Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận bạo lực gia đình đối với trẻ em tại sơn tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
II.Nội dung............................................................................................................3
1. Các khái niệm liên quan.................................................................................3
1.1. Khái niệm công tác xã hội ( CTXH)...........................................................3
1.2. Khái niệm nhân viên CTXH........................................................................3
1.3. Khái niệm gia đình......................................................................................4
1.4. Khái niệm bạo lực gia đình.........................................................................5
1.5. Khái niệm trẻ em.........................................................................................5
1.6. Bạo hành trẻ em là gì...................................................................................6
2. Tổng quan về BLGĐ đối với trẻ em tại Việt Nam.........................................6
3. Các hình thức bạo lực đối với trẻ em.............................................................8
3.1. Bạo hành thể chất........................................................................................8
3.2. Bạo hành tình dục........................................................................................9
3.3. Bạo hành tâm lý........................................................................................10
3.4. Bỏ bê..........................................................................................................11
3.5. Lạm dụng trẻ em.......................................................................................13
4. Thực trạng BLGĐ tại đối với trẻ em tại Sơn Tây – Hà Nội.........................13
4.1. Địa bàn nghiên cứu...................................................................................13
4.2. Thực trạng BLGĐ đối với trẻ em tại Sơn Tây..........................................14
4.3. Các hoạt động cung cấp cho trẻ em bị BLGĐ...........................................15
5. Nguyên nhân trẻ em bị BLGĐ.....................................................................16
6. Hậu quả của việc BLGĐ đối với trẻ em.......................................................18
7. Các biện pháp phòng tránh BLGĐ đối với trẻ em.......................................20
III.KẾT LUẬN....................................................................................................23
PHỤ LỤC............................................................................................................24


I.MỞ ĐẦU.
Theo báo cáo tình trạng trẻ em thế giới của Unicef năm 2009, hiện có
khoảng 500 triệu trẻ em bị ảnh hưởng của bạo lực chiếm khoảng ¼ tổng số trẻ


em trên thế giới. Đối với nước ta, tình trạng bạo lực trẻ em trong những năm gần
đâydiễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Trong hai năm 2008-2009, cả
nước đã xảy ra 5.956 vụ (bình quân gần 3.000 vụ một năm), trên 100 vụ giết trẻ
em và 50 vụ bắt cóc, buôn bán trẻ em được phát hiện và xử lý, trong đó có một
số vụgây bức xúc trong dư luận xã hội. Nhiều trẻ em bị chính cha mẹ, người
thân, thầy cô giáo, người sử dụng lao động và những người có trách nhiệm nuôi
dưỡng chăm sóc trẻ em có hành vi bạo lực trẻ em.
Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực ở trong và ngoài trường học của học
sinh vẫn tiếp tục xảy ra đang lànỗi bức xúc của xã hội, chưa làm an lòng các bậc
phụ huynh và những nguời quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ chăm sóc, giáo dục
trẻ em. Hiện tượng bạo lực của học sinh không phải là một hiện tượng mới, song
thời gian gần đây, hiện tượng này xảy ra ở một số trường học đã bộc lộ những
tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng như: học sinh đánh nhau gây thương tích,
thậm chí tử vong. Giáo viên sử dụng các biện pháp giáo dục có tính chất bạo lực
gây hậu quả nghiêm trọng đối với học sinh; học sinh hành hung thầy, cô giáo.
Đối tượng học sinh đánh nhau có cả nữ sinh, không phải chỉ có các nam sinh
nóng nảy, thiếu kiềm chế, thâm chí nữ sinh đánh nữ sinh theo kiểu hội đồng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực nêu trên, trước hết
phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ em chưa
đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ; nhiều thói quen, phong tục, tập quán có
hại cho trẻ em chưa được các cấp, các ngành quan tâm đấu tranh loại bỏ như
đánh con là việc ”bình thường”. Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối
với trẻ em chưa được cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan
chức năng xử lý, can thiệp kịp thời vì họ không muốn có sự ”rắc rối ”liên quan
đến họ. Nhận thức về sự nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm trọng
của các hành vi xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa được cảnh báo
1


đúng mức, đa phần những trẻ em bị ngược đãi, xâm hại và bị bóc lột có tâm lý

mặc cảm, tự ty hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội và sau này khi trưởng thành
nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự đối với người khác.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình,
cộng đồng chưa được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ chưa đầy
đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế, trẻ em
dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo
vào con đường phạm tội. Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…
cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo
lực
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu
biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng người
thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50% tổng số vụ vi
phạm) và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em
đến mức phải xử lý hình sự.
Tiếp đến là những hệ lụy của những trang web đen, trò chơi điện tử bạo
lực không thể lường trước được. Nhiều gia đình tan nát, nhiều vụ án đau lòng đã
xảy ra, nhiều trẻ em đã phải lĩnh án. Trò chơi điện tử là một thế giới ảo, ở đó
người chơi có thể làm tất cả những điều mình thích mà không bị trừng phạt. Tuy
nhiên, khi cuộc chiến trên thế giới ảo trở thành cuộc chiến thật ngoài đời thì thú
chơi này thật sự trở thành một mối nguy hiểm lớn đối với xã hội.

