Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THU GIANG

ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THU GIANG

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đồng Ngọc Ba

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả Luận văn

Trần Thu Giang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn ........................................................3
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứucủa Luận văn ................................4
5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện Luận văn..............................5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn...........................................................5
7. Bố cục của Luận văn...................................................................................................5
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH
DOANH TRONG LĨNH VỰC G IÁO DỤC, ĐÀO TẠO VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO
TẠO ......................................................................................................................................6
1.1. Một số vấn đề lý luận về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo .....................................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. .6
1.1.2. Đặc điểm của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo .................................................................................................................................7
1.1.3. Vai trò của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
đối với quản lý nền kinh tế và quản lý nền giáo dục, đào tạo ............................12
1.2. Khái quát pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo ...................................................................................................................14
1.2.1. Khái niệm pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo ...............................................................................................................14
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo ...............................................................................................16
1.2.3. Sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật về điều kiện đầu tư
kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam ...................................17
Chương 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH
DOANH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO ........................................22


2.1. Quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo ..........................................................................................................22
2.2. Quy định cụ thể về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo ............................................................................................................................29
2.2.1. Điều kiện về chủ thể đề nghị thành lập các cơ sở giáo dục, kiểm định

chất lượng giáo dục, dịch vụ tư vấn du học ..........................................................29
2.2.2. Điều kiện thành lập các cơ sở giáo dục; tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục .....................................................................................................................35
2.2.2.1. Điều kiện thành lập các cơ sở giáo dục ..................................................35
2.2.2.2. Điều kiện thành lập các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục.........41
2.2.3. Điều kiện hoạt động của các cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục; điều kiện kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.............................42
2.3. Quản lý nhà nước trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ...............................................................................46
2.3.1. Quy định về hình thức thể hiện điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo ...............................................................................................46
2.3.2. Quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ xác nhận điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo .................................................................48
2.3.2.1. Quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ thành lập, cho phép thành lập các
cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục......................................48
2.3.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ cho phép các cơ sở giáo dục, tổ
chức kiểm định chất lượng giáo dục hoạt động; đăng ký hoạt động giáo dục
nghề nghiệp; chứng nhận kinh doanh dịch vụ tư vấn du học .............................53
2.3.3. Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong đầu tư kinh doanh có điều
kiện thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo ....................................................................59
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ
KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO ...........................68
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo...................................................................................................68


3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, yêu cầu
đổi mới về điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại Luật Đầu tư năm

2014 và bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật .....................................68
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo bảo đảm xác định rõ tính chất đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo.......................................................................................................69
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo nhằm cải cách thủ tục hành chính ....................................................69
3.2. Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ..................................................................70
3.2.1. Cần thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật quy định về ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo .............70
3.2.2. Xác định rõ khái niệm "đầu tư kinh doanh" và tính chất "đầu tư kinh
doanh" trong các ngành, nghề đầu tư tư kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh
vực giáo dục, đào tạo ...............................................................................................71
3.2.3. Rà soát, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, khả thi, minh
bạch của một số quy định pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo ...............................................................................................74
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về điều kiện đầu
tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ....................................................75
3.3.1. Hoàn thiện và tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo ...............................................................................................................................76
3.3.2. Xây dựng cơ chế giám sát và kênh tiếp nhận thông tin phản ánh về việc
thực thi pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo ...............................................................................................................................77
3.3.3. Tăng cường tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ...............79
KẾT LUẬN .......................................................................................................................81


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, quyền tự do kinh doanh là
một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền tự do của con người. Giá trị
to lớn của quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động
kinh tế, tức là khả năng mà cá nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do
đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức
kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết lập các quan hệ kinh tế, tự do cạnh
tranh, tự do định đoạt trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động kinh doanh...1 Tuy nhiên, để hiện thực các quyền này thì đòi hỏi Nhà
nước phải ghi nhận và bảo đảm quyền bằng pháp luật. Theo đó, từ yêu cầu
quản lý xã hội, vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, bằng pháp luật, Nhà nước có thể xác
định giới hạn phạm vi “quyền tự do kinh doanh” thông qua việc quy định các
ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện. Giáo dục, đào tạo là một lĩnh vực đặc thù, có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với tất cả quốc gia, bởi “sản phẩm” của hoạt động giáo dục, đào tạo
chính là đạo đức, năng lực, trình độ của con người và cũng chính là thước đo
phản ánh “bản sắc, năng lực, trình độ” của một quốc gia. Do đó, đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo luôn được xác định là hoạt động đầu tư
kinh doanh có điều kiện.
Tại Việt Nam, phát triển giáo dục luôn được xác định là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đầu tư cho giáo dục luôn được Nhà nước ưu tiên. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, vấn đề đổi mới và phát triển giáo dục là vấn đề cấp bách. Nhà
nước kêu gọi và huy động mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục. Theo
1


Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt
Nam, NXB Ch ính trị Quốc gia, Hà Nộ i, tr. 19-20.


2

đó, Nhà nước đã thiết lập một cơ chế pháp lý làm cơ sở để các nhà đầu tư
thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo,
đặc biệt là các hoạt động đầu tư kinh doanh có điều kiện; đồng thời cũng là
công cụ để Nhà nước quản lý, kiểm soát các hoạt động đầu tư kinh doanh
trong lĩnh vực có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có tính nhạy cảm và tác động
xã hội lớn này.
Mặc dù, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục được xác định là hoạt động đầu
tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện nhưng phải đến khi khái niệm
"đầu tư kinh doanh" và "các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện" xuất
hiện trong Luật Đầu tư năm 2014 thì một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh
có điều kiện trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo mới được "gọi tên". Thực hiện
quy định của Luật Đầu tư năm 2014, các quy định pháp luật về điều kiện đầu
tư trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được tổng hợp, hệ thống và căn chỉnh lại
trong hệ thống các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh nói chung. Việc
sắp xếp và căn chỉnh lại hệ thống pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh
nói chung và trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói riêng có tác động thúc đẩy
đầu tư kinh doanh phát triển, thúc đẩy nền giáo dục phát triển. Tuy nhiên, qua
đó cũng cho thấy những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật trong
lĩnh vực này như sự không tương thích giữa các văn bản trong việc quy định
về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; những hạn chế trong các quy
định về chủ thể thực hiện đầu tư, về hồ sơ, thủ tục, về việc kiểm soát các yếu
tố bảo đảm điều kiện hoạt động...
Với vai trò rất lớn của các quy định pháp luật về điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo đối với sự phát triển của nền kinh tế và

nền giáo dục, việc nghiên cứu, đánh giá nhằm hoàn thiện "Pháp luật về điều
kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam" là
thực sự cần thiết và ý nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đã có những công trình nghiên cứu về pháp luật điều kiện


3

kinh doanh như: Luận văn thạc sĩ "Pháp luật kinh doanh có điều kiện về an
ninh trật tự và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La" của Nguyễn Trọng Hạnh
năm 2016; Luận văn thạc sĩ "Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở
Việt Nam" của Vũ Thị Hiền năm 2014; Luận văn thạc sĩ "Pháp luật và điều
kiện kinh doanh ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện" của Nguyễn
Huyền Trang năm 2014.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu tiêu biểu khác như: "Thực
thi quy định về ngành nghề cấm kinh doanh và ngành nghề kinh doanh có
điều kiện theo Luật Đầu tư năm 2014" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung trên tạp
chí Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội số 01/2016; "Pháp luật về công
cụ hỗ trợ bảo vệ an ninh, trật tự - từ góc độ kiểm soát ngành nghề kinh doanh
có điều kiện" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung trên tạp chí Luật học - Trường
Đại học Luật Hà Nội số 08/2016; "Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có
điều kiện và kiến nghị hoàn thiện" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Yến, Thạc sĩ Trần
Thị Bảo Ánh trên tạp chí Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội số
04/2012...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu mới chỉ nghiên cứu các quy
định chung của pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, hoặc có
nghiên cứu về một ngành, nghề cụ thể nhưng không phải lĩnh vực giáo dục,
đào tạo. Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về
điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo theo pháp luật Việt Nam được áp dụng đối với các chủ thể đầu tư
trong nước và ngoài nước, với nhiều hình thức đầu tư khác nhau như thành
lập cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, kinh doanh dịch
vụ tư vấn du học, thành lập phân hiệu của các cơ sở giáo dục, liên kết đào tạo
với nước ngoài... Trong phạm vi của Luận văn, tác giả chủ yếu tập trung phân
tích các nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về điều kiện đầu tư kinh


