BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THỊ MAI SƯƠNG
ĐỀ TÀI
ĐẢM BẢO CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THỊ MAI SƯƠNG
ĐỀ TÀI
ĐẢM BẢO CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lưu Bình Nhưỡng
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Trần Thị Mai Sương
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
EU: Liên minh Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
FTA: Hiệp định thương mại tự do
ILO: Tổ chức Lao động quốc tế
TPP: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .......................................... 4
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn .............................................................. 5
5. Các phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn................................................ 5
7. Bố cục của luận văn.................................................................................... 6
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG
QUỐC TẾ CƠ BẢN ..................................................................................... 7
1.1. Khái niệm tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và đảm bảo các tiêu
chuẩn lao động quốc tế cơ bản...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ..................................... 7
1.1.1.1. Định nghĩa về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ............................ 7
1.1.1.2. Đặc điểm của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ...................... 8
1.1.2. Khái niệm đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản .............. 10
1.1.2.1. Định nghĩa đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản .......... 10
1.1.2.2. Các biện pháp đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ..... 10
1.2. Giá trị của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và mối quan hệ giữa
các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với pháp luật quốc gia ................. 12
1.2.1. Giá trị của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ............................ 12
1.2.2. Mối quan hệ giữa các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với pháp luật
quốc gia ....................................................................................................... 14
1.3. Nội dung của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản......................... 15
1.3.1. Nội dung của tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc..................................................................... 15
1.3.2 Nội dung của tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ có hiệu quả lao
động trẻ em .................................................................................................. 19
1.3.3. Nội dung của tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối xử
trong việc làm và nghề nghiệp ...................................................................... 25
1.3.4. Nội dung của tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do liên kết và thỏa ước
lao động tập thể............................................................................................ 29
Kết luận Chương 1 ..................................................................................... 35
Chương 2 THỰC TRẠNG NỘI LUẬT HÓA VÀ THỰC THI CÁC TIÊU
CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN Ở VIỆT NAM ..................... 36
2.1. Về xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc .............. 36
2.1.1. Nội luật hóa tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc..................................................................... 36
2.1.2. Thực thi tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc ............................................................................. 44
2.2. Về xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em ................................................ 48
2.2.1. Tình hình nội luật hóa tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ có hiệu
quả lao động trẻ em...................................................................................... 48
2.2.2. Tình hình thực thi tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ có hiệu quả
lao động trẻ em ............................................................................................ 53
2.3. Về xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp ................. 57
2.3.1. Tình hình nội luật hóa chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối
xử trong việc làm và nghề nghiệp ................................................................. 57
2.3.2. Tình hình thực thi tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối
xử trong việc làm và nghề nghiệp tại Việt Nam ............................................ 65
2.4. Về tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể ..................................... 69
2.4.1. Về quyền tự do thành lập công đoàn ................................................... 69
2.4.2. Về quyền tự quản của công đoàn ........................................................ 71
Kết luận Chương 2 ...................................................................................... 74
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC THI CÁC TIÊU
CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN Ở VIỆT NAM ..................... 75
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam nhằm đảm
bảo tương thích với pháp luật quốc tế về các nguyên tắc và quyền cơ bản tại
nơi làm việc ................................................................................................. 75
3.1.1. Những yêu cầu cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật về các tiêu
chuẩn lao động quốc tế ................................................................................ 75
3.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng
bức hoặc bắt buộc.......................................................................................... 76
3.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em
..................................................................................................................... 78
3.1.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm
và nghề nghiệp ............................................................................................. 80
3.1.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao khả năng phê chuẩn các
Công ước về quyền tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể .................... 83
3.2. Kiến nghị về một số biện pháp tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản..................................................................................... 84
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 91
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của Tổ
chức lao động quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của
mỗi quốc gia. Trên bình diện xã hội, các tiêu chuẩn lao động (trong đó bao gồm các
tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản) là một công cụ đắc lực để bù đắp những khiếm
khuyết của nền kinh tế thị trường, góp phần đảm bảo công bằng trong phân phối lợi
ích xã hội. Trên bình diện kinh tế, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản là công cụ
để chống lại sự cạnh tranh không bình đẳng thông qua “phá giá xã hội” hay “chạy
đua xuống đáy”1 bằng cách sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em.
Trong lịch sử, vai trò của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đối với quá
trình toàn cầu hóa đã từng gây ra nhiều tranh cãi bởi những người theo quan điểm
của học thuyết thương mại tự do, khi coi các tiêu chuẩn lao động là rào cản trong
tiến trình phát triển của nền thị trường. Tuy nhiên, hiện nay, ngày càng nhiều bằng
chứng chỉ ra rằng, các tiêu chuẩn lao động không những không làm suy giảm hoặc
thay đổi dòng chảy thương mại mà thậm chí còn làm gia tăng khả năng tiếp cận thị
trường đầu tư nói chung và thị trường lao động nói riêng. Nghiên cứu mới của Tổ
chức lao động quốc tế đã chỉ ra rằng, trung bình một Hiệp định thương mại có quy
định các điều khoản về lao động sẽ làm tăng giá trị thương mại lên 28%, so với mức
tăng 26% của một hiệp định không có điều khoản lao động2. Trên thế giới hiện nay,
việc đưa các điều khoản về tiêu chuẩn lao động vào trong các Hiệp định thương mại
tự do đang trở thành một xu thế, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế lớn mạnh,
phát triển. Tính đến tháng 12 năm 2015, đã có 76 hiệp định thương mại (bao trùm
135 nền kinh tế) có quy định các điều khoản về lao động, trong đó 72% số điều
khoản lao động liên quan tới thương mại có tham chiếu đến các tiêu chuẩn của Tổ
chức lao động quốc tế3.
1
Đoàn Xuân Trường, “Cam kết về lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới – Cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật điện tử, tại địa chỉ:
ngày truy cập 16/7/2017.