2


II.Nội dung.
1. Các khái niệm liên quan
1.1. Khái niệm công tác xã hội ( CTXH)
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt

động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao
hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra
các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ. CTXH tồn tại để cung cấp
các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm,
cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện cuộc sống.
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị
Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, sự
tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và
các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và
môi trường của họ.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề
xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội
lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh
xã hội tiên tiến.
1.2. Khái niệm nhân viên CTXH
Nhân viên công tác xã hội (tiếng Anh là social worker) là những người
hoạt động trong nhiều lĩnh vực, được đào tạo chính quy và cả bán chuyên
nghiệp, được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH để trợ giúp các đối
tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc sống; tạo
cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết; thúc đẩy sự tương tác
giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh hưởng tới chính sách xã
hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng
3


thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”. (Theo Hiệp hội Nhân
viên công tác xã hội quốc tế -IFSW)

Nhân viên công tác xã hội là những nhà chuyên nghiệp làm chủ những
nền tảng kiến thức cần thiết, có khả năng phát triển các kỹ năng cần thiết, tuân
theo những tiêu chuẩn và đạo đức của nghề công tác xã hội.
1.3. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các
mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,[1] quan hệ nuôi
dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua
một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những
tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách
kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho
các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp
với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh
giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người
luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở
con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn
mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội
học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm
xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét
về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội
dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến
với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì
vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết
chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con
4



người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với
nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực
hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người
1.4. Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo hành gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của
các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại… với các thành viên
khác trong gia đình” [1] (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói một
cách dễ hiểu hơn, đó là việc “các thành viên gia đình vận dụng sức mạnh để giải
quyết các vấn đề gia đình” [2].Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ
của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi như là hình thức thu nhỏ của bạo lực
xã hội với rất nhiều dạng thức khác nhau.
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ” . Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt
động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành
xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng
và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng
khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không
nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em…
1.5. Khái niệm trẻ em
Về mặt sinh học, trẻ em là con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra và
tuổi dậy thì. Định nghĩa pháp lý về một "trẻ em" nói chung chỉ tới một đứa trẻ,
còn được biết tới là một người chưa tới tuổi trưởng thành.
Trẻ em cũng có thể được hiểu trong mối quan hệ gia đình với bố mẹ
(như con trai và con gái ở bất kỳ độ tuổi nào) hoặc, với nghĩa ẩn dụ, hoặc thành
viên nhóm trong một gia tộc, bộ lạc, hay tôn giáo, nó cũng có thể bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi một thời gian, địa điểm cụ thể, hoặc hoàn cảnh, như trong "một
đứa trẻ vô tư" hay "một đứa trẻ của những năm sáu mươi "
5



Hiệp ước về Quyền Trẻ em của Liên hiệp quốc định nghĩa một đứa trẻ
là "mọi con người dưới tuổi 18 trừ khi theo luật có thể áp dụng cho trẻ em, tuổi
trưởng thành được quy định sớm hơn." hiệp nước này được 192 của 194 nước
thành viên phê duyệt. Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em của Việt Nam năm 2004
quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Một số định nghĩa tiếng Anh
của từ trẻ em bao gồm thai nhi. Về mặt sinh học, một đứa trẻ là bất kỳ ai trong
giai đoạn phát triển của tuổi thơ ấu, giữa sơ sinh và trưởng thành. Trẻ em nhìn
chung có ít quyền hơn người lớn và được xếp vào nhóm không để đưa ra những
quyết định quan trọng, và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ
1.6. Bạo hành trẻ em là gì
Theo định nghĩa của Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO), bạo hành trẻ
em bao gồm tất cả những hành vi đối xử tệ bạc về thể chất hay tinh thần, xâm
hại tình dục, lợi dụng hay bỏ bê, dẫn đến nguy hại hay khả năng nguy hại đối
với sức khỏe, nhân phẩm, hay sự phát triển của đứa trẻ.
Bạo hành có thể được thực hiện bởi cha mẹ, người trông nom, hay một
đứa trẻ lớn hơn,…v…v.
Theo Cục bảo vệ cộng đồng, trẻ em và người khuyết tật Department of
Communities, Child Safety and Disability Services của Queensland, mức độ tổn
thương của đứa trẻ không quan trọng, điều quan trọng là:
Đứa trẻ có đã bị, đang bị, hay có khả năng bị tổn thương hay không?
Đứa trẻ có phụ huynh có khả năng và sẵn sàng bảo vệ nó hay không?
Tổn thương ở đây được định nghĩa là những tác động nguy hại đáng kể
đối với sức khỏe thể chất, tâm lý, và tinh thần của đứa trẻ.
2. Tổng quan về BLGĐ đối với trẻ em tại Việt Nam
Tại Việt Nam, dù có tiến bộ trong thay đổi quan niệm và thực hành
chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhiều hình thức bạo lực đối với trẻ em như bạo lực
thân thể, xâm hại tình dục và lạm dụng lao động vẫn phổ biến. Kỷ luật bạo lực
đang diễn ra phổ biến với gần 68,4% trẻ em độ tuổi 1-14 được báo cáo là đã