4

doanh áp dụng đối với các nhà đầu tư trong nước trong việc đề nghị thành lập,
cho phép thành lập, cho phép hoạt động của các cơ sở giáo dục (bao gồm cả
đăng ký hoạt động của cơ sở giáo dục nghề nghiệp); thành lập, cho phép
thành lập, cho phép hoạt động của tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục;
đăng ký kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp
luật điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; dựa trên cơ
sở lý luận đó để đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành và đưa ra được những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, các nhiệm vụ mà Luận văn phải
giải quyết là:
- Nêu và phân tích cơ sở lý luận về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Trong đó, cần làm rõ khái niệm, đặc điểm của điều
kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và vai trò của điều kiện
đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo đối với quản lý nền kinh tế

và quản lý nền giáo dục, đào tạo.
- Nêu và phân tích cơ sở lý luận về pháp luật về điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Trong đó, cần làm rõ khái niệm, nội
dung cơ bản của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo; sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật về điều kiện
đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành để thấy rõ các
ưu, nhược điểm còn tồn tại trong hệ thống pháp luật điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo cũng như quá trình thi hành các quy
định pháp luật này.
- Xây dựng định hướng và các giải pháp, kiến nghị cụ thể để hoàn thiện


5

các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về điều kiện
đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam.
5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện Luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói
chung và pháp luật đầu tư kinh doanh nói riêng. Đối với từng nội dung cụ thể,
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, phương pháp so sánh luật
học và phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Là công trình nghiên cứu về pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Luận văn có một số đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật hiện
hành về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo;
- Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu với 3 chương như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo và pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Chương 2. Pháp luật hiện hành về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƯ KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
1.1. Một số vấn đề lý luận về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo
1.1.1. Khái niệm điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo
Hiện nay, khái niệm “điều kiện đầu tư kinh doanh” có nhiều cách hiểu
khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ, điều kiện đầu tư kinh doanh có thể được
hiểu là những yếu tố tác động đến đến hoạt động đầu tư kinh doanh hay còn

gọi đó là môi trường kinh doanh 2. Điều kiện đầu tư kinh doanh cũng có thể
hiểu là những yêu cầu, đòi hỏi mà chủ thể kinh doanh phải có hay phải thực
hiện trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh nhất định như sản xuất,
phân phối, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận3.
Theo ý kiến của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa thì “Điều kiện kinh doanh là
mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính vào quyền tự do kinh doanh của
người dân, thường được cụ thể hóa bằng những hành vi của nhân viên hành
chính có quyền chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức
những hoạt động kinh doanh cụ thể”4. Trong đó, việc chấp nhận, hạn chế
hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể
được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật được biểu hiện thông qua
hành vi chấp nhận hoặc từ chối cấp giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện,
chứng chỉ hành nghề... hoặc thông qua hành vi kiểm tra, giám sát của cơ quan
hành chính về việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của các chủ thể.
2

Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), Pháp luật và điều kiện kinh doanh ở Việt Nam - Thực trạng và hướng
hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nộ i, t r. 6.
3
Vũ Thị Hiền (2014), Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Luật Hà Nộ i, Hà Nội, tr. 5.
4
Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật kinh tế, (1), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nộ i, tr 23-24.


7

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì:
"Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực
hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh

doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề,
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định
hoặc yêu cầu khác". Luật Đầu tư năm 2014 không giải thích “điều kiện đầu tư
kinh doanh” mà chỉ giải thích khái niệm “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện” 5 thông qua việc nêu mục đích của việc Nhà nước phải đặt ra điều
kiện để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó là vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe cộng đồng. Khoản 7 Điều 2 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12
tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Đầu tư quy định: "Điều kiện đầu tư kinh doanh là điều
kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh,
nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh
doanh trong các ngành, nghề quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư".
Từ những quan điểm khoa học và theo quy định của pháp luật nêu trên,
có thể hiểu "điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là
những yêu cầu, đòi hỏi do Nhà nước quy định mà chủ thể đầu tư kinh doanh
phải đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi này khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và được thể hiện dưới những hình
thức nhất định".
1.1.2. Đặc điểm của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo
Điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo có những
đặc điểm chung của điều kiện đầu tư kinh doanh và những đặc điểm riêng, cụ
thể như sau:

5

Khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014.