2
ILO (2016), “Các điều khoản về lao động trong hiệp định thương mại không ảnh hưởng tiêu cực đến doanh
nghiệp, tại địa chỉ:
ngày truy cập 16/7/2017.
3
ILO, tlđd chú thích 2.
2
Trong xu thế đó, hiện nay, Việt Nam đang tham gia quá trình đàm phán hai
Hiệp định thương mại tự do có chứa các điều khoản về tiêu chuẩn lao động đó là
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu và Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương. Nội dung các điều khoản về lao động trong các hiệp định
này phần lớn cũng là chính các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của Tổ chức lao
động quốc tế.
Mặt khác, việc tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc
tế cơ bản được xem là nghĩa vụ bắt buộc đối với mỗi quốc gia thành viên của Tổ
chức lao động quốc tế. Trong thời đại toàn cầu hóa, với chính sách hội nhập quốc tế
sâu rộng, việc chứng minh sự tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế của
Việt Nam càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết để Việt Nam có thể
khẳng định vị thế của mình trong quan hệ quốc tế song phương và đa phương. Bên
cạnh đó, việc đảm bảo thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản gắn liền với
việc thực thi quyền con người, quyền của người lao động trong lĩnh vực việc làm,
góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định - yếu tố nền tảng để phát
triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, đề tài “Đảm bảo các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cơ bản trong pháp luật lao động Việt Nam” được thực hiện nhằm nghiên
cứu, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ở
Việt Nam, trên cơ sở đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trên thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản trong pháp luật Việt
Nam đã được nhiều tác giả đề cập, quan tâm, nghiên cứu ở nhiều mức độ khác
nhau, trong đó, có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
- Sách tham khảo: Phạm Trọng Nghĩa (2014), “Thực hiện các Công ước cơ
bản của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam - Cơ hội và thách thức”,
Nxb.Chính trị quốc gia. Đây là một trong số ít các công trình nghiên, đánh giá toàn
diện về cả tình hình nội luật hóa và tình hình thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc
tế cơ bản tại Việt Nam, tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chưa đi sâu vào
phân tích pháp luật thực định ở Việt Nam về từng tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ
bản để đưa ra những kiến nghị cụ thể trong vấn đề hoàn thiện pháp luật. Đồng thời,
sau khi cuốn sách được xuất bản, một số văn bản quy phạm pháp luậtcó liên quan
đã được ban hành mới hoặc được sửa đổi, bổ sung, thể hiện sự nỗ lực của Việt Nam
trong việc thúc đẩy thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Do đó, những
nỗ lực này cần được đánh giá và ghi nhận lại một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
3
- Các Luận văn thạc sỹ: Đỗ Thanh Hằng (2012), Cấm phân biệt đối xử trong
pháp luật Việt Nam dưới góc độ tiêu chuẩn lao động; Lương Thị Hòa (2012), Công
ước về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp và sự nội luật hóa trong pháp
luật Việt Nam; Nguyễn Tiến Dũng (2015), Pháp luật lao động Việt nam với vấn đề
lao động cưỡng bức – Thực trạng và một số kiến nghị; Nguyễn Ngọc Yến (2012),
Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc.
Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu được công bố hầu hết chỉ tập
trung nghiên cứu, đề cập đến một tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản nhất định với
những mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Do vậy, đặc điểm, vai trò nói chung của các
tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản trong bối cảnh toàn cầu hóa chưa được đề cập
đến một cách đầy đủ, toàn diện. Bên cạnh đó, còn thiếu có các công trình nghiên
cứu liên quan đến tiêu chuẩn lao động quốc tế về quyền tự do liên kết và thỏa ước
lao động tập thể gắn với những nội nung cơ bản của Công ước số 87 năm 1948 về
Tự do liên kết và bảo vệ quyền tổ chức và Công ước số 98 năm 1949 về Quyền tổ
chức và thương lương tập thể của Tổ chức lao động quốc tế về vấn đề này.
- Một số bài viết: Lưu Bình Nhưỡng (2006), “Việc thực hiện các tiêu chuẩn
lao động ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học; Đảo Mộng Điệp, Mai Đặng Lưu (2015),
“Nội luật hóa các quy định của Công ước 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc
năm 1930”, Tạp chí Nghề luật; Nguyễn Khánh Phương (2016), “Kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về chống lao động cưỡng bức, thực hiện cam kết của Việt Nam
trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
Trần Thị Thúy Lâm (2011), “Công ước về phân biệt đối xử trong việc làm, nghề
nghiệp và sự nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học; Cao Nhất
Linh (2010), “Quyền thành lập, tham gia công đoàn trong luật quốc tế và luật Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp… Trong phạm vi các bài báo nghiên cứu này,
vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam để đáp ứng các tiêu chuẩn lao động quốc tế
đã được đề cập ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết
nghiên cứu khoa học, các tác giả đi sâu nghiên cứu pháp luật thực định mà ít đề cập
đến vấn đề thực tiễn triển khai khi hành các quy định này. Đồng thời, đa phần các
bài viết được thực hiện trước khi một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng có
liên quan đến các tiêu chuẩn lao động quốc tế được ban hành như Bộ Luật lao động
năm 2012, Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các Nghị
định về xử phạt vi phạm hành chính có liên quan.
