh động của
thị trường.
Tại Khoản 4 Điều 3, Luật cạnh tranh 2004, định nghĩa về cạnh tranh không
lành mạnh như sau:
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”
Đĩnh nghĩa về CTKLM theo pháp luật Việt Nam cũng được xác định trên
nguyên tắc: “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”, quy định này tương
tự với định nghĩa của Điều 10 Bis Công ước Paris. Cùng với nguyên tắc định tính
về CTKLM Luật cạnh tranh cũng đưa ra danh sách các hành vi CTKLM bị cấm tại
Điều 39, LCT 2004 bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh;

ép buộc trong kinh doanh của doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp
bất chính.
Điểm đặc biệt, đáng được ghi nhận tại Khoản 10 Điều 39 Luật cạnh tranh
2004quy định: “Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí các
định tại Khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định”. Xuất phát từ sự vận
động không ngừng nghỉ của xã hội, sự biến đổi của cung – cầu thị trường, pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh khó thể bao quát, đánh giá đầy đủ các hành vi thị
trường. Do vậy, bên cạnh những hành vi CTKLM đã được định danh, nhà làm luật
không loại trừ khả năng thực tiễn thương mại xuất hiện các hành vi CTKLM mới,
đòi hỏi pháp luật phải có biện pháp ngăn chặn, xử lý phù hợp. Bên cạnh đó, Luật
cạnh tranh Việt Nam chỉ ghi nhận các dạng hành vi mới này tại văn bản pháp luật
do Chính phủ ban hành, trước khi tiến hành xử lý. Nếu so với pháp luật các nước
trên thế giới, cho phép áp dụng các nguyên tắc, tập quán và án lệ, để kết luận ngay


9

hành vi có phải là CTKLM hay không thì ở Việt Nam tập quán và án lệ không được
áp dụng. Quy định này phần nào khiến việc áp dụng thực thi pháp luật về CTKLM
tại Việt Nam thêm phần khó khăn. Lý do chính dẫn đến tập quán và án lệ không
được coi là cơ sở xác định hành vi cạnh tranh là:
 Thứ nhất, nền kinh tế thị trường Việt Nam mới hình thành, quan hệ kinh
doanh tồn tại chưa đủ thời gian đẻ trở thành tập quán, được chấp nhận rộng rãi.
Tầng lớp thương nhân chưa đủ đông, mạnh để có thể đặt ra những tiêu chuẩn chung,
những quy tắc đạo đức cho một ngành kinh doanh.
 Thứ hai, pháp luật Việt Nam không thừa nhận án lệ. Các cơ quan tài phán do
chỉ được áp dụng các quy định mang tính nguyên tắc như quy định về chuẩn mực
đạo đức kinh doanh, căn cứ quy định hành vi CTKLM tại các văn bản pháp luật do

Chính phủ ban hành, nên đã phần nào hạn chế vai trò và tính chủ động khi giả quyết
các vụ việc. Bên cạnh đó, do những hạn chế về hiểu biết thực tế nên cơ quan công
quyền cũng không thể thay cho thương nhân đặt ra các quy tắc đạo đức trong một
ngành kinh doanh cụ thể.
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh
Tính không lành mạnh của các hành vi cạnh tranh lệ thuộc vào nhiều yếu tố
của quan hệ thị trường và luôn được điều chỉnh bằng phương thức của luật tư. Tức
là, người bị ảnh hưởng, bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại mà từ họ không quyết
định nhờ đế sự can thiệp của pháp luật thì pháp luật và Tòa án chưa thể vào cuộc.
Theo quy định Luật canh tranh Việt Nam, cạnh tranh không lành mạnh có những
đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các
chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận.
Chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là các doanh nghiệp tham gia hoạt động
kinh doanh trên thị trường. Khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận
một cách thường xuyên, liên tục xảy ra trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, mọi công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, pháp luật cạnh
tranh có thể áp dụng với cả hành vi của nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức,
hiệp hội và các cá nhân hành nghề tự do (bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư...).
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính đối lập, đi
ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, có thể hiểu là những