từng bị cha mẹ hoặc người chăm sóc bạo lực ở nhà… Khoảng 16% trẻ em
6


(tương đương 1,7 triệu trẻ) độ tuổi 5-17 được coi là lao động trẻ em, trong đó
7,8% làm việc trong các điều kiện nguy hiểm. Tỷ lệ trẻ em gái và nữ thanh niên
15-19 tuổi đã kết hôn tăng từ 5,4% vào năm 2006 lên 11% vào năm 2015. Trong
giai đoạn 2011-2015, 5.300 vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, chủ yếu là với trẻ
em gái, đã được báo cáo…
Từ đầu năm đến nay, qua quá trình theo dõi, nắm bắt và tổng hợp của
các quận, huyện, thị xã, Sở LĐTB&XH Hà Nội đã tiếp nhận: 4 thông tin liên
quan đến trẻ em bị xâm hại tình dục, 9 thông tin liên quan đến trẻ em bị bạo
hành, 10 vụ bạo lực giới, bạo lực gia đình (trong đó nạn nhân chủ yếu là phụ nữ
và trẻ em). Tuy nhiên, những vụ việc nêu trên mới chỉ là “tảng băng nổi” chưa
phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về bạo lực gia đình và xâm hại trẻ em trên
địa bàn TP. Trên thực tế, số lượng các vụ việc xảy ra nhiều hơn thế, nhưng gia
đình nạn nhân không khai báo, tố cáo đối tượng do sợ mặc cảm, sợ ảnh hưởng
đến sự phát triển tâm lý của trẻ em và phụ nữ.
Hàng năm, Sở LĐTB&XH đều duy trì công tác tuyên truyền, PBGDPL
tới cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới của 30 quận,
huyện, thị xã và 584 xã, phường, thị trấn, đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện
viên, cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân trẻ em về chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, chú trọng các văn bản và các kỹ
năng phòng chống bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em. Sở đã chủ động trong việc
lựa chọn các hình thức tuyên truyền, PBGDPL phù hợp với từng đối tượng, nhu
cầu để mọi đối tượng được tiếp cận dễ dàng và hiệu quả cao như tổ chức tập
huấn, diễn đàn, chiến dịch truyền thông, truyền thông trực tiếp tại cộng đồng, in
ấn các sản phẩm truyền thông…

7



3. Các hình thức bạo lực đối với trẻ em
3.1. Bạo hành thể chất

Bạo hành thể chất xảy ra khi cha mẹ hay người trông nom cố tình gây
thương tích cho đứa trẻ. Một số hành vi bạo hành thể chất bao gồm:
 Đánh đập trẻ (đấm, đá, tát, nắm tóc, dùng roi, …)
 Bóp cổ trẻ, lắc trẻ thô bạo
 Ném, xô đẩy trẻ
 Làm phỏng, đốt trẻ
 Cắn trẻ
 Bỏ độc trẻ
Và tất cả các hành vi có khả năng gây thương tích về mặt thể chất khác.

8


3.2. Bạo hành tình dục

Bạo hành tình dục có thể là về mặt thể xác (touching), hoặc về mặt tinh
thần (non-touching). Các hành vi bạo hành tình dục bao gồm:


Về mặt thể xác (touching):

 Xâm phạm thân thể đứa trẻ (penetrate) bằng một bộ phận cơ thể hoặc một
vật nào đó
 Mơn trớn hoặc đụng chạm trẻ một cách không phù hợp
 Bắt ép (hay yêu cầu) trẻ đụng chạm bộ phận sinh dục của người lớn hoặc

theo một cách gợi dục


Về mặt tâm lý (non-touching):

 Cho trẻ tiếp xúc với văn hóa phẩm đồi trụy
 Phô trương, phô bày một cách không đúng đắn, phản cảm trước mặt trẻ
 Cố tình thủ dâm trước mặt trẻ
 Cố tình quan hệ tình dục trước mặt trẻ
 Dùng trẻ để sản xuất các sản phẩm khiêu dâm (phim, ảnh, quảng cáo,…
v..v)
 Các hành vi xâm phạm tình dục khác ở trẻ
9


3.3. Bạo hành tâm lý.

Bạo hành tâm lý xảy ra khi phụ huynh hay người chăm nom gây nguy
hại đến sự phát triển tinh thần và kỹ năng xã hội của đứa trẻ, hay để lại chấn
thương tâm lý đáng kể cho đứa trẻ. Một số hành vi bạo hành tâm lý trẻ em bao
gồm:


Từ chối hay bỏ bê (Rejecting or ignoring):