4
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, trên cơ sở cập nhật các văn bản
quy phạm pháp luật và số liệu điều tra, thống kê mới được ban hành, công bố, đồng
thời, trên cơ sở bám sát những nội dung, yêu cầu đặt ra trong 8 Công ước của Tổ
chức lao động quốc tế quy định về vấn đề này, luận văn tập trung đánh giá một cách
toàn diện tình hình nội luật hóa và thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ở
Việt Nam để ghi nhận một cách kịp thời, đầy đủ những nỗ lực của Nhà nước Việt
nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ
bản. Đồng thời, đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ở Việt Nam trong
bối cảnh Việt Nam đang tham gia đàm phám, ký kết các Hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới mà ở đó, để được hưởng lợi từ những Hiệp định thương mại do này,
mỗi quốc gia thành viên phải cam kết thực hiện một cách nghiêm chỉnh, có hiệu quả
các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Đặc biệt, đối với tiêu chuẩn lao động quốc
tế cơ bản về quyền tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể, luận văn đã mạnh
dạn đề cập, phân tích những điểm chưa tương thích của pháp luật Việt Nam so với
pháp luật lao động quốc tế, để từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
nâng cao khả năng phê chuẩn các Công ước của Tổ chức lao động quốc tế về vấn đề
này, cũng như nâng cao khả năng của Việt Nam trong đàm phán, ký kết các Hiệp
định thương mai tự do thế hệ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm, vai trò, giá trị của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ
bản trong bối cảnh toàn cầu hóa và mối quan hệ giữa quy định của Tổ chức lao
động quốc tế về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với pháp luật Việt Nam.
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong
8 Công ước của Tổ chức lao động quốc tế về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong
lao động.
- Nghiên cứu pháp luật thực định của Việt Nam về các tiêu chuẩn lao động và
đánh giá sự tương thích giữa những quy định này với quy định của Tổ chức lao
động quốc tế về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản.
- Nghiên cứu, đánh giá về tình hình triển khai, thi hành các quy định có liên
quan đến tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản ở Việt Nam.
- Tìm hiểu, nghiên cứu quy định pháp luật một số nước trên thế giới về các
tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản.
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu của luận văn được đặt trong phạm vi (bám sát) những
nội dung của 4 các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được ghi nhận tại 8 Công
ước của Tổ chức lao động quốc tế về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra những điểm chưa tương thích của
pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong quy định về các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản. Đồng thời, chỉ ra những tồn tại, bất cập, hạn chế trong quá
trình thực thi các quy định trên. Từ đó, đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cơ bản trên thực tiễn, góp phần đảm bảo hiện thực hóa các cam kết quốc tế
của Việt Nam về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với tư cách là một quốc gia
thành viên của Tổ chức lao động quốc tế.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng linh hoạt nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học khác nhau trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử như: Phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với phương pháp so
sánh, đối chiếu và phương pháp thống kê, đánh giá, tổng kết thực tiễn,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn cung cấp những nhận thức tổng quan về các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cơ bản như về định nghĩa, đặc điểm, vai trò và nội dung cơ bản của các tiêu
chuẩn lao động quốc tế này.
- Luận văn có ý nghĩa trong việc đánh giá pháp luật thực định Việt Nam để từ
đó hoàn thiện pháp luật, đáp ứng các cam kết quốc tế về tiêu chuẩn lao động quốc tế
cơ bản, đặc biệt là đối với những Công ước về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
mà Việt Nam chưa phê chuẩn.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá về tình hình thực thi các quy định có liên
quan đến các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản, luận văn đưa ra một số đề xuất,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trên thực tiễn, từ đó
góp phần đảm bảo, nâng cao điều kiện lao động, quyền của người lao động ở nước
ta. Mặt khác, việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định
về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản sẽ góp phần khẳng định vị thế, uy tín của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế.
6
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát chung về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản;
Chương 2: Thực trạng nội luật hóa và thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế
cơ bản ở Việt Nam;
Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản ở Việt Nam.
7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN
1.1. Khái niệm tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và đảm bảo các tiêu
chuẩn lao động quốc tế cơ bản
1.1.1. Khái niệm tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
1.1.1.1. Định nghĩa về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
Trước tiên, dưới góc độ pháp lý, Tiêu chuẩn lao động (labour standard) là
những quy phạm về điều kiện lao động được xác lập dưới những hình thức nhất
định làm cơ sở cho việc xây dựng và vận hành quan hệ lao động4.
Mỗi quốc gia khác nhau sẽ quy định những tiêu chuẩn lao động khác nhau phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Vấn đề tiêu chuẩn
lao động quốc tế bắt đầu được đặt ra khi các quốc gia có sự giao thương, hợp tác với
nhau, lúc này, do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, giữa các quốc gia có sự
thỏa thuận, thậm chí tranh cãi về các tiêu chuẩn lao động được xem là cơ bản và cốt
lõi nhất để áp dụng chung ở cấp độ quốc tế nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
trong môi trường cạnh tranh, cũng như để đảm bảo sự công bằng trong phân phối
lợi ích xã hội (đặc biệt đối với người lao động) trong quá trình chuyển dịch tư liệu
sản xuất từ nước này sang nước khác.
Sự tranh cãi về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đã dẫn đến sự ra đời
của Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về các nguyên tắc và
quyền cơ bản tại nơi làm việc (Tuyên bố năm 1998), theo đó, ILO xác định 4 tiêu
chuẩn lao động quốc tế cơ bản tương ứng với 4 cặp Công ước bao gồm:
(i)
Tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể: Được quy định tại Công
ước số 87 năm 1948 về Tự do liên kết và bảo vệ quyền tổ chức; Công ước số 98
năm 1949 về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể;
(ii)
Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc: Được quy
định tại Công ước số 29 năm 1930 về Lao động cưỡng bức và Công ước số 105
năm 1957 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức;
4
Lưu Bình Nhưỡng (2006), “Việc quy định các tiêu chuẩn lao động ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học (2), tr.46.
8
(iii)
Xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em: Được quy định tại Công ước số
138 năm 1973 về Tuổi tối thiểu và Công ước số 182 năm 1999 về Những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất;
(iv)
Xóa bỏ sự phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp: Được quy
định tại Công ước số 100 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ
cho một công việc có giá trị ngang nhau và Công ước 111 năm 1958 về Phân biệt
đối xử trong việc làm và nghề nghiệp.