10

quy tắc xử sự chung được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh
trên thị trường.
Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp
cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghiệp khác12. Để

thu hút được lợi nhuận doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối thủ hoạt động
trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm dành giật, thu hút khách hàng về phía mình. Do
vậy, việc các doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh đi ngược lại thông lệ,
chuẩn mực đạo đức kinh doanh được coi là yếu tố chủ quan của bên thực hiện hành
vi. Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh luôn gắn với lỗi cố ý của bên vi phạm,
mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đạt ra đối với hoạt
động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm.
Các hành vi CTKLM diễn ra với nhiều ngành, lĩnh lực khác nhau của nền
kinh tế, với nhiều hình thức biểu hiện ngày càng đa dạng, tinh vi, gây khó khăn cho
doanh nghiệp và nền kinh tế. Do đó việc xác định một hành vi là không lành mạnh
tương đối phức tạp và cần phải dựa trên hai căn cứ chính. Một là, căn cứ vào tập
quán kinh doanh thông thường, tập quán này đã được thừa nhận rộng rãi trong đời
sống thị trường. Hai là, căn cứ vào luật định là những tiêu chuẩn đã được pháp luật
quy định cụ thể, khi hành vi cạnh tranh đi trái với quy định của pháp luật sẽ bị coi là
không lành manh.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam mới hình thành, các thông lệ,
tập quán thương mại tại Việt Nam chưa đủ thời gian để tạo thành các chuẩn mực
đạo đức kinh doanh được các tổ chức, cá nhân thừa nhận rộng rãi và tự nguyện thực
hiện như những quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc. Vì vậy, để đánh giá tính lành
mạnh của hành vi cạnh tranh thường dựa trên một số nguyên tắc được khẳng định
trong pháp luật và thực tiễn áp dụng trong giao dịch dân sự, thương mại được quy
định tại văn bản luật khác như Bộ luật Dân sự 2014, Luật doanh nghiệp 2014... Có
thể kể các nguyên tắc đó như: trung thực, thiện chí, tự nguyện, hợp tác, cẩn trọng,
mẫn cán...
Thứ ba, hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn
chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho đối tượng khác.
Đối tượng chịu thiệt hại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cũng là
đối tượng bảo vệ của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh đó là hai nhóm cơ bản:
1. Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb Công An Nhân Dân, 2014, tr.290



11

doanh nghiệp và người tiêu dùng. Nhóm doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
bi phạm. Đối với người tiêu dùng chịu thiệt hại được xác định: không phải số đông
người tiêu dùng, mà chỉ bao gồm các đối tượng người tiêu dùng có nhu cầu và khả
năng tiêu thị hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh.
Bên cạnh đó, Luật cạnh tranh Việt Nam có đưa thêm một đối tượng bị câm
hại là Nhà nước. Tuy nhiên, có thể thấy, nhóm đối thượng này không mang tính tiêu
biểu, không phổ biến trong quy định về cạnh tranh không lành mạnh của nhiều quốc
gia.
1.1.3. Các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định tại Điều 39 Luât cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm những hành vi sau:
1.1.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh đầu tiên được
quy định tại Điều 39 LCT 2004. Đây là hành vi cạnh tranh cơ bản tạo nền tảng ra
đời cho pháp luật về cạnh tranh và đã trải qua nhiều phát triển thay đổi với nhiều
học thuyết pháp lý khác nhau. Đồng thời phản ánh mối quan hệ bổ sung giữa pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật sở hữu trí tuệ.
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn được hiểu là những chỉ dẫn thương mại liên quan đến
đặc tính để nhận biết hàng hóa dịch vụ. Những đặc tính nhận biết này là tổng thể
các dấu hiệu, đặc điểm gắn với hàng hóa, dịch vụ hay hoạt động của doanh nghiệp
nhất định, được hình thành và trải qua thời gian dài doanh nghiệp sử dụng, đầu tư,
quảng bá lâu dài trên thị trường và trở nên quen thuộc với khách hàng, trở thành
những yếu tố để khách hàng nhận biết về một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định hay
về nhà cung cấp, dịch vụ đó. Các dấu hiệu này có thể là tên gọi, hình ảnh, hiện
tượng, thiết kế... gắn với hàng hoá, dịch vụ và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.