8

Thứ nhất, về chủ thể có thẩm quyền và hình thức quy định điều kiện
đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là yêu
cầu, đòi hỏi được Nhà nước đặt ra và quy định trong văn bản quy phạm pháp
luật. Đây là điểm chung, giống như bất kỳ điều kiện đầu tư kinh doanh trong
các lĩnh vực khác. Việc đặt ra các điều kiện đầu tư kinh doanh là một trong
các biện pháp quản lý của nhà nước, có tác động đến quyền tự nhiên vốn có
của mỗi cá nhân theo hướng “hạn chế quyền”. Theo đó, các hạn chế này phải
được pháp luật quy định, là những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện phải được quy định tại Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện của Luật Đầu tư; Quốc hội sửa đổi, bổ sung Danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo thủ tục rút gọn trên cơ sở đề
nghị của Chính phủ. Như vậy, Quốc hội là chủ thể duy nhất được đặt ra các
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đồng thời, pháp luật cũng quy
định bên cạnh điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên thì điều kiện đầu tư kinh doanh đối với các ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện phải được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định.
Tức là, chủ thể có thẩm quyền quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh chỉ
bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Các quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác (như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng các
bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết
định của Ủy ban nhân dân các cấp...) không có hiệu lực thi hành. Như vậy,
không phải chủ thể nào có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
đều có thẩm quyền đặt ra ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều
kiện đầu tư kinh doanh đối với các ngành, nghề này. Có thể thấy, tùy thuộc

vào thời điểm, yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế - xã hội thì Nhà nước đặt


9

ra các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, điều kiện đầu tư kinh
doanh khác nhau và cho phép chủ thể nhất định có thẩm quyền quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh. Nếu như trước đây, theo Luật Doanh nghiệp năm
2005, ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, điều kiện kinh doanh được quy
định trong các luật, pháp lệnh, nghị định hoặc quyết định của Thủ tướng
Chính phủ thì hiện nay, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải
được quy định trong luật và điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định
trong các luật, pháp lệnh, nghị định. Thực tế thời gian thực hiện Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cho thấy, có rất nhiều điều kiện kinh doanh được quy định
tại văn bản của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân các cấp. Tình trạng này dẫn đến việc tràn lan giấy phép con, gây khó khăn
cho cá nhân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, thực hiện các hoạt
động đầu tư kinh doanh. Chính vì vậy, triển khai Luật Đầu tư năm 2014, tất cả
các điều kiện đầu tư kinh doanh đang được quy định tại các văn bản không
phải luật, pháp lệnh, nghị định phải được rà soát để đề nghị Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định theo đúng thẩm quyền.
Theo đó, các điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo cũng phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là
các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo phải "có tên" trong Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật Đầu tư và các điều kiện đầu tư kinh doanh đối với các ngành, nghề
này phải được quy định trong các luật, pháp lệnh hoặc nghị định.
Thứ hai, về phạm vi áp dụng điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo
Điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo chỉ áp

dụng đối với một số ngành, nghề nhất định.
Điều kiện đầu tư kinh doanh luôn gắn với ngành, nghề đầu tư kinh
doanh. Tuy nhiên, không phải ngành, nghề đầu tư kinh doanh nào cũng phải
đáp ứng điều kiện đầu tư kinh doanh mà chỉ những ngành, nghề cần phải quản


10

lý để bảo đảm các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo cũng vậy, điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo chỉ áp dụng đối với một số ngành, nghề nhất định. Theo Luật Đầu tư năm
2014 (được sửa đổi, bổ sung năm 2016) thì các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo phải đáp ứng điều kiện đầu tư kinh
doanh bao gồm: Hoạt động giáo dục nghề nghiệp; kiểm định chất lượng giáo
dục nghề nghiệp; hoạt động của cơ sở giáo dục mầm non; hoạt động của cơ sở
giáo dục phổ thông; hoạt động của cơ sở giáo dục đại học; hoạt động của cơ
sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài, văn phòng đại diện giáo dục nước
ngoài tại Việt Nam, phân hiệu cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài; hoạt
động của cơ sở giáo dục thường xuyên; hoạt động của trường chuyên biệt;
hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài; kiểm định chất lượng giáo dục và
kinh doanh dịch vụ tư vấn du học. Theo đó, có những hoạt động trước đây
được xác định là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện nhưng hiện nay
không thuộc Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện như dịch
vụ tổ chức dạy thêm, học thêm; hoạt động của trung tâm giáo dục Quốc
phòng - An ninh sinh viên.
Thứ ba, về hình thức của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo
Điều kiện đầu tư kinh doanh nói chung được áp dụng theo các hình
thức như giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện, chứng chỉ hành nghề,

chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, văn bản xác nhận, các hình
thức văn bản khác theo quy định của pháp luật; các điều kiện mà các chủ thể
đầu tư kinh doanh phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà
không cần phải xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản... Mỗi hình
thức này có giá trị pháp lý khác nhau, được áp dụng theo từng trường hợp cụ
thể.


11

Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, các điều kiện đầu tư kinh doanh được
thể hiện dưới hình thức quyết định thành lập, cho phép thành lập; quyết định
cho phép hoạt động; giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; giấy chứng nhận
kinh doanh dịch vụ.
Thứ tư, về thời gian các chủ thể đầu tư kinh doanh phải đáp ứng các
điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Chủ thể đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo phải đáp
ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động kinh
doanh. Chủ thể đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được quyền kinh
doanh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo kể từ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà Nhà nước đặt ra. Việc
đáp ứng các điều kiện này sẽ được các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra,
giám sát bằng cơ chế hậu kiểm. Nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện hoạt
động thì các chủ thể sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, có như vậy mới
bảo đảm mục tiêu quản lý của nhà nước khi lựa chọn biện pháp điều kiện đầu
tư kinh doanh để điều tiết nền kinh tế và quản lý xã hội, hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực có thể gây ra từ hoạt động kinh doanh các ngành, nghề, đặc biệt trong
lĩnh vực quan trọng hàng đầu như giáo dục, đào tạo.
Thứ năm, về mục đích của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo

Bản thân điều kiện đầu tư kinh doanh đã là những giới hạn quyền tự do
kinh doanh của chủ thể kinh doanh và là cơ sở để quản lý hoạt động đầu tư
kinh doanh. Theo đó, điều kiện đầu tư kinh doanh trong một lĩnh vực cụ thể
sẽ giới hạn quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh và là cơ sở quản
lý hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực đó.
Quyền tự do kinh doanh vốn gắn với quyền con người. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, tổ chức, cá nhân có thể bị Nhà nước hạn chế vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là những giới


12

hạn quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh và là cơ sở để quản lý
hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo cũng như định
hướng sự phát triển của nền giáo dục, đào tạo theo quan điểm, chủ trương,
chính sách của mỗi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo đối với quản lý nền kinh tế và quản lý nền giáo dục, đào tạo
Một trong những chức năng căn bản của Nhà nước là quản lý xã hội,
với nhiệm vụ thiết lập các biện pháp, công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, phát triển kinh tế theo các mục tiêu, mục đích phù hợp với quan điểm,
mong muốn của giai cấp cầm quyền và của nhân dân. Trong đó, có những
biện pháp điều chỉnh theo hướng can thiệp có tính chất hạn chế quyền của các
chủ thể nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý, các quy tắc ứng xử phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội và hài hòa với lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Việc đặt ra điều kiện đầu tư kinh doanh là một trong các biện pháp đó. Thực
tế cho thấy rằng, các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh có vai trò rất
lớn đối với Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, điều tiết thị trường, định
hướng sự phát triển kinh tế - xã hội đối với từng ngành, nghề cụ thể. Điều

kiện đầu tư kinh doanh cũng có vai trò lớn trong việc hạn chế tối đa nguy cơ
ảnh hưởng xấu, tiêu cực tới lợi ích chung của xã hội, xây dựng môi trường
kinh doanh lành mạnh. Các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thiết lập
một khuôn khổ pháp lý minh bạch, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhận biết
được quyền lợi của mình, hiện thực hóa được quyền tự do kinh doanh của
mình phù hợp với quy định của pháp luật.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội,
muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người cả về thể chất và tinh
thân, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp
phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: "Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu" bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản
thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức


13

mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Chính vì vậy, giáo
dục, đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc góp phần nâng cao dân
trí của mỗi quốc gia, dân tộc; góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc
gia từ những con người được trang bị đầy đủ kiến thức kinh tế, xã hội, bản
lĩnh chính trị; cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh
tế. Giáo dục, đào tạo là lĩnh vực đặc thù, là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối
với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày
nay, giáo dục, đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu
để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại
lệ 6. Tại Việt Nam, phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong nền kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày
càng trở nên gay gắt và khốc liệt, nước giàu ngày càng giàu hơn vì có ưu thế

cạnh tranh trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và
phát triển công nghệ cao; công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng
rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là trong giáo dục; nhu
cầu học tập và đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân
lực của người dân ngày càng cao.
Trước tình hình đó, việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế,
thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa7 là rất cần
thiết. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của Ngành Giáo dục và trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước ta còn hạn chế. Vì vậy, việc huy động nguồn lực
của các chủ thể trong xã hội (xã hội hóa) để đầu tư và phát triển nền giáo dục
của đất nước là một yêu cầu khách quan. Trong đó, mục tiêu lợi nhuận không
6

Trần Duy tổng hợp (2015), " Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển", Trang thông tin điện tử
Nhà
xuất
bản

Nội,
tại
địa
chỉ:
4/artilceID/15531/language/vi-VN/ Default .aspx, ngày
truy cập 30/11/2015.
7
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam, Hà Nội, tr 9.


14


phải là vấn đề hàng đầu mà quốc gia nào trên thế giới cũng hướng đến khi xây
dựng thể chế cho các hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo vì "sản phẩm" đầu ra của giáo dục, đào tạo chính là tạo nên những thế
hệ con người có đạo đức tốt, năng lực sáng tạo, thể chất khỏe mạnh đáp ứng
với yêu cầu của thời đại mới, của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, việc
tham gia đầu tư của các chủ thể trong xã hội vào lĩnh vực này luôn đặt dưới
sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, với các điều kiện đầu tư kinh doanh cụ thể
đối với từng ngành, nghề nhất định. Theo đó, về phương diện quản lý nhà
nước, bên cạnh chính sách ưu đãi của Nhà nước để thu hút các nguồn lực đầu
tư cho giáo dục, khi đặt ra các điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo, Nhà nước có thể điều tiết, quản lý việc đầu tư các nguồn lực
kinh tế vào giáo dục, đào tạo. Đồng thời, thông qua quy định về điều kiện đầu
tư kinh doanh, Nhà nước sẽ "sàng lọc" được các chủ thể đáp ứng được đầy đủ
các điều kiện đầu tư để cho phép đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo bảo đảm chất lượng giáo dục theo mong muốn của Nhà nước, của
nhân dân, của xã hội.
Đối với xã hội, thông qua các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh,
xã hội có thể thể giám sát được việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh của các
chủ thể thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo; lựa chọn những cơ sở giáo dục phù hợp với yêu cầu, mong muốn đào
tạo của mình để tham gia. Đồng thời, thông qua các quy định về điều kiện đầu
tư kinh doanh sẽ ngăn ngừa, loại bỏ được chủ thể kinh doanh không đủ điều
kiện, từ đó sẽ hạn chế được những ảnh hưởng xấu tới chất lượng giáo dục,
đào tạo.
1.2. Khái quát pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo
1.2.1. Khái niệm pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo



15

Pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội. Trong thế
giới hiện đại, việc sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là một nguyên
tắc tối cao trong quản lý của bất kỳ Nhà nước nào. Mọi sự điều hành của Nhà
nước đều phải được thể chế thành pháp luật.
Pháp luật về kinh doanh chứa đựng hai vấn đề cơ bản là pháp luật về
hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và pháp luật về quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh8. Theo đó, pháp luật về điều kiện đầu
tư kinh doanh là một bộ phận quan trọng của pháp luật về kinh doanh nói
chung.
Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo là một bộ phận của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh. Pháp luật
về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là tổng thể
các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều
chỉnh mối quan hệ phát sinh giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân đầu tư kinh
doanh trong các ngành, nghề thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm thực
hiện quản lý nhà nước đối với các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là mối quan hệ phát sinh trong hoạt động
quản lý kinh tế - xã hội trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Pháp luật về điều
kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là các quy định pháp
luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội,
do đó các quan hệ này không mang tính chất hành chính đơn thuần, nên dù do
nhà nước đặt ra, chịu sự chi phối bởi yếu tố quyền lực công, quan hệ này vẫn
mang yếu tố tài sản, trách nhiệm vật chất và bị chi phối bởi các quy luật kinh
tế9.
8


Vũ Thị Hiền (2014), Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Luật Hà Nộ i, Hà Nội, tr 15.
9
Vũ Thị Hiền (2014), Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Luật Hà Nộ i, Hà Nội, tr 15.