Bốn cặp công ước nêu trên mặc dù được sử dụng dưới nhiều tên gọi khác nhau
như: Các tiêu chuẩn lao động cốt lõi (core labour standards), các nguyên tắc và
quyền lao động nền tảng (fundamental rights and principles), các tiêu chuẩn lao
động được quốc tế thừa nhận (internationally recognized labour standards), các
công ước nhân quyền trong lao động (human rights labour conventions), nhưng đó
đều được xem là các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và được cộng đồng quốc tế
thừa nhận, áp dụng rộng khắp trên thế giới.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được hiểu
là hệ thống các quy phạm pháp luật quốc tế về những điều kiện lao động cốt lõi nhất
làm cơ sở cho việc xây dựng và vận hành quan hệ lao động ở cấp độ toàn cầu.
1.1.1.2. Đặc điểm của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
Thứ nhất, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản gắn liền với những quyền cơ bản
của con người nói chung và của người lao động nói riêng. Đó là các quyền được ghi
nhận tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền
chính trị và dân sự năm 1966 như: Quyền tự do, bình đẳng, không bị phân biệt đối xử,
quyền không bị nô lệ và lao động cưỡng bức, quyền tự do lập hội, quyền trẻ em,…
Thứ hai, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản có tính bắt buộc chung. Theo
Điều 2 Tuyên bố năm 1998, tất cả các thành viên của ILO dù đã phê chuẩn hay
chưa phê chuẩn các Công ước về tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đều có nghĩa
vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện một cách có thiện chí, phù hợp với Hiến
Chương, các nguyên tắc liên quan đến quyền cơ bản trong quan hệ lao động. Như
vậy, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được quy định tại 4 cặp Công ước kể
trên của ILO có hiệu lực bắt buộc chung đối với tất cả các quốc gia là thành viên
của ILO mà không kể quốc gia đó đã phê chuẩn các Công ước về tiêu chuẩn lao
động quốc tế hay chưa.
Theo quan điểm của ILO, cơ sở cho việc áp dụng nghĩa vụ bắt buộc này là vì
các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản là các tiêu chuẩn tối thiểu và có thể áp dụng
cho mọi quốc gia, không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ phát triển
của các quốc gia. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản không tạo ra
9
một tiêu chuẩn mới cao hơn về tiền lương, điều kiện an toàn vệ sinh lao động, chế
độ bảo hiểm xã hội…5.
Thứ ba, việc thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế không làm tăng chi phí
xã hội. Khác với các tiêu chuẩn lao động khác như tiêu chuẩn về tiền lương tối
thiểu, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội… yêu cầu các quốc
gia thành viên phải có điều kiện nhất định về kinh tế - xã hội để đáp ứng, hay cụ thể
hơn là để thực hiện các tiêu chuẩn lao động nêu trên, các quốc gia thành viên phải
bỏ ra một nguồn chi phí xã hội nhất định. Tuy nhiên, đối với các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản, việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động này không làm phát
sinh thêm chi phí cho người sử dụng lao động mà chỉ đóng vai trò tạo ra các điều
kiện mang tính nền tảng cho việc vận hành các mối quan hệ lao động, không phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ tư, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản chứa đựng các nguyên tắc điều
chỉnh sự vận hành của thị trường lao động, chúng tương thích với nguyên tắc bảo vệ
quyền sở hữu tài sản và nguyên tắc tự do giao dịch trong nền kinh tế thị trường6.
Điều này thể hiện ở chỗ, việc thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản sẽ tạo
ra cơ sở pháp lý để thiết lập các tiêu chuẩn lao động khác trên cơ sở sự thỏa thuận,
thương lượng giữa các chủ thể trong quan hệ lao động (ví dụ thông qua quyền tự do
liên kết và thỏa ước lao động tập thể) như tiêu chuẩn lao động về tiền lương, thời
gian làm thêm, thời gian nghỉ phép năm, các chế độ phụ cấp….
Thứ Năm, các tiêu chuẩn lao động quốc tế được theo dõi, giám sát thực hiện
theo một cơ chế đặc biệt.
Cơ chế giám sát này của ILO bao gồm 3 cách thức thực hiện7, cụ thể: (i) Theo
dõi, giám sát thông qua Báo cáo đánh giá hàng năm. Báo cáo này đòi hỏi các quốc
gia là thành viên của ILO chưa phê chuẩn một hoặc nhiều Công ước có liên quan
các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản phải báo cáo những biện pháp mà quốc gia
đó đã thực hiện nhằm đạt được mục tiêu của Tuyên bố năm 1998; (ii) Theo dõi,
giám sát thông qua Báo cáo toàn cầu. Đây là Báo cáo được thực hiện bởi Tổng
Giám đốc ILO, trong đó đưa ra một bức tranh toàn cầu sống động về tình trạng thực
5
Asian Development Bank (2006), “Core Labour standard handbook”, P.12.
6
Phạm Trọng Nghĩa (2014), “Thực hiện các Công ước cơ bản của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt
Nam – Cơ hội và thách thức”, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.44.
7
Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động (2016), “Tuyên bố năm 1998 và 8 Công ước cơ bản của Tổ
chức lao động quốc tế”, Nhà xuất bản Lao động, tr.11.
10
hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và một cái nhìn khách quan về các xu
thế khu vực cũng như xu thế toàn cầu liên quan đến các tiêu chuẩn lao động quốc tế
cơ bản để làm cơ sở xác định ưu tiên cho hợp tác kỹ thuật nhằm thúc đẩy hơn nữa
những nguyên tắc và quyền cơ bản về lao động trên thực tiễn; (iii) Theo dõi, giám
sát thông qua hợp tác kỹ thuật và dịch vụ tư vấn. Đây là biện pháp do ILO chủ trì và
được thiết kế để giải quyết các nhu cầu, các vấn đề quốc gia có liên quan đến việc
thực hiện tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các hỗ trợ này của ILO nhằm tăng cường
chính cơ chế quản trị và chính sách của địa phương nhằm nâng cao năng lực quốc gia
trong việc thúc đẩy các nguyên tắc và quyền cơ bản trong quan hệ lao động.