Luật cạnh tranh 2004 và Luật sở hữu trí tuệ 2005 đều chưa làm rõ được khái
niệm cơ bản về chỉ dẫn thương mại mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là chỉ dẫn
thương mại. Theo Điều 40 Luật cạnh tranh 2004, chỉ dẫn thương mại có thể bao
gồm: “Tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ
dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ” và tại Khoản 2 Điều
130 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông
tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương


12

mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì
của hàng hoá, nhãn hàng hoá”. Khái niệm chỉ dẫn gây nhầm lẫn và chỉ dẫn thương
mại được hiểu như nhau, trong đó là sự liệt kê các đối tượng để nhận diện thương
nhân, nhận diện nguồn gốc sản phẩm. Các đối tượng quan trọng, dễ nhận biết nhất
như nhãn hiệu, tên thương mại hay chỉ dẫn địa lý... được quy định cụ thể và bảo hộ
bằng pháp luật sở hữu trí tuệ. Còn các đối tượng còn lại, do tính chất nhận diện
không rõ ràng được bảo hộ bằng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh.
Vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh đối với chỉ dẫn gây nhầm lẫn là
hành vi sử dụng những dấu hiệu, đặc điểm tương tự với chỉ dẫn thương mại được
doanh nghiệp khác đã sử dụng hợp pháp. Việc doanh nghiệp vi phạm sử dụng chỉ
dẫn thương mại đã được doanh nghiệp khác sử dụng hợp pháp không thể được coi
là chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp vi phạm. Điều 40 Luật cạnh tranh 2004
cấm hai dạng hành vi là: “sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn” và “kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn”. Và chủ thể thực hiện hai dạng hành
vi này là chủ thể sản xuất, cung ứng dịch vụ và chủ thể phân phối, lưu thông hàng
hóa dịch vụ. Hai chủ thể kinh doanh đã cố tình sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn để
làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa dịch vụ nhằm mục đích kinh
doanh không lành mạnh. Việc sử dụng những chỉ dẫn gây nhầm lẫn không chỉ xâm
phạm lợi ích của người tiêu dùng mà còn có thể xâm phạm đến lợi ích của đối thủ

cạnh tranh.
Cần lưu ý rằng, những chỉ dẫn thương mại mà có thể vị xâm hại hay tạo sự
nhầm lẫn phải là những chỉ dẫn hợp pháp, nghĩa là đã được đăng ký và bảo hộ. Việc
đưa thông báo dối trá về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, nhái lại nhãn hiệu, kiểu
dáng của những hàng hóa chưa đăng ký bảo hộ là không trái pháp luật. Do đó, pháp
luật chỉ cấm những hành vi có chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn khi nguồn gốc sản
phẩm chính hiệu là có thật, đã đăng ký bảo hộ và hành vi đó phải nhằm mục đích
cạnh tranh.
1.1.3.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Trong hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều có những
thông tin, bí mật kinh doanh cần được lưu giữ, bảo mật như danh sách khách hàng,
bảng giá sản phẩm, quy trình sản xuất.... Tại Khoản 10 Điều 3 Luật cạnh tranh
2004, định nghĩa bí mật kinh doanh là thông tin có đủ các điều kiện:
“a) Không phải là hiểu biết thông thường;