 Nói với trẻ rằng không ai yêu thương hay mong muốn trẻ
 Thể hiện rằng mình chả hứng thú gì với trẻ
 Không thể hiện hay đáp trả tình yêu thương
 Cắt lời trẻ trong các cuộc đối thoại
 Mặc kệ trẻ cảm thấy gì, muốn nói gì,…v….v




Nhạo báng hay nhục mạ (Humiliating or shaming):

 Gọi trẻ bằng những tên gọi mang tính hạ thấp nhân phẩm
 Chỉ trích, nhục mạ, nhạo báng trẻ
 Sử dụng ngôn ngữ hay thực hiện những hành vi nhầm phá hủy lòng tự
10


trọng của trẻ
Khủng bố tinh thần (Terrorizing):



 Đập phá đồ, la, thét vào mặt trẻ
 Vu khống, đỗ thừa trẻ
 Đe dọa hoặc phạt trẻ bằng hình thức bỏ rơi, đánh đập tàn bạo hay thậm
chí là giết chết
 Thiết lập mọi thứ để trẻ thất bại
 Thao túng trẻ
 Lợi dụng điểm yếu của trẻ, hay sự phụ thuộc của trẻ
Ngoài ra, một thủ thuật thường được sử dụng để bạo hành trẻ em là
Gaslight. Thủ thuật này khiến cho trẻ mất đi niềm tin vào chính mình, nghi ngờ
chính cảm xúc và suy nghĩ của mình, tin rằng chính mình là người mất trí.
3.4. Bỏ bê

Bỏ bê xảy ra khi phụ huynh hay người chăm nom không cung cấp cho
trẻ sự quan tâm, giám sát, ủng hộ và tình cảm mà trẻ cần. Bỏ bê có thể được chia

thành 4 nhóm: Bỏ bê về mặt vật chất, Bỏ bê về mặt tinh thần, Bỏ bê về mặt sức
khỏe, Bỏ bê về mặt giáo dục.


Bỏ bê về mặt vật chất:

11


 Một số hành vi bỏ bê trẻ vê mặt vật chất bao gồm:
 Bỏ rơi trẻ hay từ chối trách nhiệm với đứa trẻ dưới sự giám hộ của mình.
 Không cho trẻ ăn uống, hay chỉ cho trẻ ăn những thức ăn thiếu dinh
dưỡng, dơ bẩn
 Không cho trẻ ăn bận đầy đủ.
 Không làm vệ sinh cho trẻ (đặc biệt là với trẻ nhỏ chưa có khả năng tự
làm vệ sinh cho mình).
 Bắt trẻ phải sống trong môi trường dơ bẩn, không an toàn.
 Bỏ trẻ cho người không phù hợp trông nom


Bỏ bê về mặt tinh thần:

 Một số hành vi bỏ bê về mặt tinh thần bao gồm:
 Mặc kệ nhu cầu cần được chú ý, chăm sóc, động viên, yêu thương của trẻ.
 Mặc kệ cho trẻ sử dụng chất có cồn, chất kích thích hay phạm tội.
 Cô lập trẻ khỏi bạn bè và người thân.


Bỏ bê về mặt sức khỏe:


 Một số hành vi bỏ bê về mặt sức khỏe bao gồm:
 Không đem trẻ đến bệnh viện hay gặp bác sĩ trong tình trạng nguy cấp
 Ngăn cản không cho trẻ được chăm sóc sức khỏe.
 Không thực hiện những biện pháp phòng chóng bệnh cho trẻ.
 Không thực hiện những hướng dẫn chăm sóc của bác sĩ đối với trẻ.



Bỏ bê về mặt giáo dục:

 Một số hành vi bỏ bê trẻ về mặt giáo dục:
 Mặc kệ việc trẻ trốn học, bỏ học.
 Không tạo điều kiện cho trẻ đến trường.
 Không cho trẻ đến những lớp học chính quy, bắt buộc.

12


3.5. Lạm dụng trẻ em

Lạm dụng trẻ em là hành vi sử dụng trẻ nhỏ để thu được sức lao động,
lợi nhuận, thỏa mãn ham muốn tình dục, hay những lợi ích cá nhân khác. Lạm
dụng trẻ em thường dẫn đến việc đối xử tàn bạo với trẻ nhỏ, để lại hậu quả rất
sâu cho đứa trẻ và xã hội.
Một số hành vi lạm dụng trẻ em bao gồm:
 Bắt trẻ em làm ăn xin để thu được lợi nhuận từ đó.
 Bóc lột sức lao động của trẻ em (bắt trẻ em làm việc nặng nhọc, nguy
hiểm, khổ sai và chỉ trả rất ít hoặc không trả lương).
 Sử dụng trẻ để làm phim ảnh khiêu dâm.
 Buôn bán trẻ em.