1.1.2. Khái niệm đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
1.1.2.1. Định nghĩa đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
Sự gia nhập của một quốc gia vào một tổ chức quốc tế luôn đặt ra những nghĩa
vụ pháp lý mới bên cạnh những lại ích mà quốc gia đó mong muốn đạt được. Như
đã phân tích ở trên, với tư cách là một thành viên của ILO, Việt Nam có nghĩa vụ
đảm bảo thực hiện các Công ước của ILO về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
theo đúng tinh thần của Tuyên bố năm 1998 về các nguyên tắc và quyền cơ bản tại
nơi làm việc.
Đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được hiểu là việc áp dụng các
biện pháp nhằm thực thi, hiện thực hoá các quy định của pháp luật quốc tế về các
nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc ở Việt Nam.
1.1.2.2. Các biện pháp đảm bảo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
Thứ nhất, nội luật hoá các quy định của pháp luật quốc tế.
Nội luật hoá là quá trình đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội
dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để
có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký
kết hoặc gia nhập). Mục đích nội luật hoá không phải là để khẳng định hiệu lực
pháp lý của điều ước quốc tế bởi vì dưới góc độ pháp lý, hiệu lực của một điều ước
quốc tế nhất định không bị chi phối bởi việc nó đã được nội luật hoá hay chưa. Mục
đích cơ bản của việc nội luật hoá là nhằm bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện điều
ước quốc tế, thể hiện ở chỗ, mỗi quốc gia đều có điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị
khác nhau, do đó, nội luật hoá điều ước quốc tế giúp quá trình “chuyển hoá” điều
ước quốc tế vào quốc gia bảo đảm sự phù hợp hơn với điều kiện, hoàn cảnh của
11
quốc gia đó, đồng thời, giúp các quy định của pháp luật quốc tế dễ dàng tiếp cận
hơn đối với công dân quốc gia, mặt khác, giúp cụ thể hoá những quy định của pháp
luật quốc tế mang tính nguyên tắc, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc
thực thi các quy định này trên thực tiễn.
Như vậy, việc nội luật hoá các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đóng một
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực thi các quy phạm pháp luật quốc tế về
nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc. Quá trình nội nội luật hoá nhóm quy
định này không chỉ bảo đảm các quy định của pháp luật quốc tế dễ dàng tiếp cận, áp
dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mà còn tạo cơ sở pháp lý để
thực thi một cách có hiệu quả các Công ước của ILO về các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cơ bản. Chẳng hạn, đối với tiêu chuẩn lao động quốc tế về xoá bỏ mọi hình
thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, pháp luật quốc tế quy định mọi hành vi sử
dụng lao động cưỡng bức đều phải bị áp dụng chế tài hình sự, có thể thấy, đây là
một quy định mang tính nguyên tắc, mà để áp dụng được nguyên tắc này, pháp luật
quốc gia phải quy định rõ hình phạt, mức phạt cụ thể để tạo cơ sở pháp lý cho các
cơ quan công quyền trong quá trình áp dụng pháp luật, đảm bảo thực hiện nghiêm
các quy định của pháp luật quốc tế có liên quan đến các tiêu chuẩn lao động quốc tế
cơ bản tại quốc gia.
Thứ hai, áp dụng các biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật.
Nhóm các biện pháp này bao gồm các biện pháp nhằm thực thi pháp luật
thông thường tại một quốc gia, cụ thể:
Một là, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật liên quan đến các
tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đến các đối tượng chịu tác động mà trước hết là
người lao động và người sử dụng lao động. Biện pháp này giúp định hướng hành vi
xử xự của các bên, từ đó đảm bảo cho các quy định của pháp luật đi vào thực tiễn.
Hai là, thiết lập một cơ chế kiểm tra, thanh tra việc thực thi các quy định của
pháp luật về tiêu chuẩn lao động.
Thanh tra, kiểm tra là một trong những phương thức hữu hiệu để phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tiêu chuẩn lao động. Bên cạnh đó, quá trình
thanh tra, kiểm tra giúp phát hiện kịp thời các vấn đề bất cập để kiến nghị hoàn
thiện pháp luật hoặc kiến nghị các biện pháp tổ chức thi hành trên thực thiễn, từ đó,
nâng cao hiệu quả thực thi nhóm các quy định này.
12
Ba là, thiết lập một cơ chế thu thập thông tin, thống kê về tình hình sử dụng
lao động, trong đó, tập trung vào những vấn đề có liên quan đến việc thực thi các
tiêu chuẩn lao động như tình hình sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức,
phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp và thực trạng hoạt động của các
công đoàn,… từ đó, có thể đánh giá toàn diện về tình hình thực hiện các tiêu chuẩn
lao động để có những hành động phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các tiêu
chuẩn lao động quốc tế cơ bản tại Việt Nam.
Thứ ba, tuân thủ các biện pháp giám sát của ILO trong vấn đề thực thi các tiêu
chuẩn lao động quốc tế cơ bản.
Như đã nói ở trên, các tiêu chuẩn lao động quốc tế được theo dõi, giám sát
thực hiện theo một cơ chế đặc biệt. Cơ chế giám sát này gồm 3 cách thức thực hiện:
Một là, theo dõi, giám sát thông qua Báo cáo đánh giá hàng năm.
Hai là, theo dõi, giám sát thông qua Báo cáo toàn cầu.
Ba là, theo dõi, giám sát thông qua hợp tác kỹ thuật và dịch vụ tư vấn.
1.2. Giá trị của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và mối quan hệ
giữa các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với pháp luật quốc gia
1.2.1. Giá trị của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
Thứ nhất, trên bình diện xã hội, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản góp
phần đảm bảo quyền con người, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp người lao động, khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị
trường. Đồng thời, việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản giúp duy
trì tính ổn định, bền vững của các quan hệ lao động - yếu tố nền tảng để phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ hai, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản còn có ảnh hưởng, tác động
tích cực đến khả năng cạnh tranh quốc gia, cụ thể như sau:
Một là, việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản làm tăng khả
năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI).