13

b) Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho
người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không
sử dụng thông tin đó;
c) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó
không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được”.
Khái niệm bí mật kinh doanh có nội hàm khá rộng và không chỉ là những đối
tượng của sở hữu công nghiệp. Bao gồm cả những thông tin nhạy cảm về thị
trường, danh sách khách hàng, bản thiết kế máy, hồ sơ thầu, đều là những thông tin
được doanh nghiệp bảo mật và tránh rò rỉ ra bên ngoài . Bí mật kinh doanh được coi
là một trong những công cụ, phương tiên nhằm bảo vệ lợi ích và bảo đảm thành
công của doanh nghiệp. Chính vì vậy, đây cũng là đối tượng mà các đối thủ cạnh
tranh luôn tò mò và muốn chiếm đoạt. Được coi là tài sản trí tuệ, bí mật kinh doanh

cần phải được pháp luật bảo vệ. Bí mật kinh doanh được bảo hộ bởi pháp luật về sở
hữu trí tuệ và pháp luật về cạnh tranh.
Luật cạnh tranh 2004 và Luật sở hữu trí tuệ 2005 gần như đồng nhất trong
việc định dạng các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, cụ thể tại Điều 41 Luật
cạnh tranh 2004 quy định các hành vi doanh nghiệp bị cấm như sau:
“1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại
các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
2. Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép
của chủ sở hữu bí mật kinh doanh;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có
nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh
doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
4. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi
người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm
thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ
quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin
cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.”
Vì giá trị khai thác bí mật kinh doanh là vô cùng lớn, ảnh hưởng đến sự pháp
triển, suy thịnh của doanh nghiệp, nên áp dụng quy định chống xâm phạm bí mật
kinh doanh theo pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cần kết hợp với cơ chế
bồi thường thiệt hại. Do tính chất phức tạp trong việc áp dụng quy định này, hiện


14

nay chưa có vụ việc xâm phạm bí mật kinh doanh nào được ghi nhận và xử lý theo
pháp luật cạnh tranh cũng như pháp luật sở hữu trí tuệ.
1.1.3.3. Ép buộc trong kinh doanh
Trong nội hàm của tự do kinh doanh, mọi khách hàng đều được tự do trong
việc hình thành và tuyên bố ý chí (chào hàng và chấp nhận mua hàng). Doanh

nghiệp bị coi là có xử sự không lành mạnh khi họ dồn khách hàng vào tình thế bắt
buộc phải mua hoặc không được phép mua hàng hóa mà không có cách lựa chọn
nào khác. Hiện nay diễn ra khá phổ biến và được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Dưới đây là ví dụ tiêu biểu:
Năm 2006, Cục quản lý cạnh tranh ghi nhận một trường hợp ép buộc trong
kinh doanh đối với doanh nghiệp viễn thông. Theo thông tin, doanh nghiệp viễn
thông này đã ra công văn yêu cầu tất cả các nhân viên của mình đang sử dụng các
dịch vụ viễn thông của đơn vị khác phải chuyển sang sử dụng dịch vụ viễn thông
của doanh nghiệp này và đây là cơ sở xem xét, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng trong
công tác cán bộ. Nếu không sử dụng dịch vụ viễn thông đó thì nhân viên đó bị đánh
giá là thiếu tinh thần trách nhiệm.
Ở vụ việc này, hành vi ép buộc được thực hiện thông qua mệnh lệnh hành
chính từ người sử dụng lao động. Người lao động hoàn toàn có quyền tự do trong
việc lựa chọn dịch vụ viễn thông tốt, phù hợp với nhu cầu của bản thân họ. Việc ép
buộc sử dụng dịch vụ, ép buộc họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch đối
thủ cạnh tranh đã đi ra ngoài phạm vi quan hệ lao động và cấu thành một hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và bị pháp luật nghiêm cấm. Tuy nhiên, hành vi này đã
chấm dứt sau một thời gian ngắn, chưa gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và cơ
quan cạnh tranh đã không tiến hành điều tra, xử lý vi phạm.
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh nghiêm cấm hành vi ép buộc trong
kinh doanh cụ thể tại Điều 42 Luật cạnh tranh 2004 như sau:
“Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh
nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc
ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó”.
Theo như quy định của Điều này, pháp luật cấm những hành vi “đe dọa hoặc
cưỡng ép” đối với khách hàng hay đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Hành
vi đe dọa có thể thực hiện bằng lời nói hoặc hành động. Bằng việc làm đó khiến cho
người bị đe dọa ý thức được hậu quả thiệt hại có thể xảy ra mà buộc phải theo ý
muốn của người đe dọa nhằm tránh thiệt hại. Cưỡng ép cũng được coi là hành vi