Và nhiều hành vi tương tự khác.
4. Thực trạng BLGĐ tại đối với trẻ em tại Sơn Tây – Hà Nội
4.1. Địa bàn nghiên cứu.
Sơn Tây là một thị xã trực thuộc thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Do địa bàn

13


sinh tụ nên địa danh này luôn là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của
khu vực phía tây bắc thủ đô Hà Nội.
Địa giới hành chính thị xã Sơn Tây:
 Phía đông giáp huyện Phúc Thọ
 Tây giáp huyện Ba Vì
 Phía nam giáp huyện Thạch Thất
 Phía bắc giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thị xã Sơn Tây có diện tích là 11.346,85 ha và dân số là 320.000 người.
Sơn Tây gồm 9 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang
Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn, Xuân Khanh và 6 xã:
Cổ Đông, Đường Lâm, Kim Sơn, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân Sơn.
4.2. Thực trạng BLGĐ đối với trẻ em tại Sơn Tây
Ông Hoàng Văn Tiến - Phó cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
(Bộ LĐTB&XH) đã có cuộc trao đổi với PV Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về
vụ án giết người, hiếp dâm trẻ em xảy ra tại thị xã Sơn Tây (Hà Nội) vào ngày
29/7 vừa qua.
Ông Tiến cho hay, ngay khi thông tin về sự việc được báo chí đăng tải,
Cục đã có chỉ đạo tới Sở LĐTB&XH thành phố Hà Nội nắm tình hình, xem xét
thực tế hoàn cảnh gia đình để có sự hỗ trợ gia đình nạn nhân và có báo cáo một
cách cụ thể.
Đồng thời Cục cũng phối hợp cùng phía công an để có đánh giá, xem
xét để Cục báo cáo lên Bộ LĐTB&XH. Hiện Cục cũng đã có kế hoạch về việc

thăm hỏi gia đình nạn nhân, động viên gia đình chăm sóc sức khỏe cho cháu H.
Từ vụ việc vừa xảy ra tại thị xã Sơn Tây, ông Tiến cho biết về thực
trạng xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam đang ở
mức báo động, có diễn biến phức tạp và tính chất, mức độ ngày càng nghiêm
trọng hơn.
Đáng nói là tính chấy của các vụ xâm hại trẻ em đặc biệt nghiêm trọng

14


báo động về sự suy đồi đạo đức, đi ngược nếp sống thuần phong mỹ tục như:
hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ dưới tuổi, hiếp rồi giết, ông hiếp cháu,… Sự loạn
luân trong các vụ hiếp dâm trẻ đang diễn ra ngày càng phổ biến trên cả nước.
Thời gian vừa qua, liên tiếp xảy ra các vụ xâm hại trẻ em đặc biệt
nghiêm trọng, xâm hại tình dục trẻ em cũng ngày một gia tăng. Đối tượng phạm
pháp cũng ở nhiều lứa tuổi khác nhau, từ những đối tượng chưa tới tuổi vị thành
niên cho đến những đối tượng ngoài 70 tuổi.
Đặc biệt hơn là việc các đối tượng bị xâm hại có độ tuổi ngày càng
giảm xảy ra nhiều hơn. Hà Nội, chỉ riêng ngày 29/7 đã xảy ra 2 vụ hiếp dâm trẻ
em, một là vụ hiếp dâm trẻ em, giết cháu gái 4 tuổi tại Sơn Tây và vụ việc một
thanh niên hiếp dâm cháu bé chưa đầy 13 tuổi tại Hoài Đức.
4.3. Các hoạt động cung cấp cho trẻ em bị BLGĐ
Chiều 21/9, tại Trường tiểu học Lê Lợi – Sơn Tây, Ban Thường vụ Thị
đoàn phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thị xã tổ chức diễn
đàn chủ đề "Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em".
Tham gia diễn đàn, 140 em học sinh Trường tiểu học Lê Lợi trao đổi,
thảo luận về những vấn đề liên quan đến phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em;
đồng thời đưa ra nhiều câu hỏi xoay quanh những vấn đề xã hội đang quan tâm
như: Nguyên nhân dẫn đến trẻ em bị xâm hại tình dục; biểu hiện của xâm hại;
bạo lực trẻ em tại gia đình và học đường; các biện pháp phòng chống bạo lực,

xâm hại trẻ em… Lãnh đạo các phòng, ban, ngành chức năng đã giải đáp vấn đề
về thực trạng, băn khoăn, thắc mắc trong cách bảo vệ, chăm sóc trẻ em và đưa ra
giải pháp thiết thực nhằm đáp ứng nguyện vọng của các em về phòng chống bạo
lực, xâm hại. Qua đó góp phần để các cấp chính quyền, cơ quan, ban ngành chức
năng thấu hiểu, nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác phòng chống bạo
lực, xâm hại trẻ em nhằm xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và giúp
trẻ em phát triển toàn diện.
Ngày 9/10, UBND thị xã Sơn Tây phối hợp với Trung tâm nghiên cứu
và ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ và vị thành niên tổ chức hội
15