Thống kê về FDI trên phạm vi toàn cầu đã chứng minh, trên thực tế, những
quốc gia có điều kiện lao động thấp, các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản không
được thi hành sẽ kém thu hút FDI hơn các quốc gia đảm bảo tốt các tiêu chuẩn lao
động nói chung và tiêu chuẩn lao động quốc tế nói riêng8. Bởi lẽ điều kiện lao động
8
Phạm Trọng Nghĩa (2009), “Tác động của việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản đến khả
năng cạnh tranh của quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (9), tr.50.
13
thấp thường gắn liền với năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không cao.
Bên cạnh đó, khi xem xét địa điểm để đầu tư, bên cạnh các yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm như chi phí nhân công rẻ, quan trọng hơn, các nhà đầu
tư nước ngoài thường đánh giá cao quy mô, mức độ tăng trưởng của thị trường và
sự ổn định về chính trị - xã hội, cũng chất lượng lực lượng lao động của môi trường
dự kiến đầu tư. Mặt khác, việc thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản (đặc
biệt là tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản về quyền tự do liên kết và thỏa ước lao
động tập thể) sẽ góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, lành mạnh và ổn định
- đây cũng chính là cơ sở để duy trì sự ổn định về mặt chính trị - xã hội - một trong
những yếu tố quan trọng hàng đầu mà các nhà đầu tư quốc tế quan tâm. Đó cũng là
một trong những lý do tạo ra xu thế đưa các điều khoản về nghĩa vụ đảm bảo thực
hiện tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản vào trong các Hiệp định thương mại hiện nay
như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam - EU,… Do vậy, việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản có
ảnh hưởng nhất định đến khả năng thu hút FDI. Hơn nữa, với các quốc gia văn
minh, việc duy trì nền sản xuất hay tiêu thụ hàng hóa thông qua sử dụng lao động
cưỡng bức hoặc bóc lột … bị coi là tiếp tay cho sự vi phạm quyền con người. Do
đó, tạo ra một môi trường lao động “sạch sẽ” và văn minh là cơ hội tốt để thu hút
dòng chảy vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Trên thực tế, thống kê năm 2005 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của
Liên hiệp quốc đã chỉ ra rằng FDI của các nước phát triển (nơi các tiêu chuẩn lao
động quốc tế thường được thi hành tốt) cao hơn FDI của các nước đang phát triển
(nơi thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản kém hiệu quả hơn). Cụ thể:
Tổng số vốn đầu tư FDI đổ vào các nước phát triển là 542 tỉ USD, trong khi đó số
liệu tương tự của các nước đang phát triển chỉ là 334 tỉ USD9.
Vì vậy, để tạo cơ hội cho quốc gia được tham gia vào các Hiệp định thương
mại lớn trong khu vực và trên thế giới, tăng thu hút đầu tư nước ngoài, Nhà nước
cần hoàn thiện pháp luật về các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản, cũng như tăng
cường các biện pháp nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả thực hiện các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản trong thời gian tới.
9
Phạm Trọng Nghĩa, tlđd chú thích 6, trích trong tài liệu “UNCTAD: World Investment Report 2006: FDI
from Developing and Transition Economies: Implications for Development, UNTAD, Geneva, 2006, p.3-4”.
14
Hai là, việc thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản có ảnh hưởng nhất
định đến khả năng xuất khẩu của quốc gia.
Về mặt lý thuyết, các sản phẩm, hàng hóa sử dụng lao động cưỡng bức, lao
động trẻ em sẽ có giá thành thấp và cạnh tranh hơn khi xuất khẩu ra các nước kiểm
soát tốt vấn đề này do tiết kiệm được nguồn chi phí nhân công từ sử việc sử dụng
lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những
doanh nghiệp, nhà sản xuất sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em sẽ gặp
phải sự phản ứng từ phía khác hàng thông qua việc tẩy chay sản phẩm của họ. Các
nhãn hàng hổi tiếng như H&M, Nike, The Gap, Disney,... cũng đã từng phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi về thương mại do sử dụng lao động cưỡng bức và lao
động trẻ em. Vì vậy, việc tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản về lao
động cưỡng bức, lao động trẻ em sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu tránh
được sự tẩy chay của người mua ở những nước nhập khẩu, bảo vệ danh tiếng của
công ty, nhất là những quốc gia đề cao vấn đề quyền con người.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hóa vào thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu đều phải chứng minh việc doanh nghiệp tuân
thủ và tôn trọng thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Việc chứng minh sự tuân
thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được xem như một trong những yếu tố làm
tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tại những thị trường tiềm năng nay.
Như vậy, thực tiễn đã chứng minh rằng, việc đảm bảo các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cơ bản là xu thế tất yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia, đặc
biệt trong vấn đề xuất khẩu hàng hóa, từ đó, góp phần tăng trưởng nền kinh tế đất
nước, cải thiện, nâng cao đời sống xã hội.
1.2.2. Mối quan hệ giữa các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản với pháp
luật quốc gia
Tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế là một trong những nguyên
tắc cơ bản và quan trọng nhất trong pháp luật quốc tế, theo đó, các chủ thể của luật
quốc tế có nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế một cách triệt để và không thể
viện dẫn lý do các cam kết quốc tế trái với pháp luật quốc gia để từ chối hay lảng
tránh thực hiện. Đồng thời, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước đòi
hỏi phải được rà soát, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính tương thích, phù hợp các
quy phạm pháp luật quốc tế mà pháp luật quốc gia đã ký kết hoặc phê chuẩn, từ đó
thúc đẩy quá trình thực thi pháp luật quốc tế tại quốc gia.