16

Phương pháp điều chỉnh pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo là phương pháp mệnh lệnh hành chính, hướng dẫn
mà không dùng phương pháp thỏa thuận bình đẳng. Các điều kiện đầu tư kinh
doanh là các yêu cầu, đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với tất cả các chủ thể
khi đầu tư kinh doanh vào các ngành, nghề có điều kiện. Các chủ thể đầu tư
kinh doanh không có quyền lựa chọn, thỏa thuận thực hiện hay không thực
hiện, tuân thủ hay không tuân thủ các quy định về điều kiện đó. Tính mệnh
lệnh của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh còn thể hiện ở cơ chế kiểm
tra, thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các chủ thể kinh
doanh trong các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh vực giáo dục,
đào tạo trong suốt quá trình hoạt động của các chủ thể này. Trường hợp phát
hiện các chủ thể này không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định
thì các chủ thể sẽ bị xử phạt, buộc đáp ứng đầy đủ các điều kiện hoặc chấm
dứt hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, mặc dù phương pháp điều chỉnh chủ
yếu là phương pháp mệnh lệnh nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ
quan nhà nước còn có trách nhiệm hướng dẫn các chủ thể đầu tư kinh doanh
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định. Các cơ quan nhà nước không can
thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh của các chủ thể mà chỉ thẩm
định, thẩm tra, xác nhận bảo đảm đầy đủ các điều kiện đầu tư kinh doanh.
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong

lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo là một bộ phận của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, do đó phải
điều chỉnh một cách đầy đủ, toàn diện các mối quan hệ phát sinh trong quá
trình thành lập, hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong các ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Nội dung pháp luật bao giờ cũng chịu sự tác động, chi phối bởi nhiều
yếu tố như tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
tình hình phát triển kinh tế - xã hội, tình hình và xu thế phát triển của thế


17

giới... Giáo dục, đào tạo là một lĩnh vực quan trọng, đặc thù; đầu tư trong lĩnh
vực giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
Do đó, trong các thời điểm khác khau, giai đoạn khác nhau, pháp luật nói
chung và pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo sẽ có những thay đổi, chuyển biến cho phù hợp.
Cũng như các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh nói chung, nội
dung của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Quy định về các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo;
- Quy định cụ thể các điều kiện trong các ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện, về cách thức đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh, thời điểm
phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo;
- Quy định về quản lý nhà nước đối với điều kiện đầu tư kinh doanh
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Cụ thể là, quy định về cơ quan có thẩm
quyền quyết định thành lập, cho phép thành lập, cho phép hoạt động, chứng

nhận đăng ký hoạt động, chứng nhận kinh doanh dịch vụ đối với các chủ thể
kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo; trình tự, thủ tục, hồ sơ đối với các
trường hợp cần có "xác nhận" của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thẩm
quyền xem xét, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm về điều kiện đầu tư
kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
1.2.3. Sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật về điều kiện đầu
tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam
Khái niệm "điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo" chưa được quy định ở bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào cho đến
khi Luật Đầu tư năm 2014 quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh
có điều kiện, trong đó có đưa ra các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Có thể thấy, trước Luật Đầu tư năm