thảo giới thiệu dự án 'Bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi các hình thức bạo lực
tình dục'.
Thông qua các hoạt động của dự án, vấn đề xâm hại trẻ em thu hút số
lượng lớn sự chú ý của công chúng; thúc đẩy những trường hợp xâm hại tình
dục trẻ em điển hình tiếp cận công lý; chợ Bãi Đá trở thành nơi giao lưu, chia sẻ
thông tin về bạo lực gia đình của người dân; chị em tiểu thương tại chợ Bãi Đá
biết cách hỗ trợ lẫn nhau...
Thời gian tới, dự án “Bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi các hình thức
bạo lực tình dục” trên địa bàn thị xã sẽ tập trung vào xây dựng mô hình chợ vui
tại xã Sơn Đông, Cổ Đông trong đó xây dựng mỗi xã một câu lạc bộ dành cho
nạn nhân bạo lực giới, xây dựng các địa chỉ an toàn tại 2 xã, thiết kế sách cho
người bị bạo lực, có các buổi nói chuyện dành cho nam giới tại 2 xã; tổ chức hội
thảo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ thị xã và xã; hỗ trợ nạn nhân...
Cũng tại hội thảo, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa
học về giới - gia đình - phụ nữ và vị thành niên, Phòng Văn hóa, xã Sơn Đông,
đại diện Hội Phụ nữ xã Cổ Đông và chị em tiểu thương chợ Bãi Đá đã chia sẻ,
trao đổi, đưa ra các giải pháp nhằm huy động sự tham gia của chính quyền địa
phương trong việc phối hợp thực hiện dự án đảm bảo mục tiêu, mục đích và tính

bền vững của dự án
5. Nguyên nhân trẻ em bị BLGĐ
Các nghiên cứu về tâm lý trẻ em cũng cho rằng: những đứa trẻ không
được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng,
thích sử dung bạo lực, thậm chí bất cần, dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trẻ em trong gia đình,
trước hết phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ
em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ, nhiều thói quen, phong tục, tập
quán như văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” bấy lâu nay
khiến cho người ta coi chuyện đánh con là “bình thường” đó là quyền của cha
mẹ phải dạy cho con nên người. Do thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung và
16


pháp luật về quyền trẻ em nói riêng, chưa được các cấp, các ngành quan tâm,
đấu tranh loại bỏ, tuyên truyền nâng cao hiểu biết cho các bậc cha mẹ về quyền
trẻ em.
Từ việc gia đình không có được một chức năng bình thường, cho đến
sự thiếu thông đạt, sự khiêu khích của người phối ngẫu, hay sự dồn nén tâm lý
của một người, hoặc vì các chất kích thích như rượu, thuốc, hoặc vì thiếu một
cuộc sống tâm linh, cho đến những sự khó khăn về kinh tế, vv đều dẫn đến bạo
hành trẻ em. Kết quả của những sự nghiên cứu về bạo hành đã chứng minh rằng
những người có hành vi bạo lực thường muốn chế ngự người khác. Một người
có hành vi bạo lực chẳng những có thể dùng vị trí thượng phong về thể lý, mà
còn có thể dùng những khả năng trỗi vượt về tinh thần, tâm lý, về kiến thức, uy
quyền, sự thông đạt, và ngay cả về phương diện mầu da, hay tiếng nói ...
Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em chưa được
cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức năng xử lý, can
thiệp kịp thời vì họ không muốn có sự “rắc rối” liên quan đến họ. Nhận thức về
sự nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm trọng của các hành vi xâm hại

tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa được cảnh báo đúng mức, đa phần những
trẻ em bị ngược đãi, xâm hại và bị bóc lột có tâm lý mặc cảm, tự ti hoặc tâm lý
thù hận đối với xã hội và sau này khi trưởng thành nhiều em trong số đó cũng
ứng xử tương tự đối với người khác.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia
đình, cộng đồng chưa được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ chưa
đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế, trẻ
em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi
kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…
cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ bị bạo lực.
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu
17


biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng người
thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50% tổng số vụ vi
phạm) và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em
đến mức phải xử lý hình sự.
Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ trẻ em còn nhiều khoảng trống, chưa
có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng; chưa có quy định
đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác từ trẻ em. Môi trường xã hội còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ dẫn đến bạo lực trẻ em như: Cha mẹ bị cuốn vào tệ nạn xã hội,
nghiện hút, cờ bạc, rượu chè; cha mẹ mâu thuẫn hoặc ly hôn, lối sống ích kỷ,
thiếu trách nhiệm với con cái.
6. Hậu quả của việc BLGĐ đối với trẻ em
Bạo hành trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất của trẻ
hoặc nguy hại hơn, khiến trẻ có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Bạo hành cũng
làm trẻ không thể phát triển về thể chất một cách bình thường. Trẻ có thể trở nên