15

dành giật khách hàng bất chính. Cưỡng ép được hiểu là các biện pháp tạo áp lực,
khiến cho đối tượng bị hạn chế tự do ý chí và phải hành động theo mong muốn của
bên thực hiện hành vi. Các áp lực này có thể xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế, mệnh
lệnh hành chính hay quan hệ xã hội. Hành vi này bị coi là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nếu việc gây áp lực này không hợp lý, không phù hợp với “chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh” nhằm lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp
khác một cách bất hợp pháp.
Tuy nhiên quy định trên còn khá chung chung, mà thực tế thì hành vi ép
buộc trong kinh doanh được thực hiện dưới hình thức vô cùng tinh vi mà pháp luật
chưa thể quy định được rõ ràng các hành vi cưỡng ép, đe dọa cũng như chưa bao
quát hết các trường hợp xảy ra trong thực tiễn.
1.1.3.4. Gièm pha trong kinh doanh
Trong cuộc sống hàng ngày và quan hệ giữa con người với nhau cũng như
với xã hội nói chung, việc đưa tin thất thiệt hoặc nói xấu người khác là điều không
thể tránh khỏi. Vấn đề này thuộc về đạo đức, lối sống và thuộc về pháp luật mỗi
quốc gia. Để chống lại cách xử sự này, pháp luật Dân sự mỗi quốc gia đều có những
quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự và uy tín của con người, tổ chức, pháp
nhân, thể nhân (bao gồm cả các thương gia). Bộ luật Dân sự 2014, Luật thương mại
2005 và Luật cạnh tranh 2004 có các quy định riêng cụ thể dành cho các thương
nhân với tư cách là các đối thủ cạnh tranh của nhau trên thương trường.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp sử dụng các thủ thuật dưới hình thức tinh vi và
không lành mạnh để gièm pha hoặc bôi nhọ đối thủ cạnh tranh để làm tổn hại đến
lợi ích (vật chất và phi vật chất) nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Mọi hành
vi dù là trực tiếp hay gián tiếp gây ảnh hưởng đến uy tín đưa ra thông tin không
trung thực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác được coi là hành vi gièm pha doanh nghiệp khác. Đối
tượng cụ thể mà đối thủ cạnh tranh hướng đến như: chất lượng sản phẩm, cách thức

bán hàng, tiềm lực kinh tế-tài chính, lực lượng lao động hoặc ban lãnh đạo doanh
nghiệp...
Để bảo đảm cho các hoạt động cạnh tranh diễn ra một cách trung thực, chân
chính theo nguyên tắc hiệu quả pháp luật cạnh tranh không lành mạnh nghiêm cấm
hành động gièm pha của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh cụ thể tại Điều 43
Luật cạnh tranh 2004 quy định: “Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác
bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh


16

hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đó”.
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh cấm và tác động đến những hành vi
nói xấu, bôi nhọ doanh nghiệp khác khi hành vi đó được thực hiện bởi đối thủ cạnh
tranh, vì mục đích cạnh tranh và cạnh tranh trong cùng một thị trường hàng hóa, sản
phẩm. Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp không nhất thiết phải trực tiếp hành
động nói xấu, gièm pha mà có thể thông tin gián tiếp qua một bên thứ ba đến khách
hàng. Việc doanh nghiệp sử dụng báo chí như là công cụ để thực hiện hành vi bôi
nhọ, hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh là một ví dụ điển hình về hành vi
CTKLM. Tuy nhiên trong trường hợp doanh nghiệp gửi thông tin dưới hình thức
khiếu nại, tố cáo hay khởi kiện đối thủ cạnh tranh tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyển, dù nội dung thông tin sai lệch thì hành vi của doanh nghiệp không bị coi là
cạnh tranh không lành mạnh, vì cơ quan xử lý không có chức năng chuyển thông tin
đến khách hàng.
Có thể thấy, hành vi gièm pha doanh nghiệp được quy định trong Luật cạnh
tranh 2004 là khá rõ ràng nhưng trên thực tế để hiểu được như thế nào là “gièm
pha” thì rất khó và cũng không dễ dàng phát hiện nguồn gốc các tin tức thất thiệt
trên thị trường. Ví dụ, trường hợp doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng thông tin
tiêu cực, tuy nhiên thông tin đó là có thật về đối thủ cạnh tranh để hạ uy tín (do đã