18

2014, người ta chỉ nhắc đến nội dung đầu tư cho giáo dục mà không đề cập
đến nội dung "kinh doanh". Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu về các quy
định có tính chất điều kiện đầu tư kinh doanh đối với các chủ thể trong hoạt
động giáo dục, đào tạo thì các quy định pháp luật về điều kiện đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo tại Việt Nam được hình thành gắn liền
với chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta.
Có thể nói, sự phát triển kinh tế - xã hội và các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội có ý nghĩa chi phối đến sự phát triển của nền giáo dục, đào tạo
của mỗi quốc gia, quyết định đến các chính sách và sự tham gia đầu tư của
Nhà nước cho giáo dục, đào tạo và ngược lại sự phát triển giáo dục, đào tạo
có đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, ở các nước
như Nhật Bản, Philipin, Hàn Quốc, Inđônêxia... thì giáo dục tư thục là đại trà,
hạn chế công lập nhằm mục tiêu thỏa mãn phần lớn nhu cầu học tập của công
chúng. Nhật Bản đã thành công trong việc vận động toàn xã hội đầu tư cho

giáo dục, xây dựng một nền giáo dục rộng lớn và đa dạng trên cơ sở phát triển
hệ thống trường tư 10. Ở các nước phát triển châu Âu, Bắc Mỹ thì giáo dục
công lập và giáo dục tư thục song song phát triển. Sự khác biệt cơ bản giữa
trường công và trường tư thể hiện ở chỗ, hệ thống trường tư được phát triển
nhằm tăng khả năng lựa chọn cho người học và tăng cường tính đổi mới thích
ứng với môi trường11. Nổi bật trong mô hình giáo dục này là nền giáo dục của
Hoa Kỳ. Theo đó, giáo dục phổ thông ở Hoa Kỳ do mỗi bang chịu trách
nhiệm hoàn toàn và về cơ bản là do Nhà nước độc quyền, miễn phí; chỉ có
10% số trường phổ thông các cấp là trường tư. Trong khi đó, đối với giáo dục
đại học và sau đại học thì mỗi bang và các vùng phụ thuộc có trách nhiệm
phát triển hệ thống giáo dục đại học của địa phương mình. Ở Hoa Kỳ không
có trường do trung ương (Liên bang) quản lý. Trên thực tế, mỗi bang thường
có ít nhất một trường đại học công lập, còn khoảng 60% các trường đại học ở
10
11

Lê Quốc Hùng (2004), Xã hội hóa giáo dục. Nhìn từ góc độ pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 28.
Lê Quốc Hùng (2004), Xã hội hóa giáo dục. Nhìn từ góc độ pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nộ i, t r 29.


19

Hoa Kỳ là trường tư 12. Trong khi đó, đối với các nước Mỹ La tinh thì giáo dục
công lập là rộng lớn (chủ yếu) và giáo dục tư thục là ngoại vi (hỗ trợ) chỉ thực
hiện những nhiệm vụ mà giáo dục công lập bỏ qua13.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ thực hiện cơ chế bao cấp, Nhà nước đã bao
cấp giáo dục, không cho phép tư nhân được tham gia vào hoạt động giáo dục.
Mặc dù, Nhà nước ưu tiên kinh phí cho đầu tư giáo dục nhưng do nguồn lực
có hạn nên cơ sở vật chất và nguồn nhân lực của Ngành Giáo dục còn hạn
chế, không đáp ứng được nhu cầu về giáo dục 14. Từ năm 1986, Việt Nam bắt

đầu sự nghiệp đổi mới trên tất cả các mặt, trong đó xã hội hóa giáo dục là một
trong những nội dung đổi mới theo phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”.
Tại Việt Nam, xã hội hóa giáo dục được hiểu là chính sách huy động
mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế - xã hội tham gia vào sự
nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả
năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập15. Chủ
trương xã hội hóa giáo dục được Đảng đề cập trong Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
"...; hiện đại hóa một bước nội dung, phương pháp giáo dục; dân chủ hóa nhà
nước và quản lý giáo dục; đa dạng hóa loại hình đào tạo và loại hình trường
lớp; từng bước hình thành những trường bán công, dân lập, tư thục (dạy
nghề), phát triển loại hình vừa học vừa làm...". Trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, xã hội hóa được sử dụng với nghĩa như sau: "Các
vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp,
các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham
gia giải quyết những vấn đề xã hội".
12

Lê Quốc Hùng (2004), Xã hội hóa giáo dục. Nhìn từ góc độ pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nộ i, t r 31.
Lê Quốc Hùng (2004), Xã hội hóa giáo dục. Nhìn từ góc độ pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 29.
14
Cao Thu Hằng (2016), Chính sách xã hội hóa giáo dục và y tế ở Việt Nam hiện nay. Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 40.
15
Lê Quốc Hùng (2004), Xã hội hóa giáo dục. Nhìn từ góc độ pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 17.
13



×