còi cọc, chậm lớn, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, nước da tái, môi nhợt nhạt, ánh
mắt đờ đẫn bạc nhược hoặc hung dữ… Khi những bệnh nhân được điều trị có
hiệu quả, nước da của họ đều trở nên đẹp hơn, ánh mắt trong sáng hơn…
Bạo hành cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của trẻ.
Sức khỏe tâm thần tốt là sự thoải mái, không lo lắng, là cảm giác được hưởng
thụ cuộc sống. Sức khỏe tâm thần tốt cũng biểu hiện qua những hành vi, ứng xử
hợp lý. Bệnh về sức khỏe tâm thần không phải chỉ là biểu hiện điên loạn, có
những hành vi hoang tưởng, ảo giác…
Khi bị bạo hành, có hai phản ứng ở trẻ thường xảy ra. Nếu biểu hiện ra
bên ngoài, trẻ có thể thay đổi tính nết. Đang hiền lành, trẻ bỗng trở nên hung
bạo, hay cáu gắt, khóc lóc, thậm chí đánh đập người khác hoặc độc ác với thú
vật. Loại thứ hai là cách phản ứng thu mình lại. Trẻ trở nên lo lắng, buồn phiền,
xa lánh mọi người, không thích tiếp xúc và luôn mang cảm giác sợ sệt.
Tuy nhiên, điều đặc biệt lưu ý là việc bạo hành trẻ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tất cả những hành
18


động như đánh đập, vùi dập, khủng bố, làm nhục đều khiến đứa trẻ thiếu tự tin,
rụt rẻ, luôn trong trạng thái thảng thốt. Bị bạo hành, trẻ dần dần hình thành một
nhân cách nhút nhát, tự ti, thiếu sự khẳng định mình khi mà trong cuộc sống có
biết bao điều cần khẳng định bản thân mỗi người. Thử thách trong cuộc sống là
rất nhiều. Riêng học tập cũng đã là một chuỗi thử thách nặng nề. Nếu suốt ngày
bị đánh đập, chửi bới, nhiếc móc, chắc chắn trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn tinh
thần. Một đứa trẻ không được yêu thương, làm sao biết yêu thương? Một đứa trẻ
chịu sự giáo dục bằng roi vọt dễ có hành vi độc ác khi trưởng thành. Biểu hiện
lúc nhỏ của trẻ có thể đơn giản là hung bạo, hay cáu gắt, khó tính, nhưng khi lớn
lên, trẻ có thể trở thành một con người cục cằn, lỗ mãng và độc ác. Sống trong
môi trường không lành mạnh, bị bạo hành hoặc chứng kiến sự bạo hành, trẻ sẽ
có quan niệm sống lệch lạc, không biết tôn trọng người khác và cũng không biết

tôn trọng chính bản thân mình.
Bạo hành cũng ảnh hưởng đến sự thành công trong tương lai của trẻ.
Trước hết, những cách giáo dục phản giáo dục, giáo dục sai phương pháp là một
tác nhân quan trọng khiến trẻ không thích đến trường, không thích đi học. Khi
không thích học, trẻ không thể tiếp thu kiến thức. Điều này rất tai hại. Học kém,
bị điểm thấp, bị trách phạt từ gia đình đến nhà trường, trẻ trở nên kém tự tin, dần
dẫn đến u lì, mụ mị đầu óc, dễ bị những cám dỗ bên ngoài ảnh hưởng đến như:
Kết bè đảng với những đứa trẻ giống mình, bỏ nhà đi lang thang, hút thuốc lá,
thậm chí nghiện ma túy. Một điều mà các bậc phụ huynh nên lưu ý: Hút thuốc
khi còn ở tuổi vị thành niên cũng là một biểu hiện rối loạn hành vi. Càng bị trách
phạt, trẻ càng có nguy cơ rối loạn hành vi nhiều hơn. Chỉ một cái tát của cô giáo
đôi khi cũng là một vết thương khó phai mờ trong tâm trí của trẻ, khiến trẻ trở
nên tự ti. Cá biệt có trường hợp còn làm thay đổi cả tính cách của một con
người.
Một tác hại cũng không thể không nhắc tới, đó là việc bạo hành, làm
nhục có thể khiến trẻ trở nên mất lòng tự trọng. Khi liên tục bị đánh đập, hành
hạ hoặc bị làm nhục dưới mọi hình thức, trẻ trở nên mất lòng tự trọng, lì lợm,
19


ngang bướng, và không còn coi chuyện vi phạm lỗi là quan trọng. Trẻ sẵn sàng
không tôn trọng người khác nơi công cộng, có những hành vi mà người có lòng
tự trọng không bao giờ làm. Trẻ cũng trở nên vô cảm, không biết lên án những
hành vi phi đạo đức của người khác.
7. Các biện pháp phòng tránh BLGĐ đối với trẻ em
Nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng lực
của gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc chủ động phòng ngừa có hiệu
quả các hành vi bạo lực, xâm hại đối với trẻ em. Thực hiện các hoạt động truyền
thông, giáo dục, phổ biến kiến thức, pháp luật, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên, cộng đồng và bản thân trẻ