có quyết định xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Vậy trường hợp
này pháp luật điều chỉnh như thế nào?
1.1.3.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Tại Điều 44 Luật cạnh tranh 2004 quy định: “Cấm doanh nghiệp gây rối
hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc
gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”.
Theo Luật, các hành vi dù trực tiếp hay gián tiếp làm cản trở hay gián đoạn
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được gọi là hành vi gây rối loạn hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng như các loại hành vi không lành mạnh khác,
chỉ khi hoạt động gây cản trở, gián đoạn hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp
thực hiện, bất luận là trực tiếp hay gián tiếp, nhằm vào đối thủ cạnh tranh của mình
mới được coi là biểu hiện của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong hoạt
động kinh doanh, cách thức kinh doanh của doanh nghiệp này đều được coi là hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Như vậy, mọi hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp dù hoàn toàn hợp pháp hoặc chính đáng đều có khả năng cản trở, ảnh hưởng


17

xấu lên hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Do đó, để đánh giá hành vi
“làm cản trở hay gián đoạn” chúng ta lại phải xem xét đến tiêu chí về tính “trung
thực”, “thiện chí”, cùng các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh. Vì
vậy, điều khoản này có thể được coi như một điều khoản bổ sung, thay thế trong
những trường hợp không thể áp dụng một quy định cụ thể khác của pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh để giải quyết vụ việc. Để áp dụng điều khoản này, vụ
việc cần đáp ứng những điều kiện sau:


Giữa hai bên tồn tại quan hệ cạnh tranh;




Hành vi cạnh tranh thể hiện sự không trung thực, không thiện chí, đi

ngược lại thông lệ, chuẩn mực về đạo đức kinh doanh;

Hành vi vi phạm không bị điều chỉnh bởi một quy định khác của
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cũng như các văn bản pháp luật khác (đặc
biệt lưu ý khi hành vi gây rối, cản trở có thể bị xử lý theo pháp luật hành chính hay
hình sự).
1.1.3.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 quy định: “Quảng cáo là việc sử
dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá
nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính
sách xã hội; thông tin cá nhân”.
Xuất phát từ lợi ích, quảng cáo là hành vi không thể thiếu của mọi doanh
nghiệp khi tham gia vào cạnh tranh. Cách tốt nhất để hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp mình sớm được người tiêu dùng biết đến, là sử dụng quảng cáo. Doanh
nghiệp có quyền quảng cáo để giới thiệu, khuếch trương về hàng hóa, dịch vụ của
mình. Với bản chất là quá trình thông tin có ý nghĩa lớn trong định hướng hành vi
mua sắm và sử dụng dịch vụ của khách hàng, quảng cáo là phương pháp quan trọng
giúp doanh nghiệp quảng bá sản phẩm của mình, cạnh tranh giành thị phần trên thị
trường3. Xuất phát từ mục đích đảm bảo hiệu quả tối đa mục tiêu đề ra, người quảng
cáo luôn có xu hướng đề cao bản thân và hạ thấp đối thủ, trong khi sự so sánh làm
cho người tiếp nhận quảng cáo dễ tin hơn những tuyên bố thông thường. Do vậy
quảng cáo luôn có nguy cơ chệch hướng trở thành cạnh tranh không lành mạnh.
Những hành vi quảng cáo không trung thực như: so sánh hàng hóa dịch vụ của mình
1. Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb Công An Nhân Dân, 2014, tr.295



×