15
Trong 8 Công ước quy định về các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm
việc, đối với các Công ước mà quốc gia đã phê chuẩn thì quốc gia đó đương nhiên
có nghĩa vụ phải thực hiện một cách tận tậm, thiện chí và triệt để theo nguyên tắc
của pháp luật quốc tế và Luật điều ước quốc tế năm 2005. Bên cạnh đó, như đã
phân tích ở trên, Tuyên bố năm 1998 đòi hỏi các quốc gia là thành viên của ILO có
nghĩa vụ phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiên các Công ước có liên quan đến tiêu
chuẩn lao động quốc tế bất kể quốc gia đó đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn. Vì
vậy, cùng với việc thực hiện nghiêm chỉnh các Công ước đã phê chuẩn, các quốc
gia thành viên còn có nghĩa vụ đảm bảo thực thi các quyền cơ bản trong quan hệ lao
động được quy định trong các Công ước chưa phê chuẩn.
Riêng đối với Việt Nam, trong tổng số 8 Công ước về các tiêu chuẩn lao động
quốc tế cở bản của ILO, Việt Nam đã phê chuẩn 5 Công ước, bao gồm: Công ước
số 100 năm 1951 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một
công việc có giá trị ngang nhau (phê chuẩn năm 1997 - sau đây gọi là Công ước số
100); Công ước số 111 năm 1958 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề
nghiệp (phê chuẩn năm 1997 - sau đây gọi là Công ước số 111); Công ước số 138
năm 1973 về Tuổi tối thiểu (phê chuẩn năm 2000 - sau đây gọi là Công ước số 138);
Công ước số 182 năm 1999 về Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (phê chuẩn
năm 2000 - sau đây gọi là Công ước số 182) và Công ước số 29 năm 1930 về lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc (phê chuẩn năm 2007 - sau đây gọi là Công ước số 29).
Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật để đảm bảo
tính tương thích với 5 Công ước mà Việt Nam đã tham gia, pháp luật Việt Nam cần
được rà soát, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo các quyền cơ bản của người lao động và
người sử dụng lao động đã được ghi nhận tại 3 Công ước còn lại.
1.3. Nội dung của các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản
1.3.1. Nội dung của tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc
Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp quốc đã khẳng
định một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được tự do và không ai
phải làm nô lệ hay bị cưỡng bức làm việc như nô lệ, mọi hình thức nô lệ và buôn
bán nô lệ đều bị ngăn cấm10. Như vậy, mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt
buộc đều đi ngược lại với quyền tự do vốn có của con người, đi ngược lại với những
10
Điều 3, Điều 4 Tuyên ngôn nhân quốc tế quyền năm 1948.
16
tư tưởng văn minh, tiến bộ trên thế giới. Trong lịch sử hình thành các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản, các quy định về xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động bắt buộc
xuất hiện sớm nhất và gắn liến với lịch sử đấu tranh chống lại ách nô lệ.
Nội dung của Tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản về xóa bỏ mọi hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc được thể hiện chủ yếu trong 2 Công ước là Công
ước số 29 năm 1930 về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc và Công ước số
105 năm 1957 về xóa bỏ lao động cưỡng bức. Trong đó, Công ước số 29 quy định
những vấn đề chung đối với việc xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động bắt buộc và
các trường hợp ngoại lệ; Công ước số 105 đặt ra yêu cầu cấm lao động cưỡng bức,
lao động bắt buộc, đồng thời, cụ thể hóa 5 trường hợp không được sử dụng bất kỳ
hình thức lao động cưỡng bức nào.
1.3.1.1. Định nghĩa về Lao động cưỡng bức
Theo Khoản 1 Điều 2 Công ước số 29, lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc là "tất
cả các công việc hay dịch vụ mà một người thực hiện dưới sự đe dọa phải chịu một
hình phạt và vì hình phạt này mà người đó không tự nguyện làm việc".
Như vậy, theo định nghĩa nêu trên, khái niệm lao động cưỡng bức hoặc bắt
buộc có ba yếu tố cấu thành, đó là “công việc hoặc dịch vụ”, “sự đe dọa bằng hình
phạt” và “không tự nguyện làm việc”.
“Công việc và dịch vụ” được hiểu là mọi loại hình công việc, dịch vụ và việc
làm không phân biệt ngành, lĩnh vực hoặc nghề được xác định trừ trường hợp đó là
nghĩa vụ được đặt trong chương trình giáo dục bắt buộc hoặc chương trình đào tạo
nghề bắt buộc.
“Sự đe dọa bằng hình phạt”: được hiểu là không nhất thiết phải thể hiện dưới
hình thức chế tài hình sự mà có thể thể hiện dưới hình thức của một sự mất mát về
quyền hay đặc quyền nào đó, hay nói cách khác, nếu không thực hiện công việc hay
dịch vụ bị ép buộc thì người lao động sẽ mất đi các quyền lợi hay đặc quyền của
mình. Hình phạt được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cực
đoan nhất của sự đe dọa có thể liên quan tới bạo lực hay hạn chế về thân thể, hoặc
thậm chí là cả đe dọa tới tính mạng đối với nạn nhân và người thân của nạn nhân.
Song cũng có những hình thức đe dọa tinh vi hơn, mang tính chất đánh vào tâm lý
của nạn nhân, chẳng hạn như đe dọa tiết lộ bí mật của nạn nhân hay đe dọa tố cáo
nạn nhân với cơ quan cảnh sát,… để gây tâm lý hoảng sợ, lo lắng, hoang mang buộc
họ phải thực hiện công việc hay dịch vụ một cách không tự nguyện. Một biểu hiện
khác của hình phạt liên quan đến kinh tế, tài chính như đe dọa không trả lương, đe
17
dọa sa thải nếu người lao động từ chối thực hiện công việc được giao, hoặc cũng có
thể là ép buộc người lao động phải làm thêm giờ ngoài phạm vi của hợp đồng đã ký
kết theo luật pháp quốc gia. Bên cạnh đó, trên thực tiễn, những trường hợp tịch thu
bản gốc giấy tờ tùy thân, bằng cấp của người lao động để yêu cầu nạn nhân tiếp tục
thực hiện công việc, nếu không thực hiện sẽ không trả lại cũng có thể bị xem xét
như một biểu hiện của lao động cưỡng bức, lao động bắt buộc.
Nhằm giúp những nhân viên trực tiếp thực thi pháp luật hình sự, thanh tra lao
động, cán bộ công đoàn, các tổ chức phi chính phủ và các chủ thể khác có liên quan
xác định, nhận diện về lao động cưỡng bức trên thực tiễn, ILO đã đưa ra 11 chỉ số
về lao động cưỡng bức, trong đó, giới thiệu các ví dụ thực tiễn để mô tả từng chỉ số,
đồng thời mô tả chi tiết về lao động cưỡng bức, lao động bắt buộc và tác động của
nó đến những nạn nhân trong mỗi chỉ số cụ thể. 11 chỉ số ILO đưa ra gồm: Lạm
dụng tình trạng khó khăn của người lao động; lừa gạt; hạn chế đi lại; bị cô lập; bạo
lực thân thể và tình dục; dọa nạt, đe dọa; giữ giấy tờ tùy thân; giữ tiền lương; lệ
thuộc vì nợ; điều kiện sống và làm việc bị lạm dụng, làm thêm giờ quá quy định11.
“Không tự nguyện làm việc” được hiểu là người lao động không có sự đồng ý,
chấp thuận làm việc hoặc chưa sẵn sàng làm việc. Điều này xuất phát từ quyền tự
do lựa chọn việc làm của người lao động. Theo ILO, việc xác định tính chất tự
nguyện hay không của một đối tượng được xem xét trong mối liên hệ với nhiều yếu
tố khác như: độ tuổi của người lao động, mức độ can thiệp của Nhà nước,…
Bên cạnh đó, ILO yêu cầu mọi quốc gia thành viên phê chuẩn công ước này có
nghĩa vụ bảo đảm rằng, những hành vi sửa dụng lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc
bất hợp pháp đều phải bị áp dụng chế tài hình sự. Đồng thời, các chế tài này phải đủ
hiệu lực thực sự và được áp dụng nghiêm ngặt12.
1.3.1.2. Những ngoại lệ không nằm trong phạm vi của lao động cưỡng bức
hoặc lao động bắt buộc
Theo Khoản 2 Điều 2 Công ước số 29, các trường hợp sử dụng lao động mang
tính chất của lao động cưỡng bức nhưng không nằm trong phạm vi điều chỉnh của
Công ước này bao gồm:
11
ILO (2014), “Các chỉ số của tổ chức lao động quốc tế về cưỡng bức lao động”, chương trình hành động
đặc biệt phòng chống lao động cưỡng bức, tại địa chỉ: - ngày truy cập16/7/2017.
12
Điều 25 Công ước số 29.
18
Một là, mọi công việc hoặc dịch vụ buộc phải làm theo pháp luật về nghĩa vụ
quân sự bắt buộc đối với những công việc có tính chất quân sự thuần túy;
Hai là, mọi công việc hoặc dịch vụ thuộc nghĩa vụ của một công dân thông
thường trong một quốc gia tự quản hoàn toàn;
Ba là, mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người buộc phải làm bởi quyết định
của tòa án với điều kiện là công việc hoặc dịch vụ đó phải được tiến hành dưới sự
giám sát và kiểm tra của cơ quan công quyền mà không thể đặt dưới quyền sử dụng
của một cá nhân, công ty hay hiệp hội tư nhân;
Bốn là, mọi công việc hoặc dịch vụ buộc phải làm trong trường hợp khẩn cấp,
nghĩa là trong trường hợp có chiến tranh, thiên tai hoặc có nguy cơ xảy ra thiên tai như
hỏa hoạn, lũ lụt, đói kém, động đất, dịch bệnh nghiêm trọng hoặc những tình thế khác
gây nguy hiểm cho đời sống hoặc an sinh của toàn thể hoặc một phần dân cư;
Năm là, những dịch vụ nhỏ của xã hội vì lợi ích trực tiếp của cộng đồng và do
những thành viên cộng đồng đó thực hiện. Trong trường hợp này, thành viên của
cộng đồng đó hoặc người đại diện của họ có quyền được tham khảo ý kiến về sự
cần thiết của những dịch vụ nói trên.
Như vậy, có thể thấy, những trường hợp loại trừ của lao động cưỡng bức là
những trường hợp thực hiện công việc hoặc dịch vụ vì lợi ích chung của cộng đồng,
của xã hội hoặc những trường hợp mang tính chất giáo dục con người (lao động tù
nhân trong các trại giam và lao động tại trường giáo dưỡng). Tuy nhiên, trong mỗi
trường hợp cụ thể, để được loại trừ khỏi phạm vi lao động cưỡng bức, phải đáp ứng
được các điều kiện nhất định và hướng đến mục đích công cộng, lợi ích chung của
cộng đồng và không thể vì mục tiêu lợi nhuận, kinh tế hoặc bóc lột lao động.
1.3.1.3. Một số trường hợp cụ thể cấm sử dụng lao động cưỡng bức
Các trường hợp cụ thể cấm sử dụng lao động cưỡng bức được quy định tại
Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức. Công ước này ra đời trong hoàn
cảnh hệ thống lao động cưỡng bức trên thế giới có tính chất nghiêm trọng (do hệ
quả của sự ép buộc về chính trị hoặc mục đích kinh tế13). Đồng thời, nhằm mục đích
xóa bỏ một số hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc vi phạm quyền con
người đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc và Tuyên ngôn Quốc tế
về nhân quyền, ILO đã thông qua Công ước ước số 105 bao gồm 5 hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc bị nghiêm cấm:
13
Phạm Trọng Nghĩa, tlđd chú thích số 6, tr. 61.