em.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em; sửa đổi, bổ
sung Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, trong đó xác định rõ quyền
hạn, trách nhiệm và vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà
trường, gia đình và các cá nhân trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em, đáp ứng các
nhu cầu chăm sóc và bảo vệ an toàn cho mọi trẻ em; bổ sung một chương riêng
về bảo vệ trẻ em nhằm tăng khả năng phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ xâm
hại, bạo lực trẻ em; bổ sung những quy định, chế tài cụ thể về các hành vi xâm
hại, bạo lực đối với trẻ em; quy định rõ các thủ tục và quy trình phòng ngừa, trợ
giúp và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại, bạo lực, trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân
phòng ngừa các hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Internet, trong đó có những
quy định cụ thể về việc quản lý các trang web, các trò chơi game online trực
tuyến nhằm tiếp thu những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, phát huy
khả năng tư duy, sáng tạo của giới trẻ, đồng thời hạn chế tối đa những tiêu cực
mà loại hình giải trí này gây ra.
Cần phải thực hiện tốt công tác tư vấn, tham vấn học đường và phát
huy vai trò của công tác Đoàn, Đội. Môi trường gia đình có tác động tích cực
20


đến việc hình thành nhân cách, do đó cha mẹ phải là tấm gương tốt để con cái
noi theo. Chính quyền địa phương phải quan tâm, chăm lo cho trẻ em. Cộng
đồng không vô cảm trước những nguy cơ trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp liên
ngành trong đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức trong việc
thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ cán bộ xã hội,
cộng tác viên, tình nguyện viên đến tận thôn, xã…

Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
Nhà trường trong việc quản lý giáo dục trẻ em, cần phải thực hiện tốt công tác tư
vấn, tham vấn học đường và phát huy vai trò của công tác Đoàn, Đội. Môi
trường gia đình có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách, do đó cha
mẹ phải là tấm gương tốt để con cái noi theo. Chính quyền địa phương phải
quan tâm, chăm lo cho trẻ em. Cộng đồng không vô cảm trước những nguy cơ
trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
- Xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho mọi trẻ em nhằm
phòng ngừa có hiệu quả các hành vi xâm hại bạo lực đối với trẻ em; ngăn ngừa
trẻ em vi phạm pháp luật, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả việc xây dựng xã
phường phù hợp với trẻ em theo Quyết định số 37/2010/QĐ-TTg ngày
22/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn xã, phường
phù hợp với trẻ em. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “ Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
+ Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp liên
ngành trong đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức trong việc
thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ cán bộ xã hội,
cộng tác viên, tình nguyện viên đến tận thôn, bản, khu, ấp…
+ Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ
em, bao gồm: Dịch vụ bảo vệ trẻ em trong gia đình (dịch vụ tư vấn, tham vấn
21


gia đình và trẻ em; các trung tâm, điểm công tác xã hội trẻ em …); Dịch vụ bảo
vệ trẻ em ngoài môi trường gia đình (cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em,
trường giáo dưỡng..); Dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp dành cho trẻ em bị xâm hại, bạo
lực.

22



III.KẾT LUẬN
Chúng ta chưa có điều tra quốc gia về bạo lực trẻ em, đặc biệt là trẻ em
gái; chưa có các nghiên cứu xác định rõ ràng về tất cả các hình thức bạo lực với
trẻ em nói chung và trẻ em gái nói riêng. Do đó, cần nhiều bằng chứng hơn để
cung cấp thông tin cho việc hoạch định chính sách: Nghiên cứu kết hôn sớm;
đánh giá bạo hành trẻ em trực tuyến, gánh nặng của nghiên cứu bạo hành trẻ
em...
Cần thúc đẩy việc rà soát, xây dựng, điều chỉnh luật pháp, quy định để
cấm các hình thức bạo hành, xâm hại trẻ em trong trường học, gia đình, trên môi
trường mạng, các khu vui chơi giải trí và ngoài cộng đồng; củng cố việc thi hành
luật pháp liên quan tới bạo hành, xâm hại trẻ em và có những giải pháp tích cực
về mặt chính sách quốc gia và địa phương để phòng ngừa và hỗ trợ nạn nhân;
thúc đẩy các thảo luận với Bộ Giáo dục về việc cần biên soạn chương trình giáo
dục bình đẳng giới và bảo vệ trẻ em từ bậc tiểu học tới trung học phổ thông; đẩy
mạnh công tác giám sát, thanh tra việc thực thi pháp luật, chính sách về bảo vệ
trẻ em; đặc biệt, trong việc giải quyết các vụ xâm hại tình dục, bạo lực với phụ
nữ và trẻ em gái, các cán bộ thực thi pháp luật cần có nhạy cảm giới cũng như
kiến thức, kỹ năng làm việc với những nhóm dễ tổn thương...

23


PHỤ LỤC












Giáo trình phòng chống bạo lực gia đình
Giáo trình chính sách xã hội
Giáo trình an sinh xã hội
Giáo trình công tác xã hội cá nhân và gia đình
/> /> /> /> />%8B_x%C3%A3)
/>
